"Nhà nước pháp
quyền" đã được chính thức du nhập vào Việt Nam từ cuối
năm 1991. Chính Tổng bí thư Đỗ Mười đã nêu lên khái
niệm này trước tiên trong một bài nói tại hội nghị lần
thứ hai Ban chấp hành trung ương khóa 7 ngày
29-11-1991. Mười sáu năm trôi qua, dư luận vẫn còn tự
hỏi: "Nhà nước pháp quyền" là gì? Hỏi như vậy, khác gì
xác nhận vấn đề hãy còn là thời sự? Mà lại là thời sự
nóng hổi! Trong nước, vi phạm luật là tin tức hàng
ngày trên báo chí. Ngoài nước, các tổ chức quốc tế mà
Việt Nam tham gia không ngớt đòi hỏi "Nhà nước pháp
quyền" như một điều kiện phải thực hiện. Thực hiện thế
nào trước mắt dân và trước mắt quốc tế, nếu trước hết
không định nghĩa cho rõ khái niệm này? Đã đành Việt
Nam không bắt buộc phải theo quan niệm của ai, nhưng
mơ hồ về chính khái niệm mà mình đã thừa nhận là
chuyện không ổn.
Bài viết này bắt đầu
từ chỗ bắt đầu, nghĩa là từ lịch sử phát sinh ra khái
niệm. Gạn lọc hết những phức tạp không cần thiết, tác
giả tóm lược ba quan điểm đại diện cho ba hệ thống
pháp lý lớn nhất tại châu Âu: Đức, Pháp và Anh. Mỗi
quan điểm dính liền với hoàn cảnh chính trị của mỗi
nước: nước Đức đang tìm cách thống nhất dưới uy quyền
của một Nhà nước mạnh; nước Pháp vẫn còn giữ cuốn rốn
của Cách Mạng 1789; nước Anh chung thủy với tập tục
bất thành văn mà tòa án là người bảo vệ. Không ai
giống ai, nhưng quan tâm không xa nhau mấy.
1. Rechtsstaat của Đức.
Tiếng Đức, Recht là
luật pháp, Staat là Nhà nước, Rechtsstaat
là Nhà nước luật pháp, nhưng tôi đề nghị giữ nguyên
không dịch, để phân biệt với cách gọi của Pháp (Etat
de droit) và cách gọi của Anh (Rule of law). Học
thuyết về Rechtsstaat xuất hiện từ giữa thế kỷ 19,
trước khi Bismarck thống nhất nước Đức năm 1871, thành
lập Đế chế. Nhà nước vững mạnh được xem như giải pháp
cho nhu cầu thống nhất mà giới tư sản, giai cấp tiến
bộ lúc đó, muốn thực hiện, nhưng đồng thời họ cũng
muốn Nhà nước đó tôn trọng tự do của các tầng lớp đang
lên: hai nhu cầu đưa đến quan niệm Nhà nước luật pháp.
Nhà nước được đồng hóa với một người, vua, và vua chỉ
có thể thi hành nhiệm vụ của mình bằng phương tiện
luật pháp và bằng cách tôn trọng luật pháp.
Hiểu như vậy, mục
đích của Rechtsstaat là hạn chế quyền lực của Nhà nước
bằng luật pháp. Trong quan hệ giữa Nhà nước và người
dân, cũng như đối với tất cả những gì liên quan đến
đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, Nhà nước phải hành
động theo những quy tắc tổng quát, những nguyên tắc đã
vạch ra từ trước. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa
Nhà nước luật pháp (Rechtsstaat) và Nhà nước cảnh sát
(Polizeistaat).
Nhà nước cảnh sát đã
là một bước tiến so với Nhà nước chuyên chế hoặc tùy
tiện, bởi vì đã biết công nhận và dành cho luật pháp
một địa vị khá rộng. Thế nhưng luật pháp ở đây chỉ là
một thứ luật có tính thuần túy phương tiện, luật mà
chính quyền hoàn toàn làm chủ, luật được dùng để buộc
dân thi hành nhiệm vụ chứ không ràng buộc chính quyền:
luật pháp kiểu này biểu hiện quyền uy của người cầm
quyền, khí cụ để đạt những mục đích mà chính quyền
vạch ra.
