Khi nói đến âm dương, chúng tôi không nghĩ đến thuyết âm dương trong
Kinh dịch của Trung Hoa mà muốn đề cập về tư tưởng triết lý của dân tộc
Việt Nam từ ngàn xưa, thể hiện ngay trên chiếc trống đồng do tổ tiên
chúng ta chế tạo vào thế kỷ thứ 6, thứ 7 trước Công nguyên. Các nhà
nghiên cứu đã nhận ra trên mặt chiếc trống đồng có những hình ảnh mô tả
sinh hoạt của người dân sống vào thời kỳ xa xưa ấy, đồng thời có chạm
khắc hình các con thú, đặc biệt là hươu và cá. Con hươu tượng trưng cho
núi, cá tượng trưng cho nước, vốn là hai yếu tố vô cùng quan trọng đối
với người Việt. Chúng ta vẫn dùng hai chữ giang sơn để chỉ đất nước,
điều này cho thấy núi với nước tuy hai mà một. Liên hệ đến lịch sử của
dân tộc, chúng ta thấy có huyền thoại con Rồng cháu Tiên, tượng trưng
cho hai yếu tố nước và núi. Hoặc truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đề
cập đến việc người xưa bảo vệ đất nước chống thiên tai, trong đó núi và
nước giúp chúng ta xác định rõ tư duy và quan niệm sống của dân tộc cho
rằng vũ trụ có được do sự phối hợp của hai yếu tố âm và dương, tuy khác
nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau. Lưỡng phân mà lưỡng hợp:
đó chính là một trong những tư tưởng triết lý của Việt Nam - như cố giáo
sư Trần Quốc Vượng thường nói.
Quan điểm âm dương bàng bạc trong mọi sinh hoạt của đời sống người Việt,
từ cách ăn uống hàng ngày cho đến cách chữa bịnh trong y học. Ở đây chỉ
xin nêu ra một số nhận xét trong lãnh vực âm nhạc để làm sáng tỏ tư
tưởng lưỡng phân, lưỡng hợp đó.
Đi từ cụ thể đến trừu tượng, chúng ta thử xem trong nhạc khí, trong bài
bản và trong cách biểu diễn, quan điểm âm dương được thể hiện như thế
nào trong âm nhạc truyền thống Việt Nam.


Aliénor Anisensel, một thiếu nữ Pháp, 23 tuổi, làm luận
án cao học Ca trù, tựa đề Nhạc và Thơ trong Ca trù : một cuộc hôn
nhân tuyệt hảo.

Aliénor Anisensel học hát và làm luận án Tiến sĩ về ca trù
(Hình Thanhniennews)
Nhạc khí
 |
Đào
nương Aliénor Anisensel gõ phách và hai
kép (Hình Tuổi trẻ) |
Trước hết, hãy xem qua bộ môn Ca trù. Một nhóm Ca trù thường có ba
người, người ngồi giữa là đào nương vừa hát vừa nhịp phách. Phách là một
thanh tre hay một miếng gỗ được gõ bằng hai cái dùi, một dùi tròn có
chuôi nhọn và một dùi chẻ làm hai, tượng trưng cho dương và âm. Tiếng
chuyên môn trong giới Ca trù thường gọi hai dùi này là phách cái và
phách con. Quan điểm cái với con cho thấy nữ với nam là hai giới khác
nhau mà bổ sung cho nhau.
Gõ phách là một nghệ thuật rất cao, âm thanh phát ra một tiếng trong một
tiếng đục, một tiếng cao một tiếng thấp, một tiếng mạnh một tiếng nhẹ,
cũng chính là tiếng dương và tiếng âm. Trên thế giới, chưa có loại dùi
nào tuy một đôi mà lại khác biệt nhau từ hình thức cũng như trong cách
gõ như thế.
Một bộ môn khác là Nhạc lễ, với dàn ngũ âm (năm nhạc sĩ sử dụng năm nhạc
khí khác nhau) trong đó có hai trống nhạc đóng vai trò rất quan trọng.
Cặp trống này được gọi là trống đực và trống cái tức đã bao hàm ý tưởng
dương và âm.
Màu âm của tiếng trống trong Nhạc lễ được sử dụng vô cùng tinh vi. Chẳng
hạn như tang, thờn, tùng, thùng khi đánh vào giữa mặt da dùng để đánh
nhịp hay để chấm câu. Tong, táng, tỏng khi đánh vào vành da, đây là cách
đánh sáng và tiếng trống đó gọi là tiếng dương.
