Những bài cùng tác giả
Cửa Thiền vừa cữ cuối Xuân,
Bông hoa đầy đất vẻ ngang lưng trời.
Truyện Kiều
Trùng trùng duyên khởi:
Trong thơ Nhật, không hiểu sao chúng tôi cảm thấy gần gũi
với Saigyô (1118-1190)
và Bashō (1644-1694) lạ lùng. Đặc biệt là Bashō.
Hồi còn ở Nhật,
chúng tôi có gõ cửa Thiền mấy lần nhưng duyên chửa bén. Kịp đến khi bắt đầu
ra dạy học (năm 1982), trùng trùng duyên khởi, cửa Thiền học mở rộng rồi
duyên mới kết. Đến với Thiền học trước khi gặp Bashō đúng là hạnh ngộ ! Lý
do là Thiền bàng bạc trong thơ Bashō.
Thế rồi mười hai năm trước (1998), những lúc rảnh rỗi
chúng tôi dịch cuốn Oku no hosomichi (奥の細道¹Lối lên miền Oku/Bắc)
của Bashō ra tiếng Việt.
Thư khích lệ của bạn đọc tạo niềm vui vô hạn, tiếc rằng sách đã tuyệt bản.
Hy vọng chúng tôi sẽ có dịp sửa lại bản dịch và bài giới thiệu cho hoàn
chỉnh, thêm phần minh hoạ cho đàng hoàng hơn nữa để rồi giới thiệu cùng độc
giả.
Trong bài này chúng tôi xin giới thiệu vài bài thơ của
Bashō mà chúng tôi cảm thấy khó quên.
***
Vài điều cần biết về haiku của Bashō:
Bashō là người đã định hình thể thơ haiku và đưa
haiku có chỗ đứng bề thế và trang trọng trên văn đàn Nhật Bản.
Qua thơ Bashō, lần đầu tiên một khái niệm mỹ học (美学) mang tên là sabi
(寂びtịch, như trong chữ “tịch liêu”) được đưa vào một cách hài hòa
và ở một mức độ chưa từng thấy.
Sabi đầu tiên được phổ biến qua thơ waka
của Fujiwara Shunzei (1114-1204). Ý thức này được các nhà thơ sau đó, đặc
biệt là Bashō, tiếp tục phát triển và định hình. Trên thực tế, sabi
trở thành khái niệm căn bản trong thơ Bashō. Sabi nhấn mạnh vẻ đẹp
tao nhã của những dáng hình cổ kính hay của thiên nhiên cô tịch — không hào
nhoáng rực rỡ, lộng lẫy hay kiêu kỳ. Cần để ý rằng thơ haiku của
Bashō tuy phảng phất không khí trầm lắng u huyền, gợi cho người đọc sự vô
thường trong cuộc đời, nhưng luôn thắm đượm tình người và không bao giờ mang
nét cay đắng chua chát hay u uất, oán hờn.
Sức ám thị (suggestibility) và tính hàm súc, theo
học giả Daisetz Suzuki, là bí quyết của thơ haiku cũng như của nghệ
thuật Nhật Bản nói chung. “Các nhà nghệ thuật Nhật Bản đều ít nhiều chịu ảnh
hưởng của Thiền (禅 Zen), họ luôn luôn có khuynh hướng diễn tả tình
cảm với số chữ hoặc số nét tối thiểu.” Điều tối kỵ khi làm thơ haiku
là thích lý luận dông dài, “khi tình cảm đã đạt đến mức độ cao nhất, ta lặng
thinh, bởi lẽ không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả thích đáng. Ngay mười bảy
âm tiết [trong thơ haiku] cũng đã quá dài.”
Xem như vậy, người làm thơ haiku vừa phải là người tu luyện Thiền.

