Nếu kinh đô Thăng Long xưa từ
trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng
dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời
vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong
dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là
Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là
một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà
chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền
thống[1]
và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.
Ca Huế mang sắc thái địa phương
rõ nét bởi nó gắn chặt với đặc điểm ngữ âm ngữ điệu của giọng nói Xứ Huế,
hoặc nói một cách khác mang tính hệ quả là do mối quan hệ gắn bó với nền âm
nhạc dân gian - dân ca xứ Huế. Đây là một đặc điểm trong tiến trình phát
triển của Ca Huế và cũng là một đặc điểm của nền âm nhạc cổ truyền xứ Huế ;
nơi mà hai thành phần âm nhạc : chuyên nghiệp bác học (nhạc Cung
đình, Ca Huế), thành phần dân gian (dân ca : Hò, lý...) thường xuyên
tác động qua lại, gắn bó, thâm nhập, thúc đẩy lẫn nhau với hiện tượng dân
gian hóa ở âm nhạc bác học và bác học hóa ở âm nhạc dân gian xảy
ra liên tục trong quá trình phát triển.

Một buổi sinh hoạt Ca Huế tại
tư gia. Ảnh chụp năm 1977
Dù Ca Huế mang rõ nét tính chất
đặc thù địa phương nhưng nó đã không chỉ bó hẹp trong một xứ Huế. Ngoài yếu
tố đặc thù và một số đặc điểm vốn có của mọi thể loại nhạc cổ truyền thì
nghệ thuật Ca Huế vẫn là khởi nguyên từ văn hóa nghệ thuật cội nguồn Thăng
Long, hội tụ từ truyền thống văn hóa âm nhạc dân tộc. Vì vậy trong
giai đoạn thịnh đạt đã lan tỏa trở lại với cội nguồn, thâm nhập và
trở thành một thành phần tương hợp trong hầu hết dân ca vùng Trung du và
đồng bằng Bắc bộ. Chẳng hạn : hơi Huế, giọng Lý, giọng Kinh
ở khối giọng Vặt, giọng Ngoại trong hát Quan họ, hát Xoan, hát
Ghẹo, hát Chèo v.v... Hướng phát triển về phía Nam của Ca Huế thì rõ ràng đã
sản sinh ra lối nhạc tài tử như nhà nghiên cứu Gs. Trần Văn Khê nhận
xét : "lối "nhạc tài tử" trong Nam là con đẻ của lối "ca Huế" miền Trung".
Nói là Ca Huế gắn với ngữ âm
của giọng nói Xứ Huế, mà giọng Huế thì không chuẩn như Hà Nội trong vấn đề
xử lý các dấu giọng, nên với đặc tính "cạn và hẹp" giọng nói Huế đã để lại
dấu vết trong đường nét giai điệu Ca Huế một tính chất đặc hữu, khác với dân
ca nhạc cổ từ đèo Ngang trở ra và từ Hải Vân trở vào. Tuy vậy một số nhà
nghiên cứu còn căn cứ vào sự giao thoa ảnh hưởng của các truyền thống văn
hóa khác trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho rằng : điệu Nam trong ca Huế do
ảnh hưởng nhạc Chăm mà có. Đến nay vấn đề này vẫn đang bỏ ngõ vì thiếu chứng
liệu.
