Trong khi dư luận quần chúng, cùng các kênh thông tin
và truyền thông ở phương Tây lại không ngớt lời ca ngợi những cái hay, cái
giỏi của đất nước này về mọi mặt thì hai tác giả Pierre Cohen và Luc Richard
xuất thân là nhà báo và nhà văn đã từng sống ở Trung Quốc và biết tiếng quan
thoại, hiểu biết rộng về kinh tế, với cặp mắt quan sát sắc sảo của mình, họ
đã đi vào từng ngóc ngách của đời sống xã hội Trung Quốc để tìm hiểu một
thực tế vô cùng tế nhị và phức tạp để viết một cuốn «La Chine sera-t-elle
notre cauchemar?» (Ed. Mille et Une Nuit – Paris 2005, tái bản 5-2008) đầy
ắp thông tin và dày công phân tích nhằm chỉ ra những khuyết tật trong mô
hình phát triển hiện nay của Trung Quốc.
Người ta có thể nghĩ rằng, trước hết hai tác giả này
muốn nói lên một sự thật, một thực tế, mà trong nhiều năm ở phương Tây, báo
chí, cùng các cơ quan truyền thông và một số người có chức quyền vẫn cố tình
che giấu, hoặc tô hồng, vì dẫu sao, người ta cũng cần cái thị trường khổng
lồ này trong một nền kinh tế toàn cầu hoá.
Cũng có thể, do một bản năng tự nhiên, hay một tinh
thần dân tộc chủ nghĩa nào đó, các tác giả muốn vạch ra những yếu kém của mô
hình phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc, để cảnh báo các xã hội
phương Tây.
Cũng có thể, họ còn có một tầm nhìn rộng hơn nữa, một
tầm nhìn có tính chất chiến lược, ở qui mô toàn cầu.
Nhưng cũng có thể, đó chỉ là do một sự thôi thúc nội
tâm có tính chất đạo lý, vì sự thật, vì hạnh phúc của con người, và tương
lai chung của cả loài người?
Tác phẩm được viết như một thiên phóng sự, một nhân
chứng. Nó không chỉ nêu lên những hoàn cảnh cụ thể, có thật, nói lên những
điều mà những con số thống kê không thể nói lên hết được, mà còn truyền được
tới người đọc một dòng suy nghĩ, một nỗi lo âu, một lời cảnh báo.
1/ Nạn thất nghiệp ở thành thị
Từ những năm 90 của thế kỷ trước, với những bước đầu
của quá trình toàn cầu hoá, hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh TQ bị dẹp bỏ,
nhường chỗ cho các xí nghiệp tư nhân. Hàng triệu công nhân bị sa thải. Năm
1998, chỉ riêng trong khâu dệt may, có 660.000 người bị rơi vào hoàn cảnh
này; trong lãnh vực dầu khí, 1 triệu người. Các nhà máy cũ nhường chỗ cho
các nhà máy mới do nước ngoài đầu tư xây dựng. Công nhân quá 35 tuổi không
được nhận vào xưởng làm việc nữa. Một ngày công không phải là 8, 9 giờ, mà
là 11, 12 giờ. Công nhân bị sa thải được gọi là xiagang (“hạ cương”, từ được
tạo ra để làm nhẹ bớt cái ý bị đuổi việc – cương đây là cương vị).
Chủ trương dẹp bỏ các xí nghiệp quốc doanh thực ra đã
bắt đầu được thực hiện ngay từ những năm 80 và do chính quyền địa phương
chịu trách nhiệm quản lý. Sự kiện này diễn ra cùng một lúc với việc Đặng
Tiểu Bình cho thực hiện chính sách phân quyền về các địa phương. Cũng là một
công đôi việc, tránh cho Trung ương khỏi mang tiếng! Nhưng cũng từ đó, nạn
tham nhũng lan tràn về các địa phương.