Bashō-Tranh Buson
Tuy không phải là Thiền sư, Bashō thường ăn vận như một
nhà sư. Ngày ngày ngồi tham Thiền và đọc sách, Bashō lần lần ý thức rằng
haiku không chỉ là trò giải trí hay thú tiêu khiển, mà phải biểu lộ sâu
sắc thái độ của người làm thơ đối với cuộc sống. Thơ của Bashō dần dần thể
hiện vẻ đẹp u hoài diệu vợi của thiên nhiên và cuộc sống hiu quạnh của chính
mình. Tương truyền Bashō trồng bên cạnh túp lều này một bụi chuối (chữ Hán
gọi cây chuối là “Ba-tiêu 芭m蕉”, tức Bashō) do môn đệ biếu.
Cây chuối vì ít thấy ở Nhật, hàng xóm từ đó bắt đầu gọi
túp lều có bụi-chuối-không-trái này là Bashō-an (芭蕉庵 ), tức là Am Ba-tiêu,
rồi chẳng bao lâu họ gọi luôn chủ nhân của túp lều đó là Bashō-Sensei
(Ba-tiêu Tiên sinh). Chủ nhân túp lều chắc vừa ý với cái tên Ba-tiêu nên từ
đấy mới lấy Bashō làm bút hiệu. Cây chuối, đối với Bashō, tượng trưng cho
tính nhạy cảm (sensibility): trước một cơn gió nhẹ, tàu lá chuối có
thể gãy bất cứ lúc nào. Nhà thơ lắng nghe tiếng lá chuối day động xào xạc
mỗi lúc trời trở gió giữa đêm khuya thanh vắng. Nếu trong bản hợp tấu của
thiên nhiên hòa thêm tiếng mưa rơi rả rích, không khí trong túp lều chắc hẳn
lại thêm phần cô tịch và sâu lắng.
Ngoài ra, Bashō đã nhắc đến bốn mùa trong haiku
một cách gián tiếp và thường xuyên, được gọi là “quí ngữ 季語” — tức là ký
hiệu về bốn mùa.
Tương truyền khi mất Bashō có đến trên hai ngàn môn đệ.
Những nhà thơ nổi tiếng về sau, như Buson (1716-1784),
Issa (1763-1827),
và vô số nhà thơ khác đều chịu ảnh hưởng của thơ Bashō._
Nhiều bài thơ được yêu chuộng của Bashō đã được sáng tác
trên những chuyến đi. Những cuộc ngao du này không những đã ghi lại cảm hứng
của Bashō khi viếng thăm những nơi danh lam thắng cảnh, mà còn nói lên sự
nhạy cảm của nhà thơ đối với những loài cỏ mọn hoa hèn, như hoa mã đề (nazuna),
hoa nghệ (benibana), hoa thu (hagi); thảng hoặc những con
nhái, con ve sầu, con chuồn chuồn, con chim cuốc, v.v. mà nhà thơ đã bắt gặp
đó đây trên bước hải hồ.
Những hình tượng này gần gũi với người Việt, và cũng
chính vì ảnh hưởng của Thiền còn bàng bạc trong văn hoá Việt Nam, độc giả
người Việt có thể thưởng thức cảm tính nghệ thuật trong thơ haiku của
Bashō không mấy khó khăn.
***
Vài bài thơ khó quên:
Natsugusa ya Cỏ
mùa Hè [cao che mất lối đi]
Tsuwamonodomo ga Binh lửa
Yume no ato Dấu vết xưa
Cỏ cao che lấp lối mòn,
Dấu xưa binh lửa chỉ còn thế thôi !
Hiraizumi
Bashō sáng tác bài này khi qua vùng Hiraizumi,
nơi ngày xưa vào cuối thế kỷ XII vị võ tướng tài hoa son trẻ
Minamoto-no-Yoshitsune,
sau khi giúp anh-cùng-cha-khác-mẹ là Minamoto-no-Yoritomo
dẹp tan họ Taira
lập nên chế độ bakufu đầu tiên tại Kamakura, bị Yoritomo ganh tỵ ra
lệnh truy nã. Cuối cùng sa cơ thất thế, mãnh hổ nan địch quần hồ Yoshitsune
phải tự vẫn, khiến muôn đời vẫn còn luyến tiếc.