Nhà nước luật pháp
Rechtsstaat vượt lên trên Nhà nước cảnh sát: luật pháp
không phải chỉ là phương tiện hành động của Nhà nước,
mà còn là cái khung giới hạn quyền lực của Nhà nước.
Do đó, luật pháp có hai bộ mặt đối với các cơ quan
hành chánh: vừa tạo khả năng cho bộ máy hành chánh
hành động, vừa tạo ràng buộc trên cơ quan hành chánh.
Chính quyền không thể buộc ai làm điều gì mà luật đã
không minh bạch cho phép, và người dân có thể viện dẫn
trước một cơ quan tài phán luật đã làm ra để đòi hủy
bỏ, tu chính, hoặc không áp dụng những quyết định hành
chánh đã vi phạm luật. Trong thực tế, học thuyết
Rechtsstaat nhằm xác nhận ưu thế của luật trên bộ máy
hành chánh. Hành chánh không những không được hành
động trái luật mà làm gì cũng phải được luật cho phép.
Chỉ luật mới có thể tạo ra những nguyên tắc tổng quát,
hành chánh chỉ có thể áp dụng những nguyên tắc tổng
quát đó cho từng trường hợp cá biệt.
Như vậy, phải nói
thêm: Rechtsstaat không những chỉ có nghĩa là Nhà nước
phải hành động theo luật pháp, mà Nhà nước còn phải
được đặt dưới luật pháp. Vì vậy, vấn đế lý thuyết là
phải cắt nghĩa tại sao Nhà nước đặt dưới pháp luật?
Chẳng phải là trước đó, Nhà nước vẫn được hiểu như là
quyền uy thống trị, dọc ngang nào biết trên đầu có ai
hay sao? Trên đầu đã không có ai ngoài tóc, thì làm gì
có những nguyên tắc có trước, ở ngoài, và ở trên Nhà
nước? Mà ví thử những nguyên tắc ấy có chăng nữa, nếu
không có Nhà nước thì lấy ai áp dụng, lấy ai chế tài,
có cũng như không? Chẳng phải Nhà nước là điều kiện
sinh tồn của nó, cho nó ra đời, làm ông tạo hóa của nó
hay sao? Cho nên, trong quan niệm trước đó, chỉ những
nguyên tắc nào được Nhà nước ban ra và chế tài mới có
tính pháp lý. Làm sao dám nói Nhà nước nằm dưới luật
pháp được?
Để bênh vực Rechtsstaat, học thuyết
Đức sáng tạo ra thuyết "Nhà nước tự giới hạn". Một
mặt, thuyết này thừa nhận truyền thống tư tưởng trước
đây: Nhà nước là nguồn gốc của luật pháp, luật pháp
không áp đặt trên Nhà nước một ràng buộc từ bên ngoài,
một giới hạn khách quan. Một mặt, thuyết này nói thêm:
điều đó không có nghĩa rằng quyền uy của Nhà nước là
vô hạn, mà chỉ có nghĩa rằng Nhà nước có một đặc quyền
- đặc quyền tự mình đặt ra cho mình những nguyên tắc
tạo khung cho việc thực hiện quyền lực của mình. Vị
thế đặc biệt đó của Nhà nước trong mối tương quan với
luật pháp cắt nghĩa tại sao Nhà nước không bị chi phối
bởi cùng những nguyên tắc như những cá nhân thông
thường: Nhà nước được đặt dưới một luật pháp đặc biệt,
luật hành chánh, bảo vệ Nhà nước hơn.
Mặc dầu có châm chước như vậy, các
lý thuyết gia của thuyết tự giới hạn vẫn xem luật pháp
như thực sự ràng buộc Nhà nước: Nhà nước không những
không thể tự mình hủy bỏ trật tự pháp lý mà không làm
rạn nứt nền móng của chính mình, mà Nhà nước còn phải
tôn trọng luật pháp một cách tự nhiên. Tại sao? Vì hai
lẽ. Một, là vì Nhà nước có lợi để làm như thế: chính
mình tôn trọng luật thì luật do mình làm ra càng tăng
thêm giá trị, càng được mọi người tôn trọng. Hai, là
vì áp lực của xã hội thúc đấy Nhà nước phải tôn trọng.
