Âm nhạc và vũ đạo thời Trần (qua thư tịch cổ và dấu tích khảo cổ học)

Vietsciences- Nguyễn Xuân Diện          02/08/2009

 

Những bài cùng tác giả

 

 Hai triều đại Lý Trần được các sử gia đời sau khen là thời đại thịnh trị, võ  công văn trị đều hiển hách. Trải qua 1000 năm dâu bể, biến thiên, mà những dấu tích về hai thời đại này còn được lưu lại khá rõ nét trong thư tịch cổ và tài liệu khảo cổ. Bài viết này đề cập đến vấn đề âm nhạc và vũ đạo thời Trần thông qua những ghi chép trong thư tịch cổ và những hiện vật khảo cổ học được tìm thấy.

1.Thư tịch cổ về âm nhạc và vũ đạo thời Trần:

   Như  chúng ta đều biết, An Nam chí lược 安 南 志 略 của Lê Trắc là một thư tịch cổ đặc biệt quan trọng, được coi là bộ sách xưa nhất viết về phong tục và các sinh hoạt văn hóa nước ta dưới thời Trần.

   Phần Phong tục 風 俗, Quyển nhất tác giả An Nam chí lược 安 南 志 略 ghi lại được về tình hình âm nhạc và vũ đạo thời Trần như sau:

   “Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan Củng, các bầy tôi đều làm lễ, lễ rồi, xem các con hát múa trăm lối”1. Phần này cũng còn cho biết vào ngày Tết Nguyên đán, các quan trong nội cung tập trung trước điện Thiên An để chơi các bài ca nhạc trước đại đình. Rồi ngày 3 Tết, vua ngồi trên gác Đại Hưng xem tôn tử và các quan nội cung đá cầu…Tháng hai, sai làm một cái đài, gọi là Xuân Đài 春 臺, các con hát hóa trang làm mười hai vị thần, múa hát trên đài2.

   Về  các loại nhạc cụ, An Nam chí lược cho biết: “Nhạc khí có thứ trống “phạn sĩ” (trống cơm), nguyên là nhạc khí của Chiêm Thành, kiểu tròn và dài, nghiền cơm, bịt hai đầu, cứ giữa mặt mà vỗ thì kêu tiếng trong mà rõ ràng, hợp với ống kèn tháp nứa, cái xập xõa, trống lớn, gọi là đại nhạc, chỉ vua mới được dùng; các tôn thất quý quan có gặp lễ đám chay đám cưới mới cho dùng đại nhạc. Còn đàn cầm, đàn tranh, tỳ bà, đàn thất huyền, đàn song huyền, ống địch, ống sáo, kènquyển thì gọi là tiểu nhạc, không kể sang hèn, ai cũng dùng được3.

   Về  ca khúc nước ta, An Nam chí lược cho biết đã có: “Nam thiên nhạc, Ngọc lâu xuân, Đạp thanh du, Mộng du tiên, Canh lậu trường, không thể chép hết”. Đặc biệt nhất là ở thời Trần đã “dùng thổ ngữ làm thi phú phổ vào âm nhạc để tiện ca ngâm”4.

   Như  vậy, qua những ghi chép trong phần Phong tục của An Nam chí lược (được biên soạn dưới thời Trần) cho thấy trong cung đình nhà Trần đã có hàng trăm điệu múa, trong đó có những điệu múa mô phỏng và hóa trang.

   Biên chế âm nhạc đời Trần đã chia làm  đại nhạctiểu nhạc. Đại nhạc là dành cho cung đình và giới quý tộc; tiểu nhạc là dành cho đại chúng. Biên chế dàn tiểu nhạc đã rất phong phú, cho thấy âm nhạc đã phát triển đến một trình độ đáng kể. Dàn đại nhạc có trống cơm, là một nhạc cụ của người Chiêm Thành, cho thấy âm nhạc nhà Trần tiếp thu và sử dụng âm nhạc của Chiêm Thành.

   Về  ca khúc, chúng ta thấy có việc dùng thổ ngữ (tiếng Việt) để làm thơ phú rồi phổ vào âm nhạc để hát lên. Rất tiếc, chúng ta chưa tìm được các văn bản của các ca khúc, có thể bằng chữ Nôm chăng?