Chúng tôi đã lồng ý “mùa Hè” trong nguyên văn qua hai chữ
“cỏ cao.” Đỗ Phủ, vị thánh thơ thời Thịnh Đường, đã viết hai câu đầu trong
bài “Xuân vọng春望” như sau:
Quốc phá sơn hà tại, 国破山河在
Thành Xuân thảo mộc thâm. 城春草木深
Tạm dịch:
Chiến tranh tàn phá, nước
còn đây,
Thành đã vào Xuân, cỏ ngút đầy !
Bashō chắc đã ít nhiều lấy ý từ hai câu này, song sáng
tạo nhuần nhuyễn, chuyển “Thành đã vào Xuân” thành cỏ mùa Hè mà chúng ta gọi
tắt theo “quí ngữ” là “cỏ cao.”
Hiraizumi cũng là nơi dòng họ Fujiwara ba đời lập nghiệp, vinh hoa nổi
tiếng một thời. Bài thơ trên đã được sáng tác trong niềm cảm hoài khi Bashō
đến thăm dấu vết của bãi chiến trường khoảng năm trăm năm về trước.
Chắc hẳn cũng trong niềm cảm hoài tương tợ mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết
nên bài “Thăng Long thành hoài cổ” nổi tiếng trong văn học nước ta:
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương,
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...
Matsushima ya
Kìa Tùng Đảo
 Matsushima ya Ô kìa Tùng Đảo
Matsushima ya Kìa Tùng Đảo
Ô kìa Tùng Đảo, đây Tùng
Đảo !
Tùng Đảo đây rồi ! Tùng Đảo đây !
Ở Nhật có vô số danh lam thắng cảnh, trong đó Matsushima
(松島 Tùng-Đảo) thuộc huyện Miyagi được xem là một trong “ba thắng cảnh tuyệt
vời nhất”.
Matsushima có hơn 260 đảo nhỏ, do biển xoáy mòn tạo thành
một cảnh quan hiếm có. Trên đảo lại có những chòm thông muôn hình muôn vẻ.
Du khách ngỡ mình đi lạc vào Bồng Lai tiên cảnh.

Matsushima
Khi viếng thăm Matsushima, nhìn cảnh sắc đẹp không bút
nào tả xiết, Bashō khẩu chiếm bài thơ trên, trong đó hầu như nhà thơ chỉ
nhắc đến tên Matsushima, còn những chữ khác đều là những tiếng phụ. Cảnh đẹp
quá, đến nổi không có lời diễn tả !
Nhà thơ Đào Uyên Minh thời Lục Triều ở Trung Hoa có bài
thơ rất hay để nói lên tâm trạng đó:
Sơn khí nhật tịch giai,
Phi điểu tương dữ hoàn,
Thử trung hữu chân ý,
Dục biện dĩ vong ngôn.
Tạm dịch:
Chiều tà khí núi đẹp ghê !
Đàn chim vỗ cánh bay về cùng mây,
Ngẩng xem chân ý tràn đầy,
Muốn đem bút viết chẳng hay viết gì !
Đọc bài thơ Matsushima, chúng ta không khỏi nhớ đến Hàn
Mặc Tử. Nhà thơ tài hoa mệnh bạc khi đi qua Phan Thiết, trong niềm thổn thức
và cọng cảm với non nước xứ Lầu Ông Hoàng, đã buột miệng kêu lên hai tiếng ‘Phan
Thiết ! Phan Thiết !’ mà lời thơ là một bài haiku toàn bích như
Bashō (mặc dầu trong thơ Bashō không hề mang nét cay đắng, u uất):
Ôi trời ơi ! Là Phan Thiết !
Phan Thiết !
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi...
Con ve, hay ve sầu, là đề tài phổ biến trong văn học Nhật
Bản ngay từ thời Heian (794-1192).