Dù giải thích như vậy có vững hay không, trong lý
thuyết tự hạn chế, ý chính là luật pháp không phải nằm
ở ngoài Nhà nước, không phải hạn chế từ bên ngoài,
không phải ràng buộc từ bên ngoài, mà nằm ở bên trong
Nhà nước, do chính ý muốn của Nhà nước. Quan niệm này
phản ánh triết lý truyền thống của Đức về Nhà nước,
đặc biệt là từ Kant, Fichte, Hegel, và phản ánh chế đô
chính trị của Đức hồi đó, cần một Nhà nước để thống
nhất.
Do đó, học thuyết Rechtsstaat không
được tiếp nhận trọng đãi ở Pháp. Một mặt, các tác giả
Pháp xem đó như là cách biện minh cho chế độ chính trị
của Đức; một mặt, lý thuyết tự hạn chế bị chê là lừng
khừng, cố ý tránh né để khỏi hạn chế thực sự Nhà nước
bằng luật pháp. Thêm nữa, lý thuyết của Đức cũng trái
hẳn với quan niệm của Pháp về Nhà nước: một bên xem
Nhà nước như một thực thể trừu tượng, độc lập; một bên
xem Nhà nước như một phương tiên pháp lý để Dân Tộc tự
tổ chức. Đây là quan niệm đặc thù của Pháp, thừa kế từ
Cách Mạng 1789, xem Nhà nước là Nhà nước-Dân Tộc
(Etat-Nation) hoặc Quốc Dân. Bởi vậy, tuy ra đời trước
Pháp, học thuyết của Đức phải đợi đến khoảng 1920 mới
thực sự được du nhập vào Pháp, rồi được nhào nặn, sửa
đổi để trở thành học thuyết của Pháp, mang tên là Etat
de droit, dịch sát nguyên văn Rechtsstaat.
2. Etat de droit của Pháp.
Miếng đất chính trị của Pháp đã
được Cách Mạng 1789 cày bừa trước khi nhận hạt giống
Rechtsstaat. Thay đổi toàn bộ hệ thống pháp lý có
trước, Cách Mạng lập ra một thứ bậc pháp lý rất chặt
chẽ, phân minh. Trên tột cao là "những quyền tự nhiên,
không thể chuyển nhượng, và thiêng liêng của con
người". Dưới đó là hiến pháp mà mục tiêu là bảo đảm
những quyền vừa nói và thực hiện sự phân quyền giữa
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Dưới nữa là luật do Quốc
hội biểu quyết. Dưới cùng là những văn kiện của chính
phủ mà nhiệm vụ là ban hành và áp dụng luật. Bộ máy
hành chánh, không có tư cách đại diện ai cả, không
được xen lấn vào việc sử dụng quyền lập pháp và cũng
không được ngưng hoãn việc áp dụng luật.
Thứ bậc pháp lý đó, rõ ràng trên lý
thuyết, lại sơ hở cả trên lý thuyết lẫn thực tế.