Khi đánh âm táng hay tong liên hồi diễn tả sự sôi động của tâm hồn hoặc
tâm trạng giận dữ, hốt hoảng. Tịch là một dùi chặn, một dùi đánh vào
giữa mặt da, khi nhân vật biểu lộ sự ngạc nhiên, suy nghĩ hay do dự, có
khi nghẹn ngào, uất ức. Đây là cách đánh tối và tiếng trống này là tiếng
âm. Thông thường trong biểu diễn luôn luôn có tiếng âm và dương trộn lẫn
với nhau chớ không đơn thuần tiếng trống âm hay dương mà thôi.
Bài bản
Trong xã hội nông thôn ngày xưa, thanh niên thiếu nữ lớn lên khi bắt đầu
tham gia việc nhà nông ngoài ruộng đồng thường trao đổi những câu hò khi
đang lao động hay trong lúc nghỉ ngơi. Đây là sinh hoạt văn hoá đặc sắc
trong dân gian hình thành một gia sản văn học vô cùng phong phú.
Ngay trong cách sáng tạo câu hò đã thể hiện rõ quan điểm âm dương, thông
thường luôn có một vế trống và một vế mái, có khi gọi là câu xô và câu
kể. (Do đó mà khi ta nghe nói câu hò mái hai, mái ba, có nghĩa là một
câu có một câu trống và hai hoặc ba câu mái - hoặc hai hay ba đoạn kể -
chứ chữ mái ở đây không có nghĩa là mái chèo).
Nội dung nhiều câu hò cũng chứa đựng sự gặp gỡ âm dương, chẳng hạn như:
Nhớ nàng như bút nhớ nghiên
Như mực nhớ giấy, như thuyền nhớ sông
Hình dáng của bút và nghiên ở đây tượng trưng cho nam và nữ, như thế
trong câu đó đã phảng phất dương và âm, cũng như thuyền là dương mà sông
là âm.
Trong các bài bản Nam xuân, Nam ai của Ca nhạc tài tử thì có những lớp
gọi là lớp trống hay lớp mái cũng hàm ý nhắc đến quan điểm âm dương.
Từ quan điểm âm dương nảy sanh ra những bài bản dài ngắn khác nhau như
lưu thủy trường và lưu thủy đoản, những bản trước và sau mang tên ngũ
đối thượng, ngũ đối hạ (thượng và hạ đồng nghĩa với trên và dưới), hoặc
một bản mau, một bản chậm như phú lục và phú lục chậm.
Cách biểu diễn
Trong truyền thống Ca trù, người ca phải là đào nương, ả đào, người đờn
phải là nam gọi là kép, rất hiếm khi có phụ nữ đờn đáy cho đào nương ca.
Trong loại hát Đối ca nam nữ thì - như tên đã gọi - người hát hai bên
phải là khác phái. Trong khi đối ý, nếu bài hát xướng là Lên non hay Lên
rừng thì bài hát họa phải là Xuống sông hay Xuống bể và quan điểm lên,
xuống cũng từ âm, dương mà ra.
Trong truyền thống Quan họ, liền anh luôn luôn cầm cây dù còn liền chị
thì tay cầm chiếc nón quai thao, một vật nhọn một vật tròn cũng là thể
hiện quan điểm âm dương.
Trong loại múa dân gian, khi cầu cho được mùa - theo chuyên gia Lâm Tô
Lộc -phía nam phải cầm cây tre nhọn còn bên nữ thì cầm mo cau. Cả hai
vật này đều mang hình dáng ẩn dụ tượng trưng cho nam và nữ.
Trong Ca nhạc tài tử, khi hòa đờn thì luôn luôn lựa tiếng thổ (trầm và
đục) để hòa với tiếng kim (cao và trong) cũng từ quan điểm âm dương mà
ra.
* * *
Tóm lại, nếu nhìn những sự kiện trong âm nhạc với đôi mắt và tâm hồn
thấm nhuần triết lý âm dương trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam nói
riêng và của châu Á nói chung, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều thú vị
hơn là chỉ đơn thuần nghe âm thanh bằng đôi tai và nhìn sự vật bằng đôi
mắt.
GSTS TRẦN VĂN KHÊ
|
© http://vietsciences.free.fr , http://vietsciences.org
và http://vietsciences2.free.fr
Trần Văn Khê |