Từ năm 1956 trong một bài viết
về Việc sưu tầm nghiên cứu của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba [1] nhạc
sĩ Văn Cao đã rất e dè với vấn đề ảnh hưởng của nhạc Chàm trong ca Huế mà
Nguyễn Hữu Ba đã đặt ra : "Tôi không biết được anh (NHB) đã có
những thí dụ gì chứng minh, nhưng tôi biết rằng phần thắc mắc này của anh
còn đợi có phương tiện đầy đủ mới giải quyết được". Thái Văn Kiểm trong
bài Ảnh hưởng Chiêm Thành trong ca nhạc Huế [2] lại nhận xét
một cách chắc chắn là điệu Nam trong ca Huế đã "phỏng theo các ca
khúc của Chiêm Thành mà đặt ra". Tuy nhiên các sự kiện lịch sử mà ông
nêu ra làm căn cứ cho nhận xét của mình thì hoàn toàn không liên quan gì đến
việc hình thành điệu Nam trong ca Huế. Những sự kiện các vua nhà Lý đi chinh
phạt Chiêm quốc mà cụ thể là việc vua Lý Thái Tông năm 1044 đánh vào quốc đô
là Phật Thệ bắt cung nữ Chiêm biết múa hát khúc Tây Thiên đưa về kinh
(là Kinh Bắc) ; năm 1202 vua Lý Cao Tông sai nhạc công soạn khúc Chiêm
Thành âm...thì cớ gì mà hình thành điệu Nam trong ca Huế ở tận xứ
Thuận Hóa mấy trăm năm sau ? Nếu cho rằng hát Quan họ, Ca trù
và kể cả dân ca khu vực đồng bằng Bắc bộ ảnh hưởng nhạc Chăm vì những sự
kiện lịch sử nêu trên thì khả dĩ còn hợp lý hơn, chứ không thể vô lý như tác
giả bài viết kết luận : " Theo những tài liệu trên, thì "Khúc Tây Thiên"
và "Chiêm Thành âm" có lẽ là nguồn gốc các điệu Nam của ca nhạc Huế nay
" (!). Luận điểm này về sau được một số nhà nghiên cứu tiếp tục nêu lại, như
Lê Văn Hảo trong một khảo cứu về ca Huế năm 1978 dù có chung chung hơn : "ảnh
hưởng của nhạc Champa và nhạc Ấn Độ thể hiện trong các điệu Nam của ca nhạc
Huế ".
Gs. Trần Văn Khê xếp ca Huế vào
loại Quan nhạc để phân biệt với Tục nhạc. Trong bài viết
Lối "ca Huế" và lối "nhạc Tài tử" [3] ông đã căn cứ vào sách
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ để giả định tổ tiên của lối ca Huế : "Trong
các loại nhạc triều đình, có lẽ lối Cung trung nhạc - hay là Cung trung chi
nhạc - là gần với lối đàn Huế nhất". Để nêu ra giả thiết này Gs Trần Văn
Khê đã dựa vào việc "ông quan nội điện cung phụng quản tiên hữu đội"
là Nguyễn Đình Địch đời Cảnh Hưng nhà Lê "học nhạc Trung Hoa rồi biến đổi
ra theo tiếng Nam... và ông Vũ Chỉ Đồng trước học điệu tàu rồi gảy ra
tiếng ta và xen theo các bài đàn đáy, đàn nguyệt của ta...bụng nghĩ thế nào
tay gảy được thế". Hiện nay Cung trung nhạc thời Nguyễn, là thời
đại gần ta nhất nhưng bài bản như thế nào các nhà Nhã nhạc học vẫn tỏ ra
lúng túng. Còn thời Lê, cái nhạc của ông quan nội điện cung phụng quản
tiên hữu đội đó chắc gì đã là nhạc của Cung trung chi nhạc.