Nguyên nhân là Rousseau.- là lý thuyết quá nặng ảnh
hưởng của Rousseau về luật và về Quốc Dân. Quốc Dân,
trong tư tưởng của Rousseau, là một thực thể trừu
tượng, độc lập, không đồng hóa với từng cá nhân cụ
thể. Vì trừu tượng, Quốc Dân không có miệng để nói lên
trực tiếp ý muốn của mình, phải nói qua miệng của
những người đại diện được bầu lên: tiếng nói của họ, ý
muốn của họ phát biểu ý muốn của chính Quốc Dân. Ý
muốn đó diễn dịch ra thành luật. Luật, "biểu hiện ý
muốn của toàn thể", chói lọi hào quang. Hào quang đó
làm mờ nhạt thứ bậc pháp lý vừa sắp đặt, cụ thể là
hiến pháp. Tình trạng chính trị thiếu ổn định sau
1789, chế độ này đổ, chế độ khác lên, Cộng hòa rồi lại
quân chủ, quân chủ rồi lại Cộng hòa, rồi quân chủ, rồi
Đế chế, hiến pháp thay đổi năm lần bảy lượt, mất uy
thế trước luật. Là tối thượng trong thực tế, luật mang
áo bào tối thượng khoác lên vai cơ quan làm ra luật,
tức là Quốc hội. Khác hẳn Đức, Quốc hội làm mưa làm
gió trong lịch sử chính trị Pháp, lật hết chính phủ
này đến chính phủ khác trong suốt giai đoạn Đệ Tam, Đệ
Tứ Cộng Hòa, từ 1875 đến tận 1958. Và cũng vì luật
chói sáng hào quang như thế, cho đến 1958, Pháp không
giải quyết nổi mâu thuẫn căn bản trong đẳng cấp pháp
lý: không thành lập được một cơ quan nào để hủy bỏ
luật trong trường hợp luật vi phạm hiến pháp. Ngược
lại, Pháp rất tinh vi trong việc kiểm soát tính cách
hợp luật của các quyết định hành chánh. Ngăn cấm không
để cho các cơ quan hành chánh vi phạm luật là quan tâm
chính của hệ thống pháp lý Pháp.
Bởi vậy, trong suốt giai đoạn Đệ
Tam Cộng Hòa (1875-1940), người dân không được bảo vệ
nếu quyền của mình bị chính luật của Quốc hội làm ra
vi phạm. Đâu có phải luật nào cũng tốt? Đâu có phải
làm nhiều luật là tốt? Thiếu gì luật vi phạm quyền và
tự do của dân chúng? Thiếu gì luật gây nhiễu cho dân?
"Hợp pháp" với thứ luật đó lại hóa ra nối dáo cho
giặc. Làm sao chống lại thứ luật như vậy?
Lý thuyết Nhà nước pháp luật (Etat
de droit) được du nhập từ Đức và được triển khai chính
là khí giới tư tưởng để chống lại Nhà nước hợp pháp
(Etat légal). Vấn đề là phải quan niệm lại địa vị hào
quang của luật và xác nhận lại vị thế cao nhất của
hiến pháp so với luật của Quốc hội. Cụ thể, tranh luận
diễn ra trên tính pháp lý của Tuyên Ngôn về quyền của
con người và công dân 1789. Một số tác giả lớn xem
Tuyên Ngôn đó như một văn kiện luật pháp thực sự, cao
hơn luật và cao hơn cả hiến pháp. Một số khác chủ
trương phải tu chính hiến pháp 1875, đưa những quyền
mà Tuyên Ngôn công nhận vào trong hiến pháp, để cơ
quan làm luật không được vi phạm. Dù khác nhau, cả hai
ý kiến đều nhất trí trên cùng một nhận định: phải quy
định bằng hiến pháp những bảo đảm cho quyền của người
dân chống lại một cơ quan làm luật xét ra còn nguy
hiểm cho tự do của người dân hơn cả quyền lực hành
chánh. Có hai cách để thực hiện bảo đảm: hoặc trao cho
các tòa án quyền kiểm soát hiến tính các đạo luật như
ở Mỹ, hoặc thành lập một Tòa án đặc biệt như ở Pháp
hiện nay.
Du nhập Rechtsstaat, các lý thuyết
gia của Pháp cũng phải giải quyết vấn đề lý thuyết hóc
búa về tương quan giữa Nhà nước và luật pháp. Nhà nước
ở trên hay luật pháp ở trên? Giải pháp hàng hai tự hạn
chế của Đức là đề tài tranh luận sôi nổi. Hai phe
chống đối nhau trên giá trị pháp lý của Tuyên Ngôn
1789. Khuynh hướng chủ trương địa vị tối ưu của Tuyên
Ngôn bênh vực ý kiến theo đó Nhà nước, cơ quan nói lên
ý muốn của nhà cầm quyền, phải được đặt dưới một trật
tự khách quan mà chính mình không lập ra. Khuynh hướng
đối lập, chủ trương Tuyên Ngôn không có giá trị pháp
lý, bênh vực quan điểm theo đó Nhà nước chủ tể chỉ có
thể bị hạn chế bằng những nguyên tắc do chính mình tạo
lập.