   Đại Việt sử ký toàn thư 大 越  史  記  全  書 (Toàn thư) cũng có những ghi chép khá thú vị về tình hình ca vũ thời Trần. Dưới đây là chi tiết cho thấy điệu múa của người Hồ khá phổ biến trong cung đình: “Mùa đông, tháng 10 (năm Mậu Thìn, 1268), vua (Trần Thánh Tông) cùng anh là Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang cùng đùa ở trước mặt Thượng hoàng (Thái Tông). Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, Thượng hoàng cởi áo ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa của người Hồ để xin chiếc áo ấy”5.

   Và:  “Nhâm Dần, năm thứ 5 (1362), mùa Xuân, tháng Giêng, lệnh cho cho các nhà vương hầu cùng công chúa dâng các trò tạp hý vua xét định trò nào hay thì ban thưởng cho. Trước đây, khi đánh Toa Đô, bắt được người phường hát là Lý Nguyên Cát rất giỏi hát, những con ở trẻ của các nhà thế gia theo y tập hát điệu phương Bắc. Nguyên Cát sáng tác các vở tuồng truyện cổ, có các tích như Tây Vương Mẫu hiến bàn đào. Trong tuồng có các vai quan nhân, chu tử, đán nương, câu nô, gồm 12 người, mặc áo gấm, áo thêu, đánh trống, thổi sáo, gẩy đàn, vỗ tay, vỗ phím đàn, thay đổi nhau ra vào làm trò, khiến người xem xúc động, muốn cho buồn được buồn, muốn cho vui được vui. Nước ta có tuồng truyện bắt đầu từ đấy”6.

   Qua sự mô tả của Đại Việt sử ký toàn thư, có thể thấy rằng dưới thời Trần, các hình thức biểu diễn tạp kịch đã rất phổ biến ở nước ta. Phải chăng đó là các hình thức ban đầu của các bộ môn nghệ thuật tuồng và chèo sau này. Cũng Toàn thư cho biết: “Năm Thiệu Phong thứ 10 (1350) đời vua Dụ tông, có người Nguyên là Đinh Bàng Đức, nhân nước có loạn, đe, cả nhà đi thuyền vượt biển chạy sang ta. Bàng Đức giỏi leo dây, làm trò ca múa. Người nước ta bắt chước làm trò múa leo dây. Trò leo dây bắt đầu có từ đó”7.

   Một tư liệu quý khác của chính người Trung Quốc chép về nhạc vũ nước ta, đó là sứ giả  nhà Nguyên là Trần Phu (Trần Cương Trung) sang nước ta vào năm 1293 (niên hiệu Trùng Hưng thứ 9), được mời xem biểu diễn nhạc vũ trong cung đình, thuật lại trong An Nam tức sự 安  南  即 事 như sau: “Từng dự yến ở điện Tập Hiền bên nước đó, thấy một bọn con hát trai (nam ưu) và gái (nữ xướng) mỗi bên mười người, đều ngồi dưới đất. Có các thứ đàn như đàn tỳ bà, đàn tranh và đàn bầu. Tiếng hát tiếng đàn hòa lẫn vào nhau. Khi hát, thì trước hết ê a [lấy giọng] rồi sau mới có lời. Phía trước điện [Tập Hiền] có biểu diễn các trò đá múa, leo sào (dịch lộng thượng can), múa rối trên đầu gậy (trượng đầu khối lỗi). Lại có người mặc quần gấm nhưng mình lại để trần nhảy nhót hò reo. Đàn bà đi chân không, xòe mười ngón tay ra như những chạc cây để múa, thật xấu xa trăm điều”8. (…) Hơn mười người con trai mình đều cởi trần, cánh tay liền nhau, chân giậm xuống đất, vừa xoay vòng xung quanh vừa hát mãi; mỗi hàng khi có một người giơ tay thì mười mấy người cùng giơ tay, khi bỏ tay xuống cũng vậy. Trong các bài hát của họ, có những khúc như Trang Chu mộng điệp (Trang Chu nằm mộng hóa ra bướm), Bạch Lạc Thiên mẫu biệt tử (Bạch Lạc Thiên mẹ ly biệt con), Vi Sinh ngọc tiêu (Ống tiêu ngọc của Vi Sinh), Đạp ca, Hạo ca vân vân, duy có khúc Thán thời thế (than thời thế) là ảo não nhất, song nghe tản mạn không thể hiểu được. Khi trên điện bày yến tiệc lớn cần có đại nhạc thì nhạc sẽ cử lên ở sau chái nhà phía dưới, cả nhạc cụ lẫn người đều không nom thấy đâu cả, mỗi lần rót rượu, thì [trên điện] hô lớn “Phường nhạc tấu khúc mỗ!”, ở chái nhà phía dưới liền có tiếng “dạ” và cử khúc nhạc đó. Nhạc thì có những khúc gọi là Giáng Hoàng long, gọi là Nhập Hoàng đô, gọi là Yến Dao trì, gọi là Nhất giang phong, âm điệu cũng gần giống nhạc cổ nhưng gấp rút hơn mà thôi”9.