Nhưng nếu Cung trung chi nhạc thời Lê đồng nghĩa với lối Hát cửa
quyền thì chắc đó là lối hát Ả đào thính phòng trong cung phủ mà
Phạm Đình Hổ chép trong sách Vũ trung tùy bút : "Hát ở trong cung,
tục gọi là hát cửa quyền, tiếng hát xinh xắn uốn éo dịu dàng, thanh
nhã hơn giọng hát ngoài chốn giáo phường. Nhưng âm luật cũng không khác gì
mấy". Như thế, theo quan điểm chúng tôi trình bày ở đầu bài viết này :
Ca Huế có thể gọi là một lối hát Ả đào của người Huế vậy.[2]
Cũng trong bài viết này Gs
Trần Văn Khê đã trình bày sự biến chuyển của ca đàn Huế từ thế kỷ XX so với
ngoài Bắc và trong Nam. Ông cho rằng truyền thống cổ nhạc ở Huế được gìn giữ
kỹ hơn, ít biến chuyển trước làn sóng của âm nhạc Âu-Tây. Trong khi ở ngoài
Bắc hội Khai trí tiến đức chủ trương "dùng khí cụ và chút ít phương pháp
của Âu Tây để hòa những bản đàn cổ" hoặc "bài đàn như trước viết lại
cho đúng phương pháp Âu-Tây". Ở trong Nam có nhạc sĩ Trần Quang Quờn đặt
bài bản mới phỏng theo cung điệu xưa, sáng chế nhạc khí mới và đặt ra cach
chép nhạc riêng ; phong trào cải lương làm cho đờn ca tài tử phát triển mạnh
theo hướng sân khấu ; dùng đàn Tây như mandoline, guitare và
violon để đờn Vọng cổ v.v... Ở Huế thì tồn cổ một cách cực đoan, đại
diện có ông Hoàng Yến cực lực chống lại việc canh tân nhạc cổ ;
quan niệm điệu cổ và điệu kim khác nhau xa như trời với đất ; điệu cổ êm ái
mà trang nghiêm, điệu kim tục tằn và thô lỗ" [4]. Tác giả bài viết đã
đưa ra chính kiến cho vấn đề này : "Chúng tôi không đồng ý với ông Hoàng
Yến về chổ người nhạc sĩ không có quyền sáng tác bài bản mới. Nhưng tôi đồng
ý với nhạc sĩ miền Trung ở chổ giữ truyền thống. Các lối đờn ngoài Bắc nhứt
là trong Nam đều xa căn bản hơn đờn Huế". Có thể đây là do tính cách của
người Huế, sự đổi mới thường muộn hơn so với các nơi khác chứ không hoàn
toàn tồn cổ kiểu ông Hoàng Yến mà vẫn "ảnh hưởng Âu nhạc phát hiện
bằng sự thành lập nhóm Tỳ bà với nhạc sư Nguyễn Hữu Ba".
Bài viết dù kém mạch lạc, ít
tập trung và đôi lúc miên man, tản mạn như kiểu kể chuyện nhưng đã có những
nhận xét và nêu những sự kiện lịch sử đáng chú ý.
Quan niệm trên của ông Hoàng
Yến về điệu cổ và điệu kim là một vấn đề mà Gs Trần Văn Khê đã
tiếp tục đề cập trong một bài viết khác : Vài cái hay cái dở trong
nhạc Việt [5]. Sau khi nêu vài ý kiến, nhận xét khen, chê đều mang
tính chất cực đoan của một số thính giả trong và ngoài nước đối với nhạc cổ
Việt Nam, tác giả muốn đánh giá lại một cách khách quan cái hay cái dở trong
nhạc Việt cổ truyền (chủ yếu là lối ca đàn Huế và lối nhạc tài tư) với thiện
chí "tìm khuyết điểm để bổ cứu, tìm ưu điểm để phát huy". Trong việc
khen - chê, hay - dở, nếu đứng trên quan điểm thẩm mỹ của một truyền thống
này để nhận xét một truyền thống âm nhạc khác mà mình chưa am tường thường
sinh ra những trường hợp kiểu như nhạc sĩ Pháp Hector Berlioz nhận xét nhạc
Trung Hoa là giống tiếng "chó ngáp mèo mửa". Trái lại một ông hoàng ở
Lahore thì rất sành nhạc Ấn Độ, còn nhạc Âu đối với ông chỉ là "tiếng sói
tru giữa sa mạc". Những nhận xét trong bài viết này của Gs Trần Văn Khê
là vào năm 1961 (được đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1969). Ở thời điểm này
ông đã được tiếp xúc tương đối nhiều với các nền âm nhạc cổ truyền trên thế
giới, vì vậy so sánh nhạc cổ Việt Nam với các nước khác ông đã nêu lên 4
nhược điểm của lối ca Huế và đàn tài tử như : Bài bản ít lại hay lặp điệu
; Cách chép nhạc không khoa học ; Phần lý thuyết rất yếu và
Nhạc khí thì thô sơ. Đồng thời nêu 3 ưu điểm cần được phát huy là :
Rao hay dạo ; Nhấn và Cách hòa đờn. Đây là những nhận xét
rất tâm huyết của tác giả. Đến nay, càng được tiếp xúc thêm với rất nhiều
truyền thống âm nhạc khác nhau trên thế giới, kể cả Việt Nam, có thể Gs đã
phát hiện ra thêm những nhược điểm, những ưu điểm mới trong lối ca Huế và
nhạc tài tử nói riêng và ca nhạc cổ truyền Việt Nam nói chung.