Thủy thổ của nước Pháp cách mạng
rốt cục không hợp với khuynh hướng thứ hai, chịu ảnh
hưởng của Đức: nhiều tác giả lớn chỉ trích kịch liệt
thuyết tự hạn chế, xem như biện minh cho quyền lực
toàn trị của Nhà nước, đặt Nhà nước trên luật pháp.
Vậy, theo họ, nếu luật pháp không do Nhà nước mà ra
thì do đâu? Trả lời: do một nguyên tắc có trước và
trên Nhà nước. Nguyên tắc gì? Thuở trước là Thượng đế:
luật pháp được xem như xây dựng trên trật tự do Thượng
đế an bài. Bây giờ là Thiên Nhiên, là Người, là Xã
Hội, là trật tự thiên nhiên, trật tự nhân bản, trật tự
xã hội mà Nhà nước chỉ diễn dịch ra như một thông dịch
viên. Khi Tuyên Ngôn Độc Lập 1776 của Hợp Chủng Quốc
Hoa Kỳ tuyên bố: "Chúng tôi cho rằng những chân lý sau
đây là hiển nhiên tự bản thân: tất cả mọi người đều
sinh ra bình đẳng; được Tạo Hóa ban cho một số quyền
không thể chuyển nhượng trong đó có quyền sống, tự do
và mưu cấu hạnh phúc...", bản Tuyên Ngôn đã viện dẫn
nguồn gốc thiêng liêng. Khi Tuyên Ngôn 1789 của Pháp
tuyên bố về những quyền thiên nhiên bất khả xâm phạm,
văn kiện đó tiếp thu máu mủ từ triết lý quyền thiên
nhiên phổ biến từ thế kỷ 17. Đến đầu thế kỷ 20, triết
lý quyền thiên nhiên bị lu mờ trước cao trào của xã
hội học, nhường chỗ cho triết lý ý thức xã hội. Phân
biệt cái "có sẵn" và cái "được xây dựng", các tác giả
lớn không xem luật pháp như nằm trọn gói trong lĩnh
vực thứ hai, nghĩa là do Nhà nước tạo dựng ra: đàng
sau những quy tắc tạo dựng đó đã có sẵn một thực tại
pháp lý sâu xa, hiện hữu dưới dạng chưa khai thác
trong cộng đồng xã hội. Nhà nước, xét cho cùng, chỉ là
một thực thể trừu tượng, nấp sau những người cai trị
có xương có thịt, để tạo cơ sở chính đáng cho việc sử
dụng quyền lực cưỡng bách. Hành động gọi là của Nhà
nước thật ra chỉ do từ ý muốn cá nhân của nhà cầm
quyền: sau lưng Nhà nước là những người có tên có tuổi
muốn thế này, hành động thế kia, áp đặt thế nọ. Vấn đề
là hạn chế việc sử dụng quyền uy đó bằng luật pháp.
Tác giả Léon Duguit, một trong những
ngôi sao bắc đẩu của luật học Pháp đầu thế kỷ 20, giải
thích "ý thức xã hội" thế này: trong đám đông cá nhân
tập hợp lại thành một nhóm xã hội nào đó, luật pháp
hiện hữu khi đám đông đó "hiểu và công nhận rằng một
phản ứng chống lại những người vi phạm nguyên tắc có
thể được tổ chức từ xã hội": tình trạng ý thức đó là
"nguồn gốc sáng tạo ra luật pháp". Chính từ cái lúc
chính xác đó, một nguyên tắc xã hội, xây dựng trên
tính liên đới và quan hệ hỗ tương, biến thành nguyên
tắc luật pháp. Do đó, luật pháp không phải từ Nhà nước
mà ra, hiện thân của địa vị tối thượng của Nhà nước,
mà là một "hiện tượng xã hội", được tạo thành "một
cách tự nhiên trong đầu óc của con người" dưới ảnh
hưởng của hai tình cảm: tính xã hội, thúc đẩy việc chế
tài mọi hành vi xâm phạm đến liên đới xã hội, và tính
công lý, buộc phải bảo vệ bình đẳng cho tất cả mọi
người trong tương quan giữa họ với nhau và giữa họ với
tập thể.