Truyện Genji
vào thế kỷ XI thường được xem là cuốn tiểu thuyết
đầu tiên của nữ sĩ Murasaki Shikibu. Trong chương thứ ba, với đầu đề là
Utsusemi 空蝉, “không-thiền”, tức là ‘Vỏ ve sầu’, đồng thời cũng là
tên người phụ nữ chính trong chương này. Genji, ông hoàng
mười-bảy-tuổi đẹp trai và cũng là tay ăn chơi nổi tiếng, muốn tán tỉnh nàng
Utsusemi nhưng bị từ chối vì nàng đã có chồng. Nàng trốn chạy Genji,
bỏ lại chiếc áo choàng trong phòng. Genji đành chịu, làm bài thơ tanka,
ví chiếc áo choàng của nàng Utsusemi với ‘vỏ ve sầu’ !
Mặc dầu ve sầu xuất hiện rất sớm trong văn học Nhật Bản
và Truyện Genji rất nổi tiếng, phải đợi đến Bashō, tức hơn sáu thế kỷ
sau, tiếng ve mới gợi cho ta rõ ràng là tiếng gọi của mùa Hè với tình cảm
nhớ mong, mong nhớ. Bashō đã mang hình tượng của con ve sầu sít lại với
chúng ta và trong haiku trở thành một kigo (quí ngữ) —
tượng trưng cho mùa Hè oi ả.
Hồi nhỏ chúng tôi thích đi bắt ‘vè ve’.
Bôi mủ mít vào đầu cây sào để trít những con ve đậu cao. Buổi trưa Hè, cứ
mỗi lần nghe tiếng ve kêu vang, chúng tôi cảm thấy thôi thúc, giục giã khôn
lường. Khi dậy sớm, lúc trời còn tối mịt mờ, chúng tôi đến gốc cây mít, cây
đào,
cây nhỡn,
cây Ngải-Tướng-quân,
v.v. dùng đèn sáp để đi xem ‘vè ve non’ mới bò dưới đất lên cây thay vỏ — để
lộ đôi cánh non màu xanh lục, óng ả đẹp vô cùng. Nào đâu có biết thời gian
con ve sống trên cây chỉ nội trong bảy ngày, trong khi ở dưới đất phải đi
qua một chu kỳ là bảy năm trường !
Khi đi qua chùa Ryûshakuji (立石寺 Lập-Thạch-Tự) thuộc huyện
Yamagata ngày nay, Bashō đã viết:
Shizukasa ya
Yên tĩnh
Iwa ni shimiiru Thấm vào đá
Semi no koe Tiếng ve sầu
Nơi đây hiu quạnh một màu,
Tiếng ve rầu rĩ, luống sầu núi non !
hoặc:
Giữa trưa bỗng tiếng ve sầu,
Nghe chừng vách đá nhuốm màu tịch liêu !
hoặc:
Chùa xưa nghiêng bóng trưa
Hè,
Ve kêu rền rĩ : tứ bề quạnh hiu !

Ve sầu
Trong thơ haiku có lắm bài nhắc đến tiếng ve sầu.
Tiếng ve, giống như tiếng nước khua, có tác dụng như một câu công án, không
làm ta cảm thấy ồn ào mà ngược lại khiến ta ý thức được sự tĩnh mịch của
buổi trưa Hè.
Con ve sầu, chữ Hán gọi là Thiền 蝉, là tiếng đồng âm dị
nghĩa với chữ Thiền 禅 của Thiền tông.
Kyô nite mo
Tuy ở kinh đô
Kyô natsukashi ya Mà nhớ kinh đô
Hototogisu Chim cuốc
Hôm nay nằm giữa kinh
thành,
Cuốc kêu nhớ lại kinh thành năm nao !
Trong văn học cổ điển Việt Nam, hình ảnh chim cuốc khá
phổ biến. Chim cuốc còn có tên là “cuốc cuốc”, “quốc”, “quốc quốc”, “đỗ
quyên”, “đỗ vũ”, hay “tử quy”.