Dưới hình thức một bức thư gửi
cho Trần Văn Khê ở nước ngoài, ông Vĩnh Phan, một nghệ sĩ đàn Huế đã nêu lên
Vài ý kiến về các hơi nhạc cổ truyền Huế [6].
Đặc biệt ông cho Gs. Trần Văn Khê biết là vừa tìm được một cuốn sach chép
tay của một nhạc công trong Ban Tiểu nhạc có ký âm 17 bài bằng chữ Hán. 17
bài này nằm trong hệ thống bài bản của Tiểu nhạc, hiện nay chỉ còn lưu
truyền 6 bài. Trong sách Lược sử âm nhạc Việt Nam Gs. Nguyễn Thụy
Loan có kể tên 17 bài này nhưng có khác với tài liệu của Vĩnh Phan chút ít
là không có tên bài Bái Kinh và Bắc xướng Tẩu mã là hai
bài khác nhau. Không rõ cuốn sách này hiện nay lưu lạc ở đâu ?
Vấn đề chính trong bức thư này
vẫn là ý kiến về hơi nhạc cổ truyền Huế. Những luận giải của nghệ sĩ Vĩnh
Phan về Ngũ cung và các hơi chủ đích là để phản đối luận điểm của nhạc sĩ
Nguyễn Hữu Ba cho rằng thang âm Huế là thang bảy bậc đều nhau. Ông đã
đưa ra một loạt dẫn chứng rất thuyết phục để xác định các hơi trong nhạc
Huế thuộc hệ thống thang năm âm. Đáng chú ý là sự phân tích của ông
về hơi thiền (thuyền) : " Trong một bài hơi Khách (Bắc) mà có 2 cung Ì,
PHÀN thì dĩ nhiên có chuyển hệ ; Cũng trong một bài hơi khách mà hai cung XỰ
và CỐNG luôn luôn có mặt trong khi dứt câu, hay ở đầu ô nhịp, lúc đánh cho
ta cảm giác một âm giai thứ. Hoặc dùng cả Ì, PHÀN nữa, hơi đó nhất định là
hơi thuyền". Tuy nhiên việc ông gọi Khách (Bắc), Nam,
Dựng, Ai và Thiền đều là hơi và chữ hơi này được
ông chú là : " Theo tôi, nhạc Huế có nhiều hơi (système)", thì vấn đề
còn cần phải xem xét lại. Một điểm nữa không biết nghệ sĩ Vĩnh Phan có cố ép
cho người xưa hay không khi nói rằng : " Chỉ cần nhìn lại thang âm
từ trước sẽ thấy người xưa đã định cho mỗi cung một tên riêng nhất định như
sau :
Xang (Fa
2)
Xê (
Sol 2)
Công (
La 2)
Phàn (
Sib 2)
Họ (
Đô 3 )
Xự (
Ré 3) " v.v...
Người xưa là ai và vào thời nào
mà định được mỗi cung một vị trí cao độ của hệ thống hàng âm bình quân như
trong nhạc lý châu Âu ? Trong Đờn Huế hầu như cũng chưa bao giờ có
khái niệm về âm chuẩn.