Cùng đi đến một kết luận, một ngôi
sao bắc đẩu khác, Maurice Hauriou, giải thích một cách khác.
Nhà nước, theo ông, vẫn là cơ sở của quyền lực, nhưng
người dân không tuân lệnh nhà cầm quyền như là những
người có xương có thịt, mà là vì tư cách đại diện của
Nhà nước. Quyền hành của họ chỉ chính đáng vì được
hành xử nhân danh Nhà nước, hiện thân của ý muốn sống
chung. Luật pháp, vì vậy, không phải nằm ở ngoài Nhà
nước như Duguit chủ trương, mà đúng là do Nhà nước tạo
ra nhân danh mình. Tuy vậy điều đó không có nghĩa là
Nhà nước toàn trị, muốn làm gì thì làm. Giống như mọi
định chế khác, Nhà nước được xây dựng trên sự thỏa
thuận của tập tục: chính Dân Tộc thỏa thuận và thúc ép
việc xây dựng một quyền hành có tính cưỡng bách, nhưng
quyền hành đó không thể tồn tại nếu không thường xuyên
dựa trên sự gắn bó của thành viên. Ý tưởng này chứa
đựng sẵn mầm mống của nguyên tắc giới hạn Nhà nước:
người dân không từ bỏ toàn thể tự do của mình vào tay
Nhà nước, và nếu sự thỏa thuận của người dân tiêu tan
thì Nhà nước sẽ không còn chính đáng. Từ điểm đó, Nhà
nước không thể được xem như là nguồn gốc duy nhất của
luật pháp.
Tranh luận trên đúng sai của những
lý thuyết này thì vô cùng, chỉ cần ghi rằng ý chính
của mọi lý thuyết về Nhà nước luật pháp là hạn chế
quyền lực của Nhà nước để bảo vệ quyền của người dân.
Nhà nước không phải muốn làm gì thì làm mà nhất nhất
phải hành động đúng luật pháp, nghĩa là: tôn trọng
những văn bản luật pháp quy định thẩm quyền của mình,
tôn trọng những nguyên tắc luật pháp do cơ quan cấp
trên của mình làm ra, và tôn trọng những nguyên tắc do
chính mình làm ra. Đây là điều cực kỳ quan trọng, bởi
vì chính sự tôn trọng luật pháp của chính quyền tạo ra
một quyền thực sự của người dân: quyền buộc chính
quyền, buộc cơ quan hành chánh phải tôn trọng luật.
Nhiệm vụ của tư pháp là chế tài mọi vi phạm nguyên tắc
đó, kể cả vi phạm của chính quyền. Trên điểm này, Rule
of law của Anh tự hào giải quyết vấn đề gọn nhất, hữu
hiệu nhất, ít lý thuyết nhất, cụ thể nhất.
3. Rule of law của Anh.
Trong quan niệm của Anh, Rule of
law không phải chỉ có nghĩa luật là cao nhất và mọi
công dân đều bình đẳng trước luật, mà còn có nghĩa
luật pháp hàm chứa những tính chất căn bản trong nội
dung: chỉ nhắm đến tương lai mà quy định, không trở
lui quá khứ; phải được công bố; phải rõ ràng, phân
minh, vững bền; phải có tính tiên liệu; phải tôn trọng
quyền và tự do của công dân... Quan niệm luật tối
thượng của Pháp chủ yếu nhắm tối thượng qua đẳng cấp,
nghĩa là trọng hình thức; quan niệm luật tối thượng
của Anh còn bao hàm một định nghĩa về luật xét trên
nội dung. Cùng một quan niệm tương tự, due process of
law của Mỹ, do tu chính Hiến pháp thứ 14 (1868) thiết
lập, dần dần được hiểu theo nghĩa rộng, không phải chỉ
buộc chính quyền tôn trọng đúng thể thức khi áp dụng
luật (procedural due process), ví dụ phải bảo đảm tổ
chức vụ kiện cho đúng đắn, mà còn buộc xét luật về mặt
nội dung (substantive due process). Cả hai tính chất
"nội dung" và "thể thức" đều không có mặt trong quan
niệm của Pháp.
