Trải qua lịch sử Kitô giáo đã có nhiều thứ thần
học về Thập giá, bắt nguồn từ những đường lối suy tư và chiêm ngắm khác
nhau khi người tín hữu đứng trước Thập giá. Không ai chối cãi được sự
quan trọng của Thập giá đối với Kitô giáo. Không những các Kitô hữu đeo
ảnh Thập giá trên người để tỏ lòng mộ mến hay để tỏ ra căn cước của
mình, mà thậm chí người ngoại đạo cũng coi Thập giá như là biểu tượng
của Kitô giáo. Chính vì thế mà tổ chức từ thiện “Hội Chữ Thập đỏ” đã bị
các nước Hồi giáo bắt sửa lại phù hiệu thành “vầng trăng đỏ” để tránh
lẫn lộn công tác nhân đạo với Kitô giáo. Mặt khác, nhiều người Kitô hữu
đã gắn liền Thập giá với hy sinh đau khổ, và họ có cảm tưởng rằng không
còn gì khác để nói ngoài đề tài đó. Cảm tưởng đó chỉ đúng một phần, theo
nghĩa là từ hai mươi thế kỷ nay, mỗi lần nói tới Thập giá thì không thể
nào tránh được vấn đề đau khổ. Tuy nhiên, ngoài đề tài đau khổ ra còn có
những khía cạnh khác nữa. Một điểm đáng ghi nhận khác nữa là tuy rằng đã
có nhiều suy tư về ý nghĩa của Thập giá trải qua suốt lịch sử Kitô giáo,
nhưng mãi tới thập niên 70 của thế kỷ này, mới nảy ra một ngành thần học
mang tựa đề là “Thần học về Thập giá” (staurologia), theo nghĩa là Thập
giá trở thành trung tâm của thần học: chính nhờ Thập giá mà chúng ta
biết được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa.
A.THẦN HỌC KINH THÁNH VỀ THẬP GIÁ
Trong phần này, xin đề cập đến 3 vấn đề:
1. Thập giá trong khung cảnh lịch sử của nó.
2. Bốn tác giả Phúc âm đã nghĩ gì về việc Đức
Giêsu phải chịu chết trên Thập giá.
3. Thần học của Thánh Phaolô về Thập giá.
I. Nhục hình Thập giá
Vào thời của Đức Giêsu, Thập giá tiên vàn là
một nhục hình. Trong đế quốc Rôma, Thập giá là một hình phạt dành cho
các tội trọng. Tội nhân thường bị đánh đòn, và sau đó phải vác thanh
ngang tới pháp trường. Có hai hình thức Thập giá. Một thứ giống như chữ
T (thanh ngang được chồng lên chóp của cây gỗ đứng); một thứ giống hình
chữ thập, với bản án ghi vào ở trên thanh ngang. Thêm vào đó, cũng có
nhiều kiểu để treo tử tội: thường là bị lột hết áo xống, và bị cột hoặc
đóng đinh vào khổ giá, có khi đầu bị dốc ngược xuống đất. Nói chung, đây
là một hình phạt chỉ dành cho lớp bần đinh hoặc nô lệ, các tên đại tặc
hay là phiến loạn; các công dân Rôma không phải chịu hình phạt này trừ
khi nào họ đã bị tước đoạt quyền công dân. Ngoài sự đau đớn do cuộc hành
hình gây ra, hình phạt Thập giá còn mang thêm tính cách ô nhục: tử tội
không được an táng, nhưng phải phơi thây giữa trời làm mồi cho chim
muông dã thú. Vì tính cách nhục nhã như vậy nên không ai muốn làm anh
hùng bằng cái chết trên Thập giá. Cũng vì lý do đó mà việc tôn kính Đức
Kitô trên thập tự là cả một chuyện điên rồ hèn hạ, không những thánh
Phaolô đã viết như vậy trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô vào khoảng
20 năm sau biến cố xảy ra, mà rồi một thế kỷ sau đó (khoảng 150-153)
trong quyển sách “Hộ giáo” (Apologia I, 13,4), thánh Giustinô còn ghi
nhận rằng: dân ngoại coi chúng tôi là bọn khùng bởi vì đã tôn tên tử tội
trên Thập giá là Đấng Tạo dựng đất trời.