Một vốn quý trong kho tàng âm
nhạc Việt Nam cổ truyền
[7] của Lê Văn Hảo là một khảo cứu đầy đặn về ca Huế đăng trên tạp chí từ
trước đến nay. Mặc dù không phân thành chương, phần nhưng nội dung trình bày
đã tập trung vào hai mảng lớn : Đặc điểm nghệ thuật ca Huế và nguồn gốc, quá
trình phát triển.
Ông khẳng định "ca nhạc Huế
không phải là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc
dân gian". Với một hệ thống bài bản phong phú, cấu trúc phức tạp nhưng
chặt chẽ, hoàn chỉnh ; những sắc thái tình cảm tinh tế cùng với những đòi
hỏi khá phức tạp đối với ca công về cách hát, đối với nhạc công về kỷ thuật
diễn tấu nhạc cụ, nên ca Huế thuộc về phạm trù âm nhạc cổ điển, bác học.
Đặc biệt, dù không phải là nhà
nghiên cứu âm nhạc nhưng Lê Văn Hảo đã phân tích khá sâu sắc về vấn đề
thang âm, điệu và hơi trong ca Huế. Hơi theo cách
ông gọi là sắc thái của điệu : " Ca nhạc Huế có điệu thức
Bắc và bốn sắc thái (quen gọi là hơi) : hơi quảng, hơi đảo, hơi thiền, hơi
nhạc, có điệu thức Nam và bốn sắc thái : hơi xuân, hơi thương, hơi ai, hơi
oán. Giữa hai điệu thức Bắc và Nam có một sắc thái trung gian : hơi dựng
". Phát triển nhận xét của Trần Văn Khê về loại thang âm ngũ cung đều
Lê Văn Hảo lý giải hiện tượng các cung mạnh thu hút các cung phụ
- hay cung yếu và đưa ra nhận xét khá sâu sắc : "Chính hiện tượng
các cung mạnh thu hút các cung yếu làm cho một thang âm đều trở thành một
thang âm không đều và có ý nghĩa quyết định làm cho sắc thái tình cảm trở
nên vui dịu nhẹ, hay buồn, ảo não".
Tuy vậy, có một số vấn đề trong
bài khảo cứu cần phải luận bàn thêm. Chẳng hạn : không cần thiết phải gọi là
ca nhạc Huế thay cho tên gọi đã trở thành quen thuộc là ca Huế.
Ca Huế đã tồn tại trong truyền thống như tên gọi ca Trù (hay là hát Ả
đào) là một thể tài chuyên nghiệp luôn đi kèm với nhạc cụ. Ca nhạc Huế
không thể không bị hiểu nhầm là toàn bộ nền ca nhạc tại Huế, cả quá khứ lẫn
đương thời, cả nhạc cổ truyền (dân ca, ca Huế, ca nhạc cung đình, âm nhạc
tín ngưỡng) lẫn tân nhạc (một khối lượng lớn các bài hát mới sáng
tác về Huế, sáng tác trên chất liệu âm nhạc Huế). Tại sao lại liệt kê Nhã
nhạc, Tiểu nhạc là một thành phần trong thành phần các loại nhạc
cung đình với giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc...? Tác
giả đã không tiếc lời khi cho ca Huế là quá uyên bác, là điêu luyện, hoàn
chỉnh, mẫu mực, là cấu trúc chặt chẽ với tính khoa học cao, và để dẫn
đến là : "chẳng khác gì các hình thức đoạn đổi, đoạn điệp, chủ đề và biến
tấu như trong nhạc cổ điển phương Tây" ! Một số sơ xuất đáng tiếc trong
khi phân tích về thang âm điệu thức, như việc xác định thang âm điệu bắc
trong ca Huế là ngũ cung đúng ; thang âm điệu nam là thang âm ngũ cung