   Những dẫn liệu trên cho thấy, vào thời Trần, nhạc vũ Việt Nam, nhạc vũ Chiêm Thành và nhạc vũ Trung Quốc đã được pha trộn trong các chương trình biểu diễn ở cung đình nhà Trần. Nhạc cụ có đàn tỳ bà, đàn tranh là nhạc cụ Trung Quốc; lối múa mặc áo hở vai và giọng hát bi thương là sắc thái âm nhạc và trang phục Chiêm Thành. Trần Phu nhận xét rằng “âm điệu cũng gần giống nhạc cổ nhưng chỉ gấp rút hơn mà thôi”.

   Những ghi chép trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục 欽 定  越  史 通 鑑 綱目cho thấy trong suốt thời Lý Trần âm nhạc Chiêm Thành đã có ảnh hưởng đến Đại Việt, và đi được sử dụng phổ biến trong cung đình.

   Dưới thời Lý: “Năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1202), mùa thu, tháng 8, sai nhạc công đặt ra nhạc khúc gọi là “Chiêm Thành âm”. Nhạc khúc này giọng sầu oán não nùng, ai nghe cũng rỏ nước mắt”10. Sang thời Trần, cả vua Thánh Tông và Quốc Khang (tức Tĩnh Quốc công, Phiêu kỵ tướng quân) trong lúc đùa bỡn đều múa điệu múa của người rợ mọi11. Những ghi chép đó cho thấy, nhạc vũ thời kỳ này đã hấp thu khá nhiều hình thức diễn xướng mới từ phía Trung Quốc và Chiêm Thành, và được trình diễn cả trong những lúc vui chơi giải trí của sinh hoạt cung đình.

   Phạm  Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút 雨 中  隨  筆, cho biết hát bội của nước ta có nguồn gốc từ đời nhà Trần; nhưng lúc bấy giờ chỉ do quân lính hát và đi diễu trong phố vào những ngày có quốc tang, về sau nhân dân mới bắt chước, hát vào ngày Rằm tháng Bảy.

   Tóm lại, thư tịch cổ cho thấy rằng, dưới thời Trần, âm nhạc và vũ đạo đã khá phát triển. Về quy chế, đã hình thành ra hai dàn đại nhạctiểu nhạc, với các nhạc cụ rất rõ ràng, đặc biệt biên chế dàn tiểu nhạc rất phong phú. Bên cạnh các nhạc khí có nguồn gốc của Trung Hoa còn có nhạc khí có nguồn gốc Chiêm Thành. Điều đáng lưu ý là, dưới thời Trần, đã có cây đàn độc huyền cầm (tức đàn bầu), một cây đàn đặc biệt độc đáo chỉ có ở Việt Nam, xuất hiện trong biên chế dàn tiểu nhạc. Về vũ đạo và ca khúc cũng có sự pha trộn, tiếp thu ca vũ của Trung Quốc và Chiêm Thành. Ca khúc dưới thời Trần khá phát triển, trong đó có cả việc dùng tiếng Việt để sáng tác ca khúc.

2.Tài liệu khảo cổ học về âm nhạc và vũ đạo thời Trần

   Nếu những ghi chép trong thư tịch cổ cho những căn cứ xác tạc bằng văn bản chữ viết, thì tài liệu hiện vật khảo cổ học cho thấy những hình ảnh mô tả rất thú vị về vũ đạo dưới thời Trần.