Theo truyền thống văn học Việt Nam, chim cuốc thường được
dùng theo điển tích là hồn Thục Đế nhớ nước:
Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Bà Huyện Thanh Quan

Shisendô (詩仙堂Thi-Tiên Đường), Kyoto
Trong văn học Nhật, chim cuốc (hototogisu) có thể
viết chữ Hán là ‘đỗ quyên’ 杜鵑, ‘bất như quy’ 不如帰, hoặc ‘thời điểu’ 時鳥¹. Tuy
không mang cùng hình tượng, hototogisu vẫn gợi cái gì u tịch và hoài
cổ — đúng với tâm trạng Bashō khi trở lại kinh đô, Kyoto, nhưng vẫn cảm thấy
có gì mất mát khi hồi tưởng lại đất thần kinh của một năm nào.
Nhà thơ Nguyễn Bính mồ côi mẹ từ hồi còn trẻ, lại thêm
cảnh nhà túng thiếu, từ Nam Định phiêu bạt vào Huế. Khi đến thăm xóm Ngự
Viên, nơi đã một thời là vườn Thượng Uyển,
Sớm Đào trưa Lý, đêm Hồng
phấn,
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên.
Trước cảnh ‘giậu đổ bìm leo’ (“Giậu đổ dây leo suồng sả quá”) nhà thơ
đã biểu lộ mối cảm hoài của mình qua hai câu, mà tứ thơ không có gì khác lắm
so với hai câu trên của Bashō:
Hôm nay có một người du
khách,
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên !
1. Hoa mã đề (馬蹄
nazuna):

Cây mã đề
Yoku mireba
Nhìn kỹ
Nazuna hana saku Hoa mã đề đang nở
Kakine kana Bên giậu
Mắt nhìn bên chiếc giậu tre,
Lơ thơ mấy bụi mã đề đơm hoa.
Trong thơ Bashō ta thường bắt gặp những hình tượng nhỏ bé
nhưng lời ít, ý nhiều : lá xương bồ, hoa thu, hoa nghệ, hoa mã đề, v.v.
Trong Thiền học, lời càng nhiều, càng đi xa bản chất của sự vật.
Hoa mã đề (nazuna馬蹄), đúng như tên chữ Hán là
“Tiền-xa-thảo 前車草” (cỏ-mọc-trước-xe), thường mọc bên vệ đường, giống như một
loài hoa dại. Hoa mã đề, nazuna, còn viết là 薺(tề), là
loại hoa sống được hai năm. Thân cao chừng 30 centimét, hoa có hình thập tự
bé, nở vào mùa Xuân. Khóm hoa màu trắng — không rực rỡ như hoa hồng, hoa cúc
— nở bên bờ rào nhũn nhặn, có mấy ai đoái hoài nghĩ đến !
Hoa mã đề thuộc trong bộ hoa môi (Lamiales), tên
khoa học là Plantaginaceae.
Cảm tính của Bashō được biểu lộ ngay với cả loài cỏ mọn
hoa hèn, gây cọng cảm và làm ấm lòng người đọc. Bất giác ta liên tưởng đến
‘cái giậu mồng tơi’ dễ thương trong thơ Nguyễn Bính:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn...
hoặc mấy khóm gừng luống tỏi đầy ‘nhân tính’ trong bài
thơ của Ôn-Như-Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-98):
Lởm chởm gừng vài khóm,
Lơ thơ tỏi mấy hàng,
Vẻ chi là cảnh mọn
Mà cũng đến tang thương.
2. Hoa thu (萩 hagi)

Hoa thu
Yuki yuki te
Đi, đi mãi
Taore fusu tomo Dầu có ngã trên đường
Hagi no hara Cánh đồng hoa thu
Mai đây có ngã trên đàng,
Cho tôi xin ngã giữa ngàn hoa thu !