II. Từ tường thuật hình khổ Thập giá
tới suy niệm về ý nghĩa Thập giá dựa theo bốn tác giả Phúc âm.
Việc Đức Giêsu chết trên Thập giá là một biến cố lịch
sử, được tất cả bốn tác giả Phúc âm thuật lại; biến cố đó cũng được ghi
chép nơi các sử gia Rôma (như Tacitus, Annales XV, 44-45) và Do Thái
(Josephus Flavius, Antiquitates Judaicae XVIII, 64). Những người hoài
nghi về sử tính của Phúc âm thì chỉ nêu nghi vấn chung quanh những đoạn
viết về lời giảng hay về phép lạ của Đức Giêsu, chứ không hề đụng tới
câu chuyện chết trên Thập giá. Các Kitô hữu cũng không hổ thẹn gì để
chấp nhận sự kiện thầy mình đã bị xử án giống như các tên trộm cướp.
Thậm chí M. Kaeler cho rằng lúc đầu Phúc âm là bản tường thuật về cuộc
tử nạn của Đức Giêsu trên Thập giá, rồi về sau người ta mới thêm một
phần dẫn nhập để giải nghĩa lý do gì đã đưa tới sự cố đó. Dù những giả
thuyết về tiến trình sự hình thành của bốn Phúc âm thế nào đi nữa, một
điều rõ ràng mà chúng ta nhận thấy là tất cả bốn thánh sử đều khá đồng
nhất khi thuật lại cuộc tử nạn của Đức Giêsu, với ba hồi chính:
* Ngài bị bắt;
* Bị xét xử;
* Bị đóng đinh.
1. Trong hồi thứ nhất (xức dầu ở Betania, tiệc ly,
hấp hối trong vườn cây dầu), chúng ta thấy rằng Đức Giêsu đã biết và đã
báo trước điều sắp xảy ra cho mình, và giải thích lý do và ý nghĩa của
nó: điều đó cần phải xảy ra để hoàn tất sứ mạng. Tuy bề ngoài Ngài bị
bắt nhưng kỳ thực là Ngài đã được trao nộp theo chương trình của Chúa
Cha.
2. Hồi diễn thứ hai diễn ra ở hai tòa: Do thái và
Rôma, kết thúc với án tử hình được thi hành ngay tức khắc. Các thánh sử
đều quả quyết rằng bản án đó bất công vì Đức Giêsu không có tội tình gì
hết.
3. Hồi thứ ba gồm có việc đóng đinh vào Thập giá,
chết và an táng. Giọng văn kín đáo, gọn gàng, không có những chi tiết
lâm ly bi đát.
Nên biết thêm là ngoài những chương thuật lại cuộc Tử
nạn, Phúc âm ít khi nói tới Thập giá. Xem ra các Kitô hữu đầu tiên chấp
nhận việc Đức Giêsu chịu đóng đinh vào Thập giá như một sự kiện đã xảy
ra, nhưng họ ngượng ngùng khi nhắc tới chuyện kinh hoàng ô nhục đó. Họ
tìm cách lục lọi các bản văn Kinh Thánh (mà ta gọi là Cựu ước) để tìm
hiểu lý do và ý nghĩa của nó trong chương trình của Thiên Chúa: tại sao
Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu bị trao nộp và chết cách thảm thương như
vậy? Vì thế, dần dần các tín hữu ít nghĩ tới chính cây Thập giá cho bằng
suy gẫm nhiều hơn về việc Đức Kitô chết trên Thập giá. Nói khác đi, các
thánh sử không chú trọng tới cây Thập giá xét trong toàn thể sứ mạng của
Ngài. Việc đóng đinh trên Thập giá chỉ là một hồi trong tấn kịch dài
hơn.