Theo một cuộc điều tra gần đây của Nhà nước, thu nhập
bình quân của những người giàu có nhất ở thành thị, lớn hơn gấp 12 lần thu
nhập của những người nghèo; 10% nhà có của ở thành thị, chiếm 45% tổng số
tài sản, trong khi 10% những người nghèo nhất chỉ chiếm có 1,4% số tài sản
này.
Ở các thành phố lớn vùng đông-bắc, nạn thất nghiệp
chiếm từ 20 % tới 30% dân số. Ở Phong Đô, một thành phố mới được xây dựng
lại một cách rất hoành tráng ở bờ nam sông Dương Tử, gần đập thuỷ điện Tam
Hiệp, tỷ lệ này lên tới 60, 70%, vì trên thực tế, đây là một thành phố chết,
hoàn toàn thiếu vắng mọi hoạt động kinh tế.
50 năm sau “Bước nhảy vọt” (1958) – một sai lầm về
đường lối công nghiệp hoá, đã khiến hàng mấy chục triệu nông dân bị chết oan
(nạn đói những năm 1959-1961) – các nhà lãnh đạo địa phương Trung Quốc vẫn
còn nghĩ rằng, chỉ cần hô hào, động viên bằng lời nói, là có ngay những
người hăng hái đầu tư.
Điều nghịch lý, là một đất nước có nhiều người thất
nghiệp nhất, lại là nơi có nhiều khách nước ngoài đầu tư nhất, và cũng là
nơi mà các doanh nghiệp phương Tây chịu di dời cơ sở sản xuất của họ đến
nhất. Lý do đơn giản, là vì ở đây họ tìm được nhân công rẻ nhất [Tiền công
lao động của một người thợ máy Trung Quốc (0,6USD/giờ) rẻ gấp 23 lần tiền
công của một người thợ máy Pháp (17USD), và gấp 40 lần một người thợ Đức
(24USD)] !
Vấn đề thất nghiệp được tóm gọn lại trong một phương trình đơn giản: năm
2004, số người thất nghiệp là 14 triệu, thêm vào đó là 10 triệu người từ
nông thôn đổ ra thành thị kiếm sống hàng năm (năm 2005, con số này lên đến
13 triệu người). Để đáp ứng nhu cầu, phải cung cấp 24 triệu công ăn việc làm
cho những người này, điều mà cho đến nay các giới hữu trách mới chỉ bảo đảm
được có một phần ba mà thôi.
Điều nghịch lý, là một đất nước có nhiều người thất
nghiệp nhất, lại là nơi có nhiều khách nước ngoài đầu tư nhất, và cũng là
nơi mà các doanh nghiệp phương tây chịu di dời cơ sở sản xuất của họ đến
nhất. Lý do đơn giản, là vì ở đây họ tìm được nhân công rẻ nhất
2/ Nạn thất nghiệp ở nông thôn
(mingong = “dân công”,
từ mới để chỉ những người thất nghiệp từ nông thôn đổ lên thành thị kiếm
sống, và thường tụ tập ở các chợ lao động (“chợ người”), hay ngay trên hè
phố – từ này khác với từ dân công trong tiếng Việt, được dùng trong thời kỳ
chiến tranh ở Việt Nam):
Hiện nay, Trung Quốc có dân số trên 1,3 tỷ người, mà
hai phần ba là nông dân, tức là số nông dân có tới 900 triệu người, trong số
đó 600 triệu sống bằng nghề trồng trọt, trên những mảnh ruộng nhỏ li ti.
Năm 1978, Trung Quốc phát động phong trào hiện đại hoá
nông thôn, bãi bỏ chính sách tập thể hoá. Người nông dân được phát ruộng,
phát đất để trồng trọt, được đem nông phẩm ra chợ bán tự do. Ngay từ năm
1980, đời sống của người nông dân có những bước biến chuyển. Nhưng đến
khoảng năm 1990, không thấy người ta bàn bạc, đả động gì đến nông thôn nữa,
mà chỉ chú trọng đến sự phát triển của các đô thị, của các mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu, và đương nhiên là đến quá trình toàn cầu hoá.