Cây thu thuộc họ đậu, cao chừng 1 mét rưỡi, mọc thành
từng bụi. Cành thường lả xuống. Hoa màu hồng tía hay màu trắng.
Trong các tác phẩm của Bashō, chúng ta thấy có nhiều hoa
thu. Nhà thơ chắc hẳn mến loài hoa ‘cỏ mọn hoa hèn,’ đơn sơ, không rực rỡ
lộng lẫy — có từ thuở xa xưa. Hoa thu là một trong bảy loại cây cỏ tiêu biểu
của mùa Thu (七草 thất-thảo), người Nhật gọi là nanakusa.
3. Hoa nghệ(紅花 benibana)

Hoa nghệ (benibana)

Mayu haki o
Kẻ lông mày
Omokage ni shite Liên tưởng đến
Beni no hana Hoa nghệ phấn
Bên đường hoa nghệ nở vàng,
Người xưa bên cửa điểm trang thuở nào…
hoặc:
Nghệ nở vàng hoe cả cánh
đồng,
Có ngồi bên cửa điểm trang không ?
Cây nghệ thuộc họ cúc và sống được một hay hai năm. Cây
nguyên ở Ả Rập và vùng Tiểu Á Tế Á, dùng để lấy dầu, dược liệu, hay thuốc
nhuộm. Người ta dùng hột để lấy dầu, khi đốt hột ra tro người ta lấy tro đó
làm mực xạ.
Thân cây cao từ 30 đến 90 centimét, chung quanh lá có gai
lởm chởm. Vào mùa Hè, hoa nở một phần màu vàng nghệ, một phần sắc đỏ tươi
rực rỡ. Huyện Yamagata trồng nhiều nhất nước Nhật về hoa nghệ; người ta
thường trồng cả một cánh đồng.
Okuraretsu
Được người đưa tiễn
Okuritsu hate wa Rồi đưa tiễn người
Kiso no aki Mùa Thu ở rừng Kiso
Tiễn đưa, đưa tiễn mấy lần,
Quan san Thu đã nhuốm rừng Ki-so !

Cảnh Thu ở gần cầu Togetsubashi (渡月橋 Độ-Nguyệt Kiều),
Kyoto

Chùa Kiyomizudera (清水寺 Thanh-Thủy Tự ) vào Thu, Kyoto
Cây kaede (楓) chữ Hán gọi là “phong”. Cây phong
vào mùa Thu lá đỏ rực gọi là momiji (紅葉 hồng diệp), tức là “lá đỏ”.
Truyện Kiều có câu:
Rừng phong thu đã nhuốm màu
quan san,
Dặm hồng bụi cuốn chinh an.
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh...
(Câu 1520-1522)
Cây phong của Nhật Bản và cây phong trong Truyện
Kiều phải giống nhau. Tuy nhiên, cây phong ở Nhật (Japanese maple)
vào mùa Thu lá đỏ rực như lửa, khác những cây phong thường. Nước ta tuy
không có cây phong, nhưng Tiên Điền Nguyễn Du đã đi sứ sang Trung Hoa và nhà
thơ đã mượn Trung Hoa làm tìêu chuẩn đối chiếu.
Theo nhân sinh quan của Bashō, đời là một chuyến đi hay
một cuộc lữ hành. Trong đời có bao biết nhiêu lần tiễn đưa, đưa tiễn. Trong
bài thơ trên, Bashō tuyệt nhiên không nói đến tình cảm luyến tiếc của kẻ ở
người đi lúc chia tay. Theo tinh thần của Thiền tông, người làm thơ haiku
không biểu lộ tình cảm riêng tư, tức là phải vô ngã (muga 無我). Ở đây
nhà thơ chỉ nói đơn sơ là sau mấy bận tiễn-đưa-đưa-tiễn, mùa Thu đến lúc nào
chẳng hay.
Nhẹ nhàng thật, nhưng có gì man mác, lưu luyến.