   Những tài liệu hiện vật khảo cổ học được tìm thấy và hiện còn được giữ tại địa phương hoặc các bảo tàng quốc gia gồm: những chạm khắc trên gỗ ở chùa Thái Lạc (Hưng Yên), chùa Phổ Minh (Nam Định), ở di chỉ Cồn Chè (Nam Định), chùa Dâu (Bắc Ninh), điêu khắc đất nung ở chùa Hang (Yên Bái), điêu khắc đá ở chùa Hoa Long (Thanh Hóa)12.

   Về  nhạc khí: Dường như trên hầu hết các bức chạm khắc trên gỗ chùa Thái Lạc đều miêu tả một cách rõ nét các loại nhạc khí mà đã được các thư tịch trên nhắc đến như đàn tranh, nguyệt, tỳ bà, tiêu, sáo, nhị. Những bức chạm trên các cốn của chùa Thái lạc, Hưng Yên đã miêu tả những vũ công (tiên nữ) chơi nhạc, gảy đàn và thường được chạm thành từng đôi như đàn tranh thì đi chung với sáo; tiêu thì đi với Nhị; đàn nguyệt thì đi chung với đàn tỳ bà. Có thể việc chạm từng đôi này là do sự hạn chế của bức chạm và vị trí gắn kết của chúng trên các thành phần kiến trúc, nhưng nó cũng cho thấy có một sự phối thanh nhất định giữa các nhạc cụ với nhau. Đây có lẽ chỉ là một dàn tiểu nhạc, còn các vũ công ở đây được tạo tác như những tiên nữ cưỡi phượng trong khi tấu nhạc cho thêm phần huyền thoại. Trên một bức khác cũng ở chùa Thái Lạc, người ta có thể thấy ba tiên nữ cưỡi trên các đóa mây để đánh đàn tỳ bà, đàn tranh và đàn nguyệt. Có lẽ cái lối tả mây, tả sóng nước ở đây cũng là cách các nghệ nhân điêu khắc mô tả được sự sống động của những thanh âm, khi cuộn dâng, khi vấn vít, khi lại thanh nhã buông lơi, minh họa cho tiếng nhạc du dương huyền ảo. Những nhạc cụ này không phải đến thời Trần mới xuất hiện, mà đã thấy có mặt trên các chạm khắc thời Lý, như bức chạm dàn nhạc ở chân tảng chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Những loại như trống cơm, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, … là những loại dùng cho đại nhạc cũng đã có ở thời Lý. Như vậy có thể thấy rằng nhạc khí đời Trần là một bước kế thừa và phát triển từ truyền thống thời Lý trước đó.

   Về  trang phục: Trên những bức chạm chùa Thái Lạc, người ta có thể nhìn thấy sự pha trộn của các kiểu trang phục khác nhau của các vũ công. Nếu ở bức chạm các tiên nữ dâng hoa được các điệu hóa theo mô típ người - chim Kinari kiểu Chàm, trang phục thường rất đơn giản chỉ có yếm hoặc thắt đai lưng, cánh tay thường để trần tròn lẳn nuột nà, cổ tay đeo vòng để khoe lên cái động tác mềm mại khi dâng hoa, dâng hương. Ở các bức chạm từng đôi tiên nữ cưỡi phượng tấu nhạc, thì người ta lại nhìn thấy một thứ trang phục khác. Các cô thường mặc một loại trang phục bó tay, áo xếp nếp có thắt đai lưng váy xếp nếp kiểu váy Chàm. Một số cô khác ngồi xếp bằng thì mặc quần ống thụng cũng có nhiều nếp, có lẽ đây chính là tiền thân của những chiếc váy hay áo tứ thân nhiều tà rất phổ biến sau này trong trang phục Việt.

