Các Bạn thân mến,
Sau nhiều bể dâu thì bài viết này
lại tái diễn như là một trình hiện chia tay cho loạt bài Ứng Dụng các Nguyên
Lý Phật Giáo vào Nghiên cứu và Phát Triển trong Khoa Học.
I. Đề:
Chủ ý của loạt bài viết này thật khá rõ: mong muốn người đọc thấu hiểu và xa
hơn là vận dụng được các tri kiến Phật học đã đề cập, hay xa hơn một tẹo, là
thấm nhập các phương tiện chân lý được chỉ dạy trong Phật học rồi lấy ra làm
công cụ mạnh nhằm giải quyết hay tìm kiếm các phương án xử lí các khó khăn
hay các trở ngại trong phương diện kĩ thuật nghiên cứu khoa học ngõ hầu mang
lại lợi ích chung cho nhân sinh.
Khi nói đến Phật giáo, ngoài hệ thống giáo lý hay triết lý logic rất mạnh mẽ
được truyền lại từ đức Phật Thích-ca và sau đó được các đại thiện tri thức
như Long Thọ, Phật Hộ, Vực Long, Nguyệt xứng, …hay ngay cả các đại luận sư
sau này (như Liên Hoa Giới, Tsongkhapa …) đã góp phần khai giảng một cách
tường minh hơn về giáo thuyết Tánh Không thì còn có một hệ thống chỉ dạy
song song và tương hợp với các giáo thuyết này, đó chính là các phương cách
thực hành để chứng ngộ các chân lý về vô ngã và không phải chỉ có các giảng
huấn trong bề mặt suy diễn thuần lý. (Mà hầu như ngược lại, các giảng huấn
lí thuyết giảng về chân lý chỉ là các công cụ mềm nhằm giúp tu sinh tinh
tấn, tin tưởng vững vàng trong tu tập)
Câu hỏi đề ra là liệu các tôn chỉ hay các phương tiện tu tập thực hành có
thể nào được vận dụng một cách hợp lý để giúp người nghiên cứu khoa học có
thêm phương tiện sáng tạo và phát minh hay không?
Trước khi bước vào phân tích câu trả lời thì cũng xin nhắn nhủ hay đính
chính lại về cụm từ: “phương tiện sáng tạo và phát minh” -- nó chỉ
mang theo một ý nghĩa khá tương đối và không mấy thật sự đúng như nội hàm mà
cụm từ đó mang vác -- là vì thật ra, có khi người giữ các bằng phát minh
hay nắm các lời giải của một biện pháp khoa học thật sự không hoàn toàn
100% là tác giả của các “sáng tạo và phát minh” đó. Tác giả của chúng
một cách công bằng đúng đắn thì phải quy trả phần lớn công lao về cho chư
Phật Bảo và các đạo sư (chư Tăng Bảo) đã góp nhiều công sức gìn giữ các chân
lý các phương tiện mạnh đó (Pháp Bảo) cho hậu duệ chúng con được hưởng. Cho
nên kẻ viết bài lần này kính dâng lên chư Tam Bảo mọi công đức thu nhận được
từ các nghiên cứu và phát minh khoa học mà từ lâu nay đã lạm báo tên mình.
II. Luận:
Trở lại phần chính của câu hỏi ban đầu. Nếu như câu trả lời là không
thì bài viết này đã không thể ra đời. Ở đây người viết không muốn và cũng
không đồng ý việc biện bác cho lý do để trả lời rằng “Vâng! Các tôn chỉ hay
các phương tiện tu tập thực hành này hoàn toàn có thể được vận dụng một cách
tùy duyên để giúp người nghiên cứu khoa học có thêm phương tiện sáng tạo và
phát minh”.
Dầu sao khi câu trả lời là khẳng định thì cần nói chi tiết về cơ sở lý luận
và hơn nữa nêu ứng dụng cụ thể như thí dụ dẫn chứng cho điều khẳng định đó.
1.
Các phương tiện thực hành tu tập bao gồm cả các mức tu tập về giới định và
tuệ đều là công cụ định hướng rèn tâm ý chúng ta đạt đến chân lí. Cơ sở
chính của các thực hành là nhằm tạo duyên (hay dễ hiểu hơn là tạo ra một môi
trường cần và đủ) nhằm đẩy tu sinh nhận về hậu quả phù hợp vơi với cái duyên
đặc thù mà nó tạo ra.