Samazama no
Nhiều
Koto omoidasu Chuyện nhớ lại
Sakura kana Hoa anh đào !
Khơi bao niêm nhớ vô vàn,
Cánh hoa đào ấy chẳng tàn trong tôi !

Chùa Ryôanji (竜安寺 Long-An Tự), Kyoto
Bài thơ còn có thể hiểu như sau:
Bao nhiêu thế sự cùng năm
tháng,
Vẫn nhớ đào hoa một dạo nào !
hoặc:
Dẫu cho ngày tháng phôi pha,
Chao ôi nhớ mãi hoa đào năm nao !
hoặc:
Nhớ chi ngày tháng qua rồi ?
Nhớ chăng chắc hẳn anh đào ngày xưa !

Hoa anh đào bên “Lối đi của các triết nhân”, Kyoto
Hoa anh đào với người Nhật có ý nghĩa rất đặc biệt. Cứ
vào cuối tháng ba cho đến đầu tháng tư mỗi năm, khi hoa anh đào nở, dân
chúng lại nô nức rủ nhau đi xem hoa.
Nhiều người thích đi tản bộ dưới những cành hoa, vừa ngắm
hoa vừa chụp hình lưu niệm. Lắm kẻ lại thích cùng gia đình hoặc bầu bạn trải
chiếu ngồi dưới gốc hoa — vừa thưởng hoa vừa ăn uống, ca hát.
Ngày tựu trường mỗi năm học ở Nhật cũng vào đầu tháng tư,
đúng vào mùa hoa anh đào. Vì thế người Nhật gọi bạn đồng song là ‘bạn cùng
mùa hoa anh đào’ (dôki no sakura同期の桜). Lâu ngày gặp lại bạn đồng
song, người ta không khỏi nhớ đến mùa hoa anh đào thuở mới quen nhau. Na ná
như người Việt khi nhìn cành hoa phượng, ‘hoa học trò’, lại thổn thức
nhớ lại tuổi hoa niên:
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ?
Hàn Mặc Tử
Hoa anh đào có nhiều loại: có loại hoa đơn, có loại hoa
kép, có loại có cành lả ngọn tựa như liễu rũ v.v.
Hoa anh đào nào cũng chóng tàn. Ngày xưa, người võ sĩ (samurai)
đã chọn hai thanh kiếm và hoa anh đào làm biểu tượng, bởi lẽ người võ sĩ
nguyện sẵn sàng hiến thân cho chủ tướng giống như hoa anh đào sẵn sàng rơi
rụng trước cơn gió nhẹ. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa anh đào là biểu
tượng của sự vô thường (mujô 無常), vô ngã (muga 無我) trong cuộc
đời.
Bashō đã sáng tác bài thơ trên khi trở lại cố lý ở Iga
(nay thuộc huyện Mie) và viếng thành Ueno, nơi hơn hai mươi năm trước đã một
thời là võ sĩ dưới trướng của Tôdô Yoshitada. Sau đó, vì chủ quân mất sớm,
Bashō đã từ bỏ phù hoa của thế tục để lấy gió trăng làm bạn lữ.
Nhìn lại những cành hoa anh đào mang sắc hình của tuổi
hoa niên giờ đang nở rộ dưới nắng Xuân, chắc hẳn nhà thơ cũng dậy lên biết
bao kỷ niệm. Tuy nhiên, Bashō vẫn trầm tĩnh như mọi khi, chỉ cho biết là nhà
thơ chợt nhớ lại cánh hoa đào ngày trước. Dĩ nhiên chúng ta đoán hiểu là
cánh hoa đào nơi cố lý đã xui nhà thơ nhớ lại chuyện xưa.
Lời thơ đơn sơ, nhẹ nhàng, nhưng hàm súc và sâu lắng.
Viết lại xong vào những ngày áp Tết Tân Mão
(2011)
ttp://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/hoa-anh-111ao-muon-thuo/
|