   Về  động tác và hình thể: Những bức chạm cho thấy vũ điệu được mô tả chịu ảnh hưởng đậm nét từ các điệu múa của người Chàm. Các dạng vẻ “tam gấp” được thể hiện một các rõ ràng trên các bức chạm khiến người ta liên tưởng đến các vũ công Apsara trên các chạm khắc đá hay đất nung ở các tháp Chàm. Các thế dáng “tam gấp” này như hòa chung với nhịp điệu của các nếp xếp trên váy hay các dải lụa được vắt qua vai khiến người ta phải liên tưởng đến các nhịp nhạc dìu dặt và những tiếng trống đệm tưng bừng. Vài lời kết luận:

   Âm nhạc và múa thời Trần đã kế thừa truyền thống của triều Lý, trên cơ sở tiếp thu nhạc vũ Trung Hoa và Chiêm Thành. Quy mô của dàn nhạc đời Trần đã cho thấy có cả dàn đại nhạc và tiểu nhạc, bao gồm các loại nhạc cụ riêng và phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của đời sống cung đình cũng như của dân gian.

   Vũ  đạo đời Trần có sự ảnh hưởng rõ rệt về bài bản của vũ đạo Trung Hoa; đồng thời cũng ảnh hưởng vũ đạo Chàm ở khía cạnh vũ điệu và trang phục múa.

   Tư  liệu khảo cổ học và thư tịch về âm nhạc và múa đời Trần không còn nhiều, việc nghiên cứu lâu nay về mảng này còn hết sức sơ lược, song đây là một thời đại phát triển cao của nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo, đáng được dành nhiều thời gian, công sức và kinh phí để nghiên cứu và giải mã, góp phần đánh giá toàn diện và đầy đủ về thời đại Lý – Trần rực rỡ võ công văn trị trong lịch sử nước nhà.

               Hà  Nội, tháng 6 năm 2009. 

Vì nóc thượng điện chùa Thái Lạc (Hưng Yên), gỗ, tk 13-14


 

Tấu nhạc: đàn tỳ bà và đàn nguyệt (gỗ, Thái Lạc – Hưng Yên)
 
 

Tấu nhạc: đàn tranh và sáo (gỗ, Thái Lạc – Hưng Yên)


 

Tấu nhạc: Tiêu và nhị (gỗ, Thái Lạc – Hưng Yên)
 


Vũ điệu dâng hoa (gỗ, Cồn Chè – Nam Định)
 


Vũ điệu dâng hoa (gỗ, Thái Lạc – Hưng Yên)
 



Vũ điệu dâng hoa (gỗ, Chùa Dâu – Bắc Ninh)
 
 



 Vũ điệu dâng hoa (đất nung, Chùa Hang, Yên Bái)


 

Vũ điệu dâng hoa (đá, chùa Hoa Long – Thanh Hóa)
 
Nguồn ảnh: Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam,
Viện Mỹ thuật, 20
 

 

1 An Nam chí lược. Lê Tắc. Trần Kinh Hòa dịch. Viện Đại học Huế xuất bản, 1961, trang 46.

2 An Nam chí lược. Sđd, tr. 46.

3 An Nam chí lược. Sđd, tr. 48.

4 An Nam chí lược. Sđd, tr. 48.

5 Đại Việt sử ký toàn thư. Bản in Nội các quan bản. Mộc bản khắc năm Chính Hòa 18 (1697). Tập II: Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. GS Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb. KHXH, H. 1993, tr.37.

6 Đại Việt sử ký toàn thư. Bản in Nội các quan bản. Mộc bản khắc năm Chính Hòa 18 (1697). Tập II: Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. GS Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb. KHXH, H. 1993, tr.141.

7 Sdd. Trang 131.

8 Một bức “ký họa” về xã hội nước ta thời Trần: Bài thơ “An Nam tức sự” của Trần Phu. Trần Nghĩa. Tạp chí Văn học số 1 – 1972, tr. 115.

9 Một bức “ký họa” về xã hội nước ta thời Trần: Bài thơ “An Nam tức sự” của Trần Phu. Trần Nghĩa. Tạp chí Văn học số 1 – 1972, tr. 117.

10 Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tập Một. Nxb. Giáo dục, H, 427.

11 Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tập Một. Nxb. Giáo dục, H, 499.

12 Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Nhiều tác giả. Đại học Mỹ thuật Hà Nội xuất bản, 2002.

 

            ©  http://vietsciences.free.frr  và http://vietsciences.org    Nguyễn Xuân Diện