Các phương tiện đó giúp hành giả tinh lọc (hay thanh tịnh hóa) các ngăn trở
của vô minh. (Tiện đây xin nhắc nhỏ thêm: vô minh có hai mức độ --
một là thiếu hiểu biết hoàn toàn về vấn đề -- hai là có hiểu biết sai lạc về
vấn đề đó. Trong hai mức độ vô minh này, thì mức thứ hai có lẽ nặng nề và
khó khăn hơn)
Ở đây, nếu quán chiếu các khó khăn về mặt kĩ thuật cũng là một phần của sự
thiếu hiểu biết, thiếu thấu suốt về bản chất sự vật thì rõ ràng các phương
tiện tu tập cũng có thể nếu áp dụng một cách phù hợp sẽ góp phần tạo duyên
cho hành giả xóa tan đi bóng mờ của vô minh hay các ngăn trở tâm lí tìm đến
hiểu biết đúng đắn về bản chất của dề tài.
2.
Nếu như cố tình áp dụng các biện pháp tu tập rộng lớn của Phật giáo hay tu
tập đặc thù của hành giả lên các khó khăn cụ thể trong nghiên cứu khoa học
thì thật là mênh mông, trừu tượng, ngàn trùng xa cách và hầu như … “gió đi
lối gió, mây đường mây” khó lòng thấy được đâu là chỗ để dụng võ. Tuy
nhiên, nếu đào bới cụ thể hơn, thì ta thấy một điểm quan trọng sau: mỗi
phương tiện tu tập riêng biệt đều có một tác dụng cụ thể như là một liều
thuốc đặc trị một loại vô minh, một loại tham chấp thì may ra qua nhận xét
này, chúng thấy được cách thức áp dụng một cách bớt mông lung và xa vời.
3.
Vật chất vốn không tự chủ hoạt hóa. Các phương tiện khoa học có trở nên
“thông minh” là do vì tâm thức của con người áp đặt lên, tạo buộc cho chúng
các điều kiện (hay các duyên) khiến chúng vận hành theo ý hướng của người
sáng tạo ra. Như vậy, nếu tâm thức hay hiểu biết của người hay tập thể
(tập đoàn hay chồng chất các kinh nghiệm) sáng tạo ra một đối tượng khoa học
nào đó vốn mang trong mình các sai sót, các vô minh hay các hiểu biết không
đầy đủ -- thì rõ ràng sản phẩm phát sinh từ nhà sáng tạo đó sẽ hầu như mang
theo các sai sót hay vô minh (nói theo ngôn từ programming là các bug) về
hiểu biết y hệt như cha đẻ ra chúng.
4.
Như vậy thấu suốt được điểm vô minh cụ thể của một thiết kế nào đó, thì vẫn
có thế khai thác một cách khéo léo các phương tiện khắc phục có sẵn trong
giáo pháp nhà Phật để điều trị các hỏng hóc do loại vô minh cụ thể đó gây
ra.
5.
Cuối cùng: Thật sự nếu cứ lẽo nhẽo thì các lời nói nãy giờ chỉ đáng đem vứt.
Còn muốn đem ra thực hành, rõ ràng cần có các chuẩn bị về hiểu biết nhất là
các biện pháp tu tập Phật giáo của hành giả cũng cần tu dưỡng ít nhất là về
mặt tri kiến. Tuy nhiên, chúng ta cũng còn một may mắn để dựa vào, đó là một
khi chúng ta có thể so sánh hay tương tự hóa được tình huống khó khăn trong
vấn đề kĩ thuật với hiểu hiểu biết ngoài đời sống, thì chúng ta có thể mượn
các biện pháp thông minh sẵn có từ thế giới tâm thức mà vận dụng vào tình
huống.
III. Thực
Rất tiếc người viết không thể đào đâu kiếm cho ra các thí dụ từ các nhà phát
minh hay các kỹ sư khác đã đang khai thác cùng các phương tiện tu tập Phật
giáo nhằm giải quyết vấn đề, nên đành mạo muội viết điều mà mình đã thử làm.
Đây cũng là thiếu sót lớn của bài viết xin chân thành nhận lỗi. Và xin phép
chỉ nêu ra 1 trường hợp làm ví dụ.
Trong một dịp làm việc liên can đến đề án mô phỏng phần cứng bằng các ngôn
ngữ lập trình trên Linux. Đề án này là một đột phá nhỏ là vì những người
sáng tạo mô hình đã biết tái dụng ý tưởng kiến trúc trên Linux: “tất cả mọi
thiết bị (device) phần cứng đều được trình bày dưới dạng các tập tin (tệp)”.
Lợi dụng đặc điểm này, người phát minh hệ thống mô phỏng đã mạnh dạn thay
thế các thiết bị phần cứng nối vơi máy chủ bằng các tập tin đặc trưng (xem
hình 1)
Sau này khi làm việc trên các phần mềm mô phỏng, họ gặp phải một trở ngại
lớn là vì họ gần như không thể mô phỏng bằng phần mềm về các tương tác phức
tạp có các liên quan, có ảnh hưởng qua lại giữa các thiết bị.