Thánh Matthêu và Marcô trình bày Đức Giêsu như một
người hoàn toàn công chính đã bị bắt bớ và bị hãm hại vì sứ mạng của
mình. Việc thiết lập bí tích Thánh thể (được đặt ở hồi thứ nhất của cuộc
tử nạn) đã trình bày ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu như là sự trao hiến
mạng sống của mình cho người anh chị em. Kế đó, người công chính đã lần
lượt bị các bạn hữu của mình bỏ rơi, bị những người đồng đạo Do thái xét
xử và nộp cho quân Rôma để bị giết. Hơn thế nữa, (Mt 27,46) và (Mc
15,34) còn nhấn mạnh tới việc Đức Giêsu bị bỏ rơi trên thập tự: “Chúa
ơi, Chúa ơi, tại sao Chúa bỏ con?”. Đã có nhiều giải thích khác nhau
về ý nghĩa của lời than ấy, chẳng hạn như: đó là tiếng kêu tuyệt vọng,
tiếng kêu phản kháng, hoặc chỉ bộc lộ tình trạng tối tăm trong tâm hồn
vì không thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Dù sao thì Thiên Chúa
vẫn thinh lặng; hay nói đúng hơn, Thiên Chúa đã trả lời qua sự thinh
lặng. Thực vậy, vào lúc mà tối tăm bao trùm khắp mặt đất, ra như vùi lấp
hết những công trình của Thiên Chúa, thì này viên đội trưởng đã thốt
lên: “Ông này quả thực là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Chính lúc
xem ra tuyệt vọng hơn cả, lúc mà xem như Đức Giêsu bị Thiên Chúa bỏ rơi,
thì viên đội trưởng lại nhận ra được ánh sáng mặc khải để khám phá ý
nghĩa hoàn toàn trái ngược: không phải là Đức Giêsu bị Thiên Chúa bỏ
rơi, nhưng mà chính Đức Giêsu đã phó mặc mạng sống mình cho Thiên Chúa,
và Chúa Cha đã trao ban mình cho Con.
Luca đánh dấu thêm một bứơc tiến nữa trong việc suy
niệm về ý nghĩa Thập giá. Không những viên đội trưởng đã tuyên xưng rằng
Đức Giêsu hoàn toàn vô tội, nhưng nhờ cái chết của Ngài mà bao nhiêu
người được ơn trở lại: Simon Phêrô đã khóc lóc sau khi chối bỏ thầy,
Simon Cirênê đã hoán cải từ chỗ bị cưỡng bách phải tháp tùng Đức Giêsu
tới chỗ vác Thập giá như một môn đệ theo thầy; một số phụ nữ đã đấm ngực
than khóc thống hối; một tên tử tội cũng ăn năn. Nhất là những giây phút
chót của Đức Giêsu trên Thập giá đã trở thành cao điểm của ơn cứu chuộc:
Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha tội cho những lý hình; và ơn cứu chuộc
được thể hiện cách cụ thể khi mà tên trộm lành được hứa vào nước trời
ngay hôm ấy. Sau cùng, lời cuối cùng của Đức Giêsu trước khi tắt thở
biểu lộ lòng tín thác vô biên nơi Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó
thác thần trí con trong tay Cha” (Lc 23,46). Như vậy, đối với Luca,
việc Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá không còn phải là chuyện hành
hình của một tử tội nữa, nhưng là một biến cố cứu rỗi.
Gioan thì nhìn Thập giá như sự bộc lộ của vinh quang
Thiên Chúa: Đức Kitô bị treo trên Thập giá là biểu trưng của việc Ngài
được nhấc lên khỏi mặt đất để thu hút mọi sự về với mình (Ga 12,32).