khuyết (thang âm tứ cung với tàn dư tam cung) hoặc là thang âm
ngũ cung không đều ; các bậc non, già được chú thích là
dièse, bémol v.v...Và nhất là tìm cách cố gán ép ca Huế là loại
nhạc cổ điển do nhân dân sáng tạo ra, phân trần cho được các nghệ nhân, nghệ
sĩ là sinh trưởng trong dân gian nhưng "một số không may bị trưng tập vào
các đội ngự nhạc ở cung điện triều đình nhà Nguyễn... bị bọn thống trị ép
buộc phục vụ chúng" một cách không cần thiết. Văn hóa Nghệ thuật của
giai cấp nào đều không là là sản phẩm trí tuệ của Nhân dân. Khi đã bác
học hóa thì trở thành lối chơi của ông hoàng bà chúa, giới quý
tộc, khi đã dân gian hóa thì vẫn là sản phẩm trong tổng thể văn hóa
dân gian mà thôi. Trong lịch sử văn hóa Huế sự không phân định rạch ròi các
thành phần cũng là một đặc điểm. Nói gì thì nói, những người bảo lưu gìn giữ
ca Huế cho đến 15, 20 năm trước Cách mạng Tháng 8 như tác giả kể đến thì hầu
hết đều là các ông đội (đội trưởng đội ngự nhạc), ông hoàng và các
chức sắc dưới triều Nguyễn như : các ông hoàng Nam Sách, Trấn Biên, Lãng
Biên, Miên Trinh, các công chúa Ngọc Am, Mai An, Huệ Phố ; gia đình ông Tống
Văn Đạt với các ông đội Chín, đội Phước. Đội Thức ; Các danh cầm, danh ca
như Cả Soạn, Thừa Khiêm, Khóa Hài, Ngũ Đại, cậu Tốn Ut, Ưng Biều, Ưng Thông,
đội Trác, Trợ Tồn, Bửu Bát v.v...Vấn đề nguồn gốc được tác giả đề cập quá
chung. Quá trình phát triển nếu chỉ căn cứ vào những mốc lớn của lịch sử
Việt Nam thì không những ca Huế mà các thể loại âm nhạc cổ truyền khác cũng
đều bị ảnh hưởng. Tất nhiên, chính vấn đề này Gs Trần Văn Khê cũng đã từng
thừa nhận : " chúng tôi chưa gặp một sử liệu nào có thể soi rõ sự chuyển
biến của lối đàn Huế qua các thời đại".
Trong bài Sự phong phú và
đa dạng của ca nhạc Huế [8] nhà nghiên cứu, nghệ sĩ ca kịch Huế Văn
Lang có nêu vấn đề ảnh hưởng của nhạc Chàm đối với hai bài ca Huế : Nam ai
và Nam bình. Theo ông, căn cứ vào sự kiện năm 1202 Lý Cao Tông sai soạn khúc
Chiêm Thành âm có âm điệu "buồn sâu sắc mà người nghe không thể
cầm được nước mắt" cho rằng "bài Nam ai có thể bắt nguồn từ khúc
Chiêm Thành âm mà ra. Người nhạc sĩ trước đây đã dựa vào khúc Chiêm
Thành âm để đặt ra bài Nam ai, vì trong Nam ai cũng có những âm cao
và mang một nỗi buồn ai oán". Điều phỏng đoán này, cũng như ông Thái Văn
Kiểm trong bài nêu ở trước, là đều không có chứng lý.
Một vấn đề khác cũng được tác
giả bài viết nêu ra là cặp từ Bắc, Nam trong ca nhạc Huế. Ông
không hoàn toàn nhất trí với quan điểm điệu Bắc mang ảnh hưởng âm
nhạc Trung Hoa, điệu Nam là do ảnh hưởng nhạc Chiêm Thành. Theo ông :
" những từ Bắc và Nam ở đây có thể chỉ là thuật ngữ để phân
loại các hệ thống điệu thức - nhất là trong lĩnh vực hát dân tộc mà chủ yếu
là cải lương và ca Huế".