Năm 2004, người ta được thống kê cho biết
rằng số dân nghèo đến mức tối đa (tính theo tiêu chuẩn: dưới
75USD/người/năm), lần đầu tiên đã tăng lên sau 25 năm, và đa số những người
này là nông dân.
Một vài thí dụ cho thấy sự nghèo khổ tột cùng của họ.
Một cậu học sinh trung học ở một huyện lị kia, vì không có tiền để trả tiền
học, đã lao mình xuống gầm xe lửa tự tử. Trước đó một hôm, ông đốc trường đã
không cho phép cậu thi lên lớp, và bảo rằng: “Không có tiền, không được
học”.
Vào mùa xuân năm 2005, đã nổ ra những vụ tranh giành
đất đai giữa nông dân và các quan chức địa phương, cũng như đã có những cuộc
biểu tình của nông dân chống việc các nhà hữu trách đã để cho các chất thải
công nghiệp làm ô nhiễm môi trường của mình.
Như vậy, là sau một thời gian ngắn ngủi, làm ăn bắt
đầu khấm khá trở lại vào những năm 80, tình hình nông thôn lại một lần nữa
xuống cấp: thuế má ngày càng nhiều, chi phí sản xuất tăng, học phí cho con
cái tăng, các dịch vụ y tế thiếu thốn, môi trường bị ô nhiễm, nạn thất
nghiệp tràn lan.
Nếu kể cả những dịch vụ mà người dân đô thị còn được
hưởng thêm, thì thu nhập của người dân đô thị bằng sáu lần thu nhập của
người dân nông thôn. Khoảng hơn 10% nông dân sống với non 625 nhân dân tệ
mỗi năm
Hố sâu giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn. Nếu kể
cả những dịch vụ mà người dân đô thị còn được hưởng thêm, thì thu nhập của
người dân đô thị bằng sáu lần thu nhập của người dân nông thôn. Khoảng hơn
10% nông dân sống với non 625 nhân dân tệ mỗi năm (62Euro/năm). Mức sống này
còn kém hơn cả mức sống bần cùng nhất, theo tiêu chuẩn quốc tế. 11% dân số
Trung Quốc thiếu ăn, trong số đó đa số là nông dân.
Nếu tính theo tiêu chuẩn đầu người, mỗi nông dân phải
có được 0,66 ha đất nông nghiệp mới có thể làm ăn sinh sống được ở nông
thôn. Con tính đơn giản này cho thấy nông thôn Trung Quốc thừa 170 triệu
người. Thừa người ở nông thôn, thì người ta chỉ còn cách kéo nhau lên thành
thị làm dân công.
Dân công không phải là một người vừa là nông dân, vừa
là công nhân. Họ không là gì cụ thể cả. Họ không phải là nông dân, mà cũng
không phải là công nhân. Họ làm công nhật, không có hợp đồng, không có bảo
hiểm xã hội, hôm trước hôm sau có thể bị đuổi, mà không kêu ca được với ai.
Họ bị cấm không được phép làm một số nghề (danh sách các nghề bị cấm năm
1996, tại Bắc Kinh, là 15 nghề, đến năm 2000 con số này lên tới hơn 100).
Một ngày lao động của họ có khi là 10, 12 tiếng, có khi là 15 tiếng. Họ
không có quyền hưởng luật lao động. Một dân công muốn có được một chỗ làm
việc, phải « mua » các giấy tờ, thủ tục hành chính, với giá 640 nhân dân tệ,
bằng 2 tháng lương. Chế độ « hộ khẩu » được áp dụng chặt chẽ đối với họ.
Mặc dầu vậy, với giá nhân công rẻ mạt, họ đã « được »
khai thác có hiệu quả trong các ngành công nghệ xuất khẩu, nơi mà TQ phá kỷ
lục về giá thành sản phẩm.