Dicey, trong quyển sách "Introduction to the Study of
the Law of the Constitution" (1885) cắt nghĩa rõ thế
nào là Rule of Law.
Thứ nhất, Rule of Law có nghĩa:
luật là cao nhất, cao tuyệt đối, chống lại ảnh hưởng
của quyền lực tùy tiện, của đặc quyền, của quyền uy
phân biệt đối xử về phía chính quyền. "Người dân Anh
được cai trị bởi luật, và chỉ duy nhất bởi luật mà
thôi; một người có thể bị trừng phạt vì vi phạm luật
nhưng không thể bị trừng phạt vì bất cứ lý do gì
khác".
Thứ hai, Rule of Law có nghĩa là:
mọi người dân đều bình đẳng trước luật pháp, trước
luật thông thường được áp dụng trước các tòa án thông
thường. Điều này loại trừ ý nghĩ các viên chức Nhà
nước hay ai đó có thể thoát ra khỏi bổn phận tuân theo
luật áp dụng cho các công dân khác trước các tòa án
thông thường. Câu nói này vạch ra điểm khác biệt căn
bản giữa hệ thống pháp lý Anh và Pháp: ở Pháp, người
dân kiện chính quyền trước các tòa án hành chánh; ở
Anh, trước các tòa án thường, không phân biệt. Nhà
nước, trong chuyện đáo tụng đình, và người dân không
ai hơn ai.
Thứ ba, Rule of Law có nghĩa: luật
của hiến pháp, những nguyên tắc mà các nước khác quy
định trong hiến pháp, không phải là nguồn gốc mà là
hậu quả của những quyền của cá nhân như các tòa án đã
định nghĩa và đã thực hiện. Ai học luật đều biết: nước
Anh không có hiến pháp thành văn; những nguyên tắc có
tính hiến pháp ở Anh được tạo ra do tập tục và luật
thông thường mà thành. Trước mắt Dicey, nghĩa là của
người Anh, khi một nước Âu châu khác "bảo đảm quyền
của người dân", quyền này được xem như một đặc ân, do
một quyền lực trên cao bảo vệ. Ở Anh, việc bảo vệ
quyền và tự do của người dân được thực hiện một cách
bình thường, do việc áp dụng luật lệ bình thường,
trước các tòa án bình thường.
Điểm qua ba học thuyết chính ở châu
Âu về Nhà nước luật pháp, có thể tóm gọn thêm một lần
nữa ý chính. Khái niệm Nhà nước luật pháp bao gồm ba
chiều hướng, ba cấp bậc xen kẽ với nhau.
* Cấp bậc thứ nhất, tối thiểu, Nhà
nước luật pháp có nghĩa là nhà cầm quyền phải đặt mình
dưới luật pháp. Cụ thể, trật tự pháp lý phải được tôn
trọng, luật pháp phải được bảo đảm áp dụng cho tất cả
mọi người, dân cũng như quan chức, do một cơ quan tư
pháp đôc lập. Ở cấp bậc này, sự tôn trọng luật của
chính quyền được xem như phát xuất từ ý muốn tự chế,
tự tuân theo kỷ luật của chính quyền - một quá trình
lý trí hóa trong tiến bộ của một xã hội về cách hành
động của guồng máy Nhà nước nhắm loại trừ tùy tiện.
* Cấp bậc "tối thiểu" này, một Nhà
nước độc quyền, nếu hành động theo đúng luật, cũng có
thể gọi là Nhà nước luật pháp. Tất nhiên, xét về mặt
nội dung, luật có thể cho phép chính quyền làm bất cứ
biện pháp gì, tốt cũng như xấu cho người dân, nhưng
"Nhà nước luật pháp ở cấp tối thiểu" cũng đã khác với
Nhà nước toàn trị rồi: Nhà nước toàn trị thì bất chấp
luật pháp.