Trong Phúc âm thứ bốn, cuộc tử nạn bắt đầu với việc rửa chân cho các môn
đệ và di chúc về tình yêu: Đức Giêsu giải thích ý nghĩa cái chết của
mình như một cử chỉ tình nguyện để bộc lộ tình yêu dành cho các bằng
hữu. Chính Ngài đi ra đón những kẻ lùng bắt mình. Cuộc tra tấn dã man
biến thành lễ nghi phụng vụ, khi Đức Giêsu khoác tấm áo đỏ với vòng gai,
và bản án là Vua (Ga 19,14.19). Thánh Gioan lặng lẽ theo dõi những giây
phút chót của Đức Giêsu trên Thập giá, ghi chú những cử chỉ nhằm hoàn
tất Kinh Thánh: từ việc ký thác bà mẹ cho môn đệ, việc nhắp những giọt
giấm cho tới việc bị ngọn giáo đâm thủng sườn; nhất là Gioan nhận định
về những hậu quả của cái chết: máu, nước, Thánh Thần, biểu hiệu của mạch
sống mới. Thập giá trở thành nơi bộc lộ của vinh quang Thiên Chúa: Thiên
Chúa tỏ vinh quang của tình yêu khi ban Con Một mình cho nhân loại; nơi
Đức Giêsu, Thập giá không phải là một nhục hình nhưng là ngai toà mà
Ngài hành xử vương quyền, không phải vương quyền theo nghĩa trần tục
nhưng là vương quyền của tình yêu.
Như vậy, ta thấy nơi bốn cuốn Phúc âm đã có một diễn
trình từ chỗ tường thuật một biến cố kết liễu cuộc đời của Đức Giêsu cho
đến chỗ khám phá ra ý nghĩa của biến cố trong kế hoạch của Thiên Chúa.
III. Thần học của Thánh Phaolô về Thập
giá
Các tác giả Phúc âm không chỉ tường thuật lại cảnh
Đức Giêsu bị xử án và bị chết trên Thập giá, nhưng còn tìm cách giải
thích ý nghĩa của Thập giá trong chương trình của Thiên Chúa.
Hơn nữa, các suy tư của Phaolô và của các tông đồ về
Thập giá của Đức Kitô lại là một lời tuyên xưng hùng hồn về tình yêu cứu
độ của Thiên Chúa. Từ đó, những ai muốn làm môn đệ Đức Kitô phải có thái
độ nào đối với Thập giá.
1. Thánh Phaolô với Thập giá
Nơi các tác phẩm của thánh Phaolô và của các thánh
tông đồ, ta thấy Thập giá được trình bày dưới khía cạnh của một việc
tuyên xưng, hoặc trong lời giảng hoặc trong phụng vụ. Trong những bài
giảng đầu tiên của Phêrô (được ghi lại trong sách Tông đồ công vụ), việc
Đức Giêsu bị người Do thái nộp cho Philatô xử trên Thập giá đã trở thành
một biến cố cứu độ: Thiên Chúa đã suy tôn Đức Giêsu làm Đức Chúa và vị
Cứu tinh (Cv 2,36; 4,10; 10,39; 13,29). Lời tuyên xưng trong lời giảng
của các thánh tông đồ cũng trở thành lời tuyên xưng đức tin của các tín
hữu, đặc biệt là khi cử hành phụng vụ: “Đức Kitô đã chết vì tội chúng
ta, theo lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3); “Đức Giêsu Kitô đã hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl
2,8); nhưng cái chết đó đã trở thành nguyên cớ (chính vì thế) cho sự
siêu tôn: Đức Giêsu Kitô là Chúa. Trong thư gửi Côlôsê 1,19 ta
cũng gặp thấy lời tuyên xưng dưới hình thức của thánh ca: “Thiên Chúa
đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn
nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ
ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và
muôn vật trên trời”.
Dĩ nhiên, khi nghe các tông đồ và các tín hữu tuyên
dương một tội phạm bị xử tử trên Thập giá, nhiều người đã chói tai và
không khỏi đặt câu hỏi: phải chăng các Kitô hữu là bọn người cuồng tín?