Dân công là những người bị đánh thuế nhiều nhất và
cũng là những người bị khinh rẻ nhất ở các đô thị. Một cặp vợ chồng dân
công, lương tháng mỗi người khoảng 800 nhân dân tệ (80Eu ro), phải trả mỗi
tam cá nguyệt 400 nhân dân tệ (40Euro) cho trường học của đứa con, nhiều hơn
cả những người dân thành phố cư ngụ tại chỗ.
Nhà nước TQ dự kiến, trong vòng 20 năm, giảm số nông
dân xuống chỉ còn 30% số người lao động của cả nước. Dự kiến này xem ra
không thực tế lắm, vì nếu như vậy thì phải chấp nhận hàng năm sẽ có tới 26
triệu nông dân kéo nhau lên thành thị sinh sống, trong khi lúc này chỉ có từ
10 đến 13 triệu. Dẫu sao, dòng thác dân công – mà người ta ước lượng khoảng
từ 150 đến 200 triệu – vẫn sẽ đổ vào các thành thị, và giá nhân công nhờ đó
sẽ giữ được ngày một rẻ.
Không những nông thôn thiếu đất trồng trọt, mà diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại bởi những xí nghiệp, nhà máy,
được di dời về đây. Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia ô nhiễm
nhất thế giới. 190 triệu nông dân sống trong một môi trường không lành mạnh,
nước sông, nước hồ phần lớn đều bị ô nhiễm.
3/ Số phận của những người nữ dân công
Ở Trung Quốc, những nơi phải sắp xếp, tổ chức lại các
xí nghiệp quốc doanh bị dẹp bỏ, phụ nữ là những người đầu tiên bị sa thải
hoặc di chuyển. Trong các ngành kỹ nghệ, điều kiện làm việc của những người
nữ dân công còn tồi tệ hơn là của nam dân công nhiều. Không lấy gì làm lạ,
là sau một thời gian, một số không nhỏ các nữ dân công đã phải bỏ đi làm gái
điếm.
Hiện tượng mãi dâm của các cô gái từ nông thôn lên
thành thị, từ hơn 20 năm nay, đã trở nên một hiện tượng bình thường dưới mắt
mọi người. Phần lớn các cô này đều đã trải qua một thời kỳ làm dân công.
Quan hệ tình dục đã trở thành hàng hoá trao đổi, hoàn toàn phù hợp với tâm
thức coi đồng tiền là quyền lực tối cao, coi cuộc đời là tiêu xài, hưởng
thụ, con người là hoàn toàn vô trách nhiệm đối với xã hội.
Nhiều người – trong đó có những khách du lịch rất
nhiệt tình và hồ hởi – khi được viếng thăm các thành phố Trung Quốc, theo
các tuyến “tua”, cứ ngỡ rằng những biến đổi về mặt xã hội ở những nơi này
cũng là những biến đổi chung cho cả đất nước Trung Hoa. Thật ra, không phải
thế. Đó chỉ là cái mặt tiền.
Cuộc sống ở đô thị có thay đổi thật, người phụ nữ có
được nhiều điều kiện thuận lợi hơn để học hành và làm việc, nhưng Trung Quốc
chủ yếu vẫn là một nước nông nghiệp. Ở những vùng trung tâm, như Hồ Nam, An
Huy, v.v., nông thôn vẫn không mấy thay đổi. Vẫn những cuộc hôn nhân sắp đặt
sẵn, cô dâu về nhà chồng rồi, liền bị cắt đứt liên hệ với gia đình nhà mình.