* Cấp bậc cao hơn,
Nhà nước phải
đặt mình dưới luật pháp và không được làm ra những
luật, những nguyên tắc pháp lý trái với những nguyên
tắc tổng quát cao hơn mà hiến pháp có thể công nhận
tinh túy. Ở cấp bậc này, luật pháp được xem như có
trước và cao hơn Nhà nước, tạo giới hạn cho hành động
của chính Nhà nước. Tất cả vấn đề là tìm cách cắt
nghĩa trên lý thuyết giới hạn đó.
* Cấp bậc thứ ba, Nhà nước luật
pháp là Nhà nước trong đó người dân được bảo đảm những
quyền và tự do một cách hữu hiệu. Quyền của con người
và dân chủ trong chính trị là hậu quả của bảo đảm này.
Quyền của con người bảo đảm cho người dân không bị
chính quyền vi phạm; dân chủ bảo đảm cho đa số được
nắm quyền và cho thiểu số đủ mọi tự do để trở thành đa
số trong lần bầu cử kế tiếp. Ở đây, Nhà nước cũng bị
giới hạn: giới hạn bởi quyền của công dân, trong đó có
quyền thay đổi ý kiến về việc lựa chọn người cầm
quyền. Rộng hơn, Nhà nước bị giới hạn vì một nguyên
tắc chung: những gì không liên quan đến lĩnh vực công
thì thuộc lĩnh vực tư; những gì không cần Nhà nước
phải nhất thiết nắm, hãy để cho xã hội tự quản. Phân
biệt giữa công / tư và Nhà nước / xã hội dân sự là đặc
điểm của một xã hội tiến bộ, văn minh.
***
Trong ngôn ngữ của thế giới, sau
Rechtsstaat, Etat de droit, Rule of Law, Việt Nam có
"Nhà nước pháp quyền". Tên gọi thật hay. Vừa "pháp",
nghĩa là luật pháp; vừa "quyền", nghĩa là... quyền.
Chưa biết quyền của ai, nhưng chắc chắn không phải là
quyền của Nhà nước, vì Nhà nước cần gì phải đòi quyền
- đòi một cái đã có. Thiện chí tôn trọng pháp luật của
Chính phủ Việt Nam đã có từ 1991 và tiếp tục được phát
huy cho đến nay, không ai chối cãi được. Nhà nước Việt
Nam thừa biết: một nước đang phát triển mà luật pháp
không được tôn trọng thực sự không thể nào tránh khỏi
hỗn loạn, dẫn đến cái họa diệt vong.
Trong lịch sử của
bất cứ nước phát triển nào, dù ở phương Tây hay ở
phương Nam, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa,
phát triển xã hội, phát triển chính trị, phát triển gì
gì đi nữa, cũng phải dựa trên phát triển ý thức tôn
trọng luật pháp, bắt đầu từ chính quyền để thấm vào
người dân. Làm gì có ổn định xã hội nếu không có ổn
định luật pháp? Làm gì có ổn định luật pháp nếu luật
không được áp dụng nghiêm minh? Làm gì có áp dụng
nghiêm minh luật nếu tòa án không độc lập? Nếu người
xử án không có trình độ? Nếu người dân không tin tưởng
ở công lý? Nếu chính quyền không tự mình nêu gương tôn
trọng luật pháp trước tiên?
Nhà nước pháp quyền thì có gì lạ
đâu với chúng ta! Đầu thế kỷ 20, Tôn Dật Tiên đã
giương cao tiêu chí "Dân Tộc - Dân Quyền - Dân Sinh".
Dân quyền là gì nếu không phải là hệ quả của tôn trọng
luật pháp? Quyền của dân được xem như mục tiêu của Nhà
nước từ 1911! Giữa thế kỷ 20, có một nước thuộc địa
anh hùng vùng lên viết trên lịch sử dành độc lập của
thế giới quật khởi ba chữ tiên phong: Độc Lập - Tự Do
- Hạnh Phúc. Tự do là gì nếu không phải là quyền của
người dân buộc chính quyền phải tôn trọng luật pháp?
Hạnh phúc là gì nếu trước hết không phải là quyền của
người dân không bị nhũng nhiễu quấy rầy? Nhà nước pháp
quyền có lạ lùng gì đâu đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh-
người khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa?
Đã đăng trên Tia Sáng