Những bài
cùng tác giả
Nghe 22 bài phỏng vấn của đài RFA về chương trình Cải
Lương Việt Nam

Ảnh Trần Quang Minh
Tuy sanh sau đẻ muộn, so với
Hát Chèo, Hát Bội (hát tuồng), Hát Cải lương trong một thời gian rất ngắn
không hơn 80 năm đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam
bộ và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam.
Một bộ môn nghệ thuật được coi
là "truyền thống" khi nào bộ môn ấy :
1.
Do người Việt sáng tạo trên đất nước Việt Nam cho người Việt Nam.
2.
Đã được cha truyền, con nối từ thế hệ này qua thế hệ khác
3.
Đã chịu thử thách của thời gian
4.
Hiện nay vẫn còn tồn tại và được người Việt Nam thưởng thức
1. Do người Việt sáng tạo trên
đất nước Việt Nam cho người Việt Nam.
Dựa trên ý nghĩa Hán Việt của
từ "Cải lương" chúng ta thấy cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn. Thực
vậy, cải lương được thay đổi từ Hát Bội mà người ta gọi là Cải lương tuồng
cổ. Người nghệ sĩ cải lương có cách múa, hát, mặc xiêm y giống như một sân
khấu Hát Bội. Đây là sự thay đổi nhẹ nhàng, là khởi đầu của Cải lương.
5. Bài bản : Các bản đờn
trong truyền thống tài tử : Bài Bắc nhỏ, các bài Nam, Xuân Ai Đảo, đặc biệt
bài Dạ cổ hoài lang và sau nầy trở thành Vọng cổ. Và sau này có thêm những
bài hơi Quảng , và những bản nhạc mới sáng tác theo phong cách cổ như loại
Trăng Thu Dạ Khúc.
Năm 192O Gánh
Tân Thinh có 2 câu đối treo trước sân khấu :Cải
cách hát ca theo tiến bộ
Lương
truyền tuồng tích sánh văn minh
2. Đã được cha truyền, con nối
từ thế hệ này qua thế hệ khác
Thật vậy, nhìn lại nghệ thuật
sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lão thành có
mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong
gánh Cải Lương của Thày Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm
Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trà Ôn ... Những người nghệ sĩ này đã
truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày này không ai là không
biết đến như NSUT Kim Cương, nghệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ Út
Bạch Lan, nghệ sĩ Hữu Phước, NSND Thanh Tòng, NS Việt Hùng ... Sau nữa còn
có NS Hùng Cường, NSUT Bạch Tuyết, NS Thanh Sang, NSUT Ngọc Giàu, NSUT Lệ
Thuỷ, NS Mộng Tuyền, NS Đỗ Quyên, NS Hoài Thanh ... Và tiếp theo sau là thế
hệ mới ngày nay người ta không thể quên có một Hương Lan (con gái nghệ sĩ
Hữu Phước), Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long ... Bây giờ đã có Quế
Trân (con gái nghệ sĩ Thanh Tòng), Thi Trang, Lê Tứ ... trong số nghệ sĩ Lão
thành và trẻ tuổi mà chúng tôi không thể kể hết.
Như thế, "Cải lương" quả đã
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cải lương cũng đã được thay đổi
qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm mà
"hình thức cải lương" đứng ở vị trí nào phù hợp thì được tồn tại và phát
triển, còn "hình thức cải lương" nào không phù hợp, không được quần chúng
ủng hộ thì bị đào thải. Đó chúng tôi gọi là tánh chất "Động" và "Mở" của cải
lương .....
Điểm sơ qua một số gánh hát Cải
lương được thành lập từ những ngày đầu và những phong cách dàn dựng sân
khấu, biên soạn kịch bản, chúng ta thấy rằng Cải lương đã có một bề dày lịch
sử :
1920: Ba gánh
Tân Thinh, Văn Hí ban, Tập ích Ban
1925: Phước
Cương
1927: Phụng
Hảo (Cô 7 Phùng Há) và Gánh Đồng Nữ Ban của Bà Trần Ngọc Viện (rất đặc biệt
vì gánh hát diễn viên toàn là nữ giới mà tiền lời của vé thâu, sau khi trang
trải cho gánh thì được chuyển đến giúp những đoàn thể Cách Mạng)
1934: Sau
loại Tuồng Cổ có thêm Tuồng Phật
1936: Tuồng
Tiên, Phong Thần
1937: Tuồng
La Mã
1947:
Tuồng "Cắc bùm"
1948: Việt
Kịch Năm Châu : Tuồng Xã hội
1953: Gánh
Năm Châu dựng tuổng “Tây Thi gái nước Việt”
1960: Cải
lương Hồ Quảng
Nhiều gánh
nổi tiếng Thanh Minh-Thanh Nga, Kim Chung ...