Vẫn những vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em giữa vùng này và vùng khác. Vẫn cái
truyền thống “trọng con trai, khinh con gái”. Chính sách giới hạn “một con”
của Nhà nước, khiến cho các cặp vợ chồng phải chọn lựa. Trên 7 triệu trường
hợp phá thai mỗi năm, 70% là thai con gái. Vai trò của người mẹ, người vợ,
trong nhiều gia đình nông dân đôi khi chỉ dừng lại ở vai trò của người hầu,
người ở. Từ những năm 80, sau khi chế độ hợp tác xã bị dẹp bỏ, trở lại
phương thức canh tác kiểu gia đình, vai trò của người phụ nữ lại càng bị
chèn ép. Bắt đầu từ năm 1990, sự xuống cấp của các khâu giáo dục và y tế ở
nông thôn càng làm cho họ bị thiệt thòi. Do sự phân biệt chọn lựa vì quyền
lợi kinh tế giữa con trai và con gái, tỷ lệ thất học về phía nữ là 23% năm
1997 (49% năm 1982); về phía nam là 9% (21% năm 1982).
Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với nông thôn,
cộng với các hủ tục còn tồn tại ở đây đối với người phụ nữ, khiến cho họ lâm
vào một hoàn cảnh tuyệt vọng. Hiện nay, tỷ lệ tự tử của phụ nữ Trung Hoa
thuộc vào hàng cao nhất thế giới.
Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với nông thôn,
cộng với các hủ tục còn tồn tại ở đây đối với người phụ nữ, khiến cho họ lâm
vào một hoàn cảnh tuyệt vọng. Hiện nay, tỷ lệ tự tử của phụ nữ Trung Hoa
thuộc vào hàng cao nhất thế giới.
4/ Giáo dục bị “hy sinh” cho kinh tế
Ở thời đại ngày nay, biết đọc, biết viết không đủ, còn
phải biết đôi chút khái niệm khoa học kỹ thuật, phải biết sinh ngữ, để có
thể tiếp thu được những công nghệ nhập từ nước ngoài, v.v. Trên thực tế, nhà
nước Trung Quốc đã không thực sự quan tâm đến vấn đề này. Năm 2003, ngân quỹ
dành cho giáo dục chỉ chiếm có 3,8% tổng sản lượng công nghiệp.
Ngay từ 1999, tại một Hội nghị của Bộ Giáo dục, một
chủ trương đă được đề ra, là khuyến khích các gia đình tăng thêm ngân quỹ
cho việc giáo dục con cái. Ý đồ là đi đến việc tư lập hoá các trường học. Ở
các vùng nông thôn nghèo, các khoản chi phí cho việc học của con cái đối với
các bậc cha mẹ lại càng lớn. Cũng bởi vì chỉ có 23% ngân sách giáo dục của
nhà nước dành cho nông thôn, nơi có 2/3 dân số của cả nước, cho nên gánh
nặng về mặt tài chính đổ cả lên đầu các bậc cha mẹ, mà đại bộ phận là nông
dân nghèo khổ.
Chỉ có 23% ngân sách giáo dục của Nhà nước dành cho
nông thôn, nơi có 2/3 dân số của cả nước, cho nên gánh nặng về mặt tài chính
đổ cả lên đầu các bậc cha mẹ, mà đại bộ phận là nông dân nghèo khổ.
Trong một công trình nghiên cứu về gia đình người nông
dân, Isabelle Attané, thuộc Trung tâm nghiên cứu dân số, viết: “Trong một hệ
thống giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế nhiều hơn là nhu cầu xã hội, thì
những người dân nghèo khổ nhất, những người không được hưởng thụ những thành
quả của sự phát triển, phải trả giá đắt nhất”.
Chính sách của Nhà nước về giáo dục như vậy đã ảnh
hưởng trực tiếp đến khoảng cách về trình độ văn hoá ngày càng xa giữa thành
thị và nông thôn (mức sống ở thành thị hiện nay cao gấp 6 lần mức sống ở
nông thôn), cũng như giữa con trai và con gái (nạn thất học chiếm 6,6% giới
trẻ ở nông thôn, trong đó có 3,6% là con trai, 10% là con gái).