Vấn đề ở đây được phân tích ra là do sự “chấp ngã” từ việc cho rằng các tập
tin trên hệ điều hành Linux là các thực thể có tự tính và chỉ thay đổi nội
dung tùy theo máy chủ (Linux OS) mà không chịu các ảnh hưởng từ các thiết bị
khác . Thật sự chấp thủ này nảy sinh từ việc quan sát cách mà các thiết bị
phần cứng nối kết với máy tính thông qua các hình vẽ mô hình thiết kế và hầu
như tưởng chừng chúng không hề nối kết trực tiếp nhau. Dù rằng trong thực tế
các thiết bị này đều ảnh hưởng lên nhau khá mạnh.
Trong khi đó nếu “xả bỏ” cách hiểu cố hữu là việc các tập tin chỉ phụ thuộc
một cách dính mắc vào máy chủ thì có thể thay đổi cho mô hình mô phỏng được
mềm dẻo và linh hoạt hơn bằng cách xem các thực thể đó là một phần trong
tổng thể phụ thuộc và tương tác nhau theo một cách nào đó. Và có thể xem mỗi
thiết bị có thể vận hành và có trạng thái máy riêng rẽ của nó thì vấn đề sẽ
khác đi.

Cách nghĩ mới này này chẳng những giúp giải quyết được việc mô phỏng các
thao tác có ảnh hưởng qua lại giữa các thiết bị (các thiết bị phần cứng vốn
hầu như chỉ nối nhau thông qua máy chủ) mà còn giúp người mô phỏng có thêm
một phương tiện để trực tiếp thay đổi các tham số hay cấu hình tại chỗ của
các thiết bị mô phỏng bao gồm cả việc cấy các lỗi máy (error injection) để
quan sát và phát triền mô hình được bền vững hơn. Ý kiến này đã được chấp
thuận như là một hồ sơ phát minh đi kèm theo với mô phỏng trên.
VI. Kết:
Một điều mà người viết bài này đã rút ra từ khi có dịp học hỏi cách thức để
đột phá sửa chữa các khó khăn là việc “hãy hiểu rằng tất cả các thiết bị
nghiên cứu khoa học đều mang nặng nghiệp khí của cha đẻ ra chúng và do đó,
trong nhiều trường hợp nếu chúng ta thấy được sự chấp thủ của mô hình (hay
của cha đẻ) thì chúng ta bằng cách phá bỏ chấp thủ đó, rất có khả năng nâng
cao thay đổi các thiết kế ban đầu để mang lại một mức tiện ích cao hơn hay
một thiết bị bền vững hơn. Không nhất thiết là phải dùng đến các phương tiện
mạnh của Phật học mà có khi chỉ cần so sánh nó với các tình huống tương tự
trong đời sống tâm thức thế tục. Có khi cách giải quyết thật đơn giản và
hiệu quả. Tuy nhiên hãy cẩn thận vì có khi do hậu nghiệp khi chấp ngã nặng
nề, nên gây ra nhiều hệ lụy không hay
L
.
Ngoài ra, hãy xin nhận lấy một lời dạy vô cùng quý báu của tổ Tịch Thiên
(trong Nhập Bồ-đề Hành Luận) đại ý là: “Người ta không thể có đủ
lượng da để bao bọc cho tất cả gai trên quả đất, nhưng chỉ cần miếng da đủ
để bọc đôi chân chân trần khỏi các gai góc đó”.
Giáo pháp thực hành này là một lời dạy vô cùng quý báu trong vận dụng nghiên
cứu. Ngược lại, nếu biết tựa theo một cách “đối ngẫu” giáo pháp trên ta có
thể thấy 1 “hướng đi” mới cho mình: Nếu biết tự thân cá nhân không đủ khả
năng tự giải quyết hết một khó khăn, (ngay cả trong việc tu học) thì hãy dẹp
bỏ lòng kiêu ngạo tự hào của đôi chân đỏ hỏn mà tìm đến cứu cánh của biển
giáo pháp mênh mông được mang đến từ các đạo sư khiêm nhường.
Kính chúc các bạn trẻ thành công và tìm thấy hạnh phúc viên mãn.
Tái bút: Lần viết này người viết đã không còn theo lề thói của các bài viết
khoa học thông thường là phải có phần ghi rõ tài liệu tham khảo. Thật xin
quý độc giả châm chước. Tất cả ý tưởng của bài viết đều chân thật.
Mùa Kiết Hạ năm 2013
Người chưa hề nhập hạ
Làng Đậu.