Sau ngày
Đất nước thống nhứt : Sài gòn 1, Sài gòn 2, Trần Hữu Trang ...
3. Đã chịu thử thách của thời
gian
Trải qua nhiều thế hệ, từ đầu những năm của thế kỷ 20, Cải lương vẫn liên
tục thay đổi cho ngày một hay hơn nhưng phù hợp với phong cách thưởng ngoạn
nghệ thuật của quần chúng Nam bộ.
Liên tục có nhiều gánh Cải lương được thành lập, những vở tuồng được dàn
dựng. Hiện tại nhà nhiếp ảnh, nhà báo, nhà văn Huỳnh Công Minh còn lưu trữ
hơn 500 phim chụp lại những vở tuồng đã được biểu diễn có đủ tên tác gỉa
kịch bản, nơi biểu diễn, tên rạp hát, tên gánh hát, tên của ông/ bà bầu và
tên của các diễn viên chánh. Nếu kể thêm các vở tuồng mà không được ghi lại
thì chúng ta còn có thể có nhiều hơn nữa. Sau bao nhiêu lần biến chuyển và
định hình, Cải lương vẫn còn giữ được bản sắc của nó mà điển hình cho đến
ngày nay người ta vẫn diễn và thưởng ngoạn lại những vở tuồng kinh điển như
: Đời Cô Lựu (Trần Hữu Trang), Sân khấu về khuya ( Năm Châu) ...
4. Hiện nay vẫn còn tồn tại và
được người Việt Nam thưởng thức
Ngày nay người ta vẫn yêu mến bộ môn này bởi vì bên cạnh những sân khấu
kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật Cải lương đã luôn định
hình trong lòng khán gỉa và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tồn, lưu giữ.
Trong mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tòng, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết
... có tổ chức những đêm Cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã
được khán gỉa yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ Cải lương.
Những chương trình truyền hình như Cánh chim không mỏi, Vầng trăng Cổ nhạc
được đông đảo khán giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9 thường
xuyên phát sóng nhiều vở tuồng Cải lương mới, cũ.
Có dịp ra nước ngoài, người ta vẫn nghe tiếng hát của các nghệ sĩ trẻ
Việt kiều hát Cải lương hoặc bà con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm
việc để mua được tại phòng vé một chỗ xem trình diễn "Cải lương" mà nghệ sĩ
từ Việt Nam qua biểu diễn. Đặc biệt bên Pháp và bên Mỹ, Cải lương rất thịnh
hành. Nhiều nghệ sĩ Cải lương tại hai nước đó, chẳng những diễn lại những vở
tuồng xưa mà gần đây đã dàn dựng những vở mới.
Kết luận :
Cải lương
có khả năng thực hiện những đề tài mới do tánh cách động (đôi khi không khéo
áp dụng, thì “ Động” thành “Loạn”) đã là một nghệ thuật dân gian, xuất phát
từ miền Nam và lần lần được dân tộc cả 3 miền ưa thích. Những đề tài mới này
không những lựa đề tài trong lịch sử của Trung quốc hay của Việt Nam mà còn
có cả nhiều đề tài khác như tệ đoan trong xã hội ( "tứ đổ tường"), đề tài về
tình yêu, về gia đình, về chiến tranh, về tôn giáo và tín ngưỡng ...
Cải lương
dễ chấp nhận những phong cách biểu diễn mới du nhập những cách múa của hát
Tiều, hát Quảng kể cả những làn điệu của phương Tây hay các nước Nhựt Bổn,
Trung Quốc ... nhưng nếu không phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt
Nam Nam bộ thì các phong cách và bài bản ấy đều bị sa thải.
Mặc dầu đã
chuyển hướng bao nhiêu lần, Cải lương được định hình trong những năm gần
đây, tìm lại bản sắc dân tộc Việt Nam. Như Cải lương Hồ Quảng lúc đầu thường
dùng nguyên những làn điệu Quảng Đông như "Phảnh phá", " Chống bản", còn Hồ
Quảng ngày nay có những bài mới do người Việt sáng tác có chút hơi Quảng của
nhạc tài tử.
Tuy thời
gian từ lúc thành lập đến nay chưa đầy một thế kỷ nhưng số kịch bản và gánh
hát cho chúng ta thấy rằng sau bao nhiêu thử thách và thay đổi Cải lương
ngày nay đã rút bao nhiêu kinh nghiệm và những vở tuồng của soạn gỉa Lê Duy
Hạnh cho chúng ta được một chút lạc quan rằng Cải lương đang tiến đến một
hình thức nghệ thuật sân khấu, đẹp trong hình thức lẫn nội dung và mang tính
truyền thống đặc biệt của người dân Nam bộ.
© http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trần Văn Khê
|