Điều đáng lo ngại nhất, là giáo dục vốn được coi là
một công cụ có khả năng đưa tầng lớp nông dân thoát khỏi nạn nghèo đói, thì
nay lại không tới được với họ nữa. Theo Philippe Cohen và Luc Richard, họ
vẫn chỉ là một kho dự trữ nhân công rẻ tiền – một yếu tố quan trọng hàng đầu
trong việc tạo ra những sản phẩm mới, rẻ, dễ cạnh tranh, dễ kiếm lời trên
thị trường toàn cầu hoá.
5/ Khó khăn trong việc áp dụng luật pháp
Điều mà các nhà lãnh đạo TQ phải lo thực hiện trước
tiên, là làm sao áp dụng được luật pháp, nói chung, trên đất nước mình !
Trong mọi lãnh vực, từ kinh tế, lao động, đến môi trường, có luật pháp là
một chuyện (mặc dầu đôi khi luật pháp cũng còn rất mù mờ), nhưng áp dụng nó
lại là một chuyện khác.
Chỉ cần lấy một thí dụ: công nghệ làm hàng lậu quy mô
quốc tế, chẳng hạn. Người ta cho rằng hiện tượng này chỉ có thể xảy ra với
sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của những quan chức địa phương mà thôi.
Các luật lao động thông thường cũng không áp dụng được
giữa chủ và thợ, vì luôn luôn có sự can thiệp của chính quyền địa phương
bênh vực quyền lợi của ngườI chủ, kẻ có tiền. Lương lậu của thợ thuyền, đặc
biệt là của những người dân công, luôn luôn bị trả chậm.
Nhìn chung, ít nhất một nửa số nhân công làm việc
trong các xí nghiệp ở quy mô quốc gia, không được hưởng luật pháp. Tại sao
lại có tình trạng như vậy? Đơn giản chỉ vì, nếu tất cả các xí nghiệp áp dụng
luật lao động, thì Trung Quốc sẽ mất đi con chủ bài (nhân công rẻ) để cạnh
tranh trên thị trường.
Trong lãnh vực môi trường cũng vậy. Sự áp dụng khe
khắt các luật lệ về môi trường sẽ động chạm đến các quyền lợi kinh tế. Do
đó, luật pháp trong lãnh vực này cũng được để lỏng lẻo, và tuỳ ở các cơ quan
hữu trách địa phương có muốn áp dụng hay không. Trường hợp ô nhiễm ở sông
Hoài, vùng Hồ Nam, An Huy, là một thí dụ điển hình. Năm 1994, chính quyền
Trung ương hạ lệnh làm sạch con sông này, vì cả một vùng dân cư gồm 160
triệu dân bị ô nhiễm. Trên giấy tờ, hàng nghìn xưởng máy bị đóng cửa, di
chuyển, hoặc cải tạo theo đúng các tiêu chuẩn, quy phạm. 60 tỉ nhân dân tệ
đã được chi ra cho công việc này, nhưng cho đến nay con sông Hoài vẫn bị ô
nhiễm hơn bao giờ hết. Đối với chính quyền, thì vấn đề như vậy là đã giải
quyết xong rồi: sổ tiền 60 tỉ nhân dân tệ (6 tỉ Euro) đã được chi ra, và vấn
đề đã được xoá sổ.
***
Tác phẩm của Philippe Cohen và Luc Richard còn đề cập
đến nhiều vấn đề khác nữa, liên quan đến tác hại của mô hình phát triển của
Trung Quốc lên nền kinh tế toàn cầu. Song vì giới hạn của bài viết, chúng
tôi đã chỉ tập trung trình bày những nhân chứng và nhận xét của các tác giả
trên những vấn đề mà chúng tôi cho là liên quan trực tiếp đến Việt Nam, để
chúng ta cùng suy nghĩ.
V. N.
Nguồn: Tiasang
|