Nhạc Huế
[9] là bài viết mang tính chất tổng lược về âm nhạc cổ truyền xứ Huế. Tuy
nhiên không hẳn là kiểu bài giới thiệu mang tính chất "điểm mặt" các
thành phần, thể loại, mà Gs Tô Vũ đã đưa ra những nhận định sâu sắc về mặt
âm nhạc. Chẳng hạn, ông bổ sung thêm những nghiên cứu trước của Trần Văn
Khê, Phạm Duy về thang âm hò Mái đẩy là : "cũng là một loại thang âm rất
gần so với chuổi âm có thể thấy ở một loại kèn trong âm nhạc Chăm". Giáo
sư phân định nhạc Huế thành ba thành phần chính yếu : Nhạc Lễ, Dân ca và
Ca Huế. Đặc biệt đối với ca Huế, sau khi nhận xét các yếu tố bài bản,
khúc thức, bố cục và phong cách trình diễn, ông đã có sự đánh giá sâu sắc :
"Như vậy, có thể nói : ca Huế là một thể loại nhạc hát mang nhiều yếu tố
chuyên nghiệp về cấu trúc và phong cách biểu diễn, nhưng về nội dung âm nhạc
của nó thì bộ phận đặc sắc nhất lại chịu ảnh hưởng rõ rệt của Hò, Lý dân
gian..."
Vấn đề giao thoa giữa hai thành
phần này đã được Dương Bích Hà phát triển trong bài viết Âm nhạc cổ
truyền xứ Huế trong mối quan hệ bác học và dân gian [10] : "Ca
Huế mặc dù xuất phát tại cung đình nhưng nguồn gốc lại gắn bó với dân gian.
Có thể nói rằng, trong nền âm nhạc cổ truyền Huế thì ca Huế - bộ phận thứ
hai của dòng bác học - là nhịp cầu nối giữa cung đình - dân gian
".
(Còn tiếp)
DANH MỤC TÀI LIỆU DẪN VÀ THAM
KHẢO
[1] Văn Cao.Việc sưu tầm nghiên
cứu của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba Tập san âm nhạc 7/1956
[2] Thái
Văn Kiểm. Anh hưởng Chiêm Thành trong ca nhạc Huế Nguyệt san văn hữu số
3/1960.
[3] Trần
Văn Khê. Lối ca Huế và lối nhạc tài tử. Bách khoa số 101,102/1961.
[4]
Hoàng Yến . Âm nhạc Huế - Đờn nguyệt và Đờn tranh . Tập san Những người
bạn Cố đô Huế. Tập VI, 1919 (B) Nxb Thuận Hóa-Huế, 1998.
[5] Trần
Văn Khê. Vài cái hay cái dở trong nhạc Việt Bách khoa số 101/1961
[6] Vĩnh
Phan. Vài ý kiến về các hơi nhạc cổ truyền Huế.Tập san nghiên cứu Việt Nam
số 1/1966.
[7] Lê Văn
Hảo. Một vốn quý trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
cổ truyền Âm nhạc số 3/1978.
[8] Văn
Lang. Sự phong phú và đang dạng của ca nhạc Huế Tạp chí Sông hương số
9/1984.
[9] Tô Vũ. Nhạc Huế hóa nghệ
thuật số 7/1995.
[10] Dương
Bích Hà. Âm nhạc cổ truyền xứ Huế trong mối quan hệ
bác học và dân
gian
Tạp chí Sông hương số 125. 7/1999.
THAM KHẢO
- Tân Việt
Điểu. Ca nhạc cổ điển miền Trung.
Văn hóa Nguyệt san số 60/1961.
- Thiết
Mai Tôn Thất Cảnh. Anh hưởng văn hóa Trung Hoa trong nhạc cổ Việt Nam
Nguyệt san Văn Hữu số 3/1960
- Lê Văn
Hảo. Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế.
Văn nghệ Bình-Trị-Thiên số 9/1978
- Thụy
Loan. Bảo tồn, khôi phục và phát triển vốn ca nhạc cổ truyền Huế.
Huế Xưa và Nay số 6/1994
- Thái
Vũ-Bùi Quang Đoài. Thử tìm tác giả những bài Ca Huế.
Tc Âm nhạc số 9/1991
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
T