Thế nhưng, thay vì tránh né nói tới Thập giá để khỏi gây hiểu lầm, thánh
Phaolô đã dám đi thẳng vào vấn đề trong thư thứ nhất gửi tín hữu
Côrintô. Thánh Phaolô tuyên bố rằng lời giảng về Thập giá mang tính chất
nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở
nơi mà người đời coi là điên rồ: “Dân Do thái thì đòi phép lạ, dân Hy
lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô
trên Thập giá, một điều vấp phạm cho dân Do Thái và điều dại dột đối với
dân Hy lạp. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do thái hay Hy lạp,
thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa;
bởi lẽ sự dại dột của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn con người gấp bội,
và sự yếu ớt của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn của con người trăm lần”
(1Cr 1,18-25). Thánh Phaolô còn thêm: “Khi ở với anh em, tôi không
biết chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, Đức Giêsu Kitô trên Thập giá”
(1Cr 2,2). Chúng ta đừng nên coi lời lẽ của Phaolô như là một thứ thuật
ngữ hùng biện! Việc Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá thực sự là chuyện
ô nhục tồi tệ thực trước mặt người Do thái và người Hy lạp! Với Do thái,
tử thi đã là vật ô uế rồi, lại còn phơi bày giữa trời nữa thì quả là đồ
bị Chúa rủa bỏ (x. Gal 3,13). Thánh Phaolô chấp nhận cái phản ứng hợp lý
đó, và dùng nó làm lập luận nghịch lý để trình bày kế hoạch cứu rỗi của
Thiên Chúa… chính qua Thập giá của Đức Kitô và chúng ta nhận thức được
khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa: sự hèn yếu của Ngài thì mạnh mẽ hơn
quyền lực của con người trăm ngàn lần (x. 2Cr 13,4). Tiếp tục đào sâu ý
nghĩa cứu độ từ Thập giá, thánh Phaolô kể ra những hồng ân trọng đại mà
Thiên Chúa ban cho nhân loại từ cái hình khổ của Đức Kitô, đó là: sự
toàn thắng trên các lực lượng của sự dữ và ơn tha thứ tội lỗi. Cái chết
của Đức Kitô được coi như một hy lễ; ngoài yếu tố Thập giá. Tác giả của
thư gửi Do thái phân tích thêm yếu tố “máu”, biểu hiệu của việc hiến
mạng sống vì tình yêu (Dt 9,11-12). Thư gửi Ephêsô tuyên dương Thập giá
như dụng cụ mang lại ơn hòa giải cho nhân loại: từ một đối tượng đáng
khinh bỉ trước mặt dân Do thái lẫn dân Hy lạp, Thập giá đã được Đức Kitô
biến thành nơi hòa giải, phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do thái với
dân ngoại cũng như sự thù nghịch giữa nhân loại với Thiên Chúa (Ep
2,15-16). Như vậy, từ chỗ là biểu tượng của oán thù, nhờ Đức Kitô mà
Thập giá trở nên nơi thi thố tình yêu và sự hòa giải giữa Thiên Chúa với
loài người, và hòa giải giữa loài người với nhau. Thập giá không phải
chỉ là một biến cố kết liễu cuộc đời Đức Giêsu, nhưng nó mang một giá
trị vĩnh cửu: tác giả của sách Khải Huyền và của thư thứ nhất Phêrô
trình bày thần học của chiên sát tế và vinh hiển trên ngai.
2. Thập giá của môn đệ
Tân ước không những chỉ nói tới Thập giá của Đức Kitô
mà còn nói tới Thập giá của môn đệ muốn đi theo Ngài. Phúc âm để lại hai
lời mời gọi môn đệ vác Thập giá để theo thầy. “Ai muốn theo Tôi thì
hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá của mình và đi theo Tôi. Quả thực, ai
muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì danh nghĩa
Tin mừng thì sẽ cứu được nó” (Mc 8,34 – 9,1; xc. Mt 10,38-39; Lc
9,23-27). – “Ai không vác lấy Thập giá của mình mà theo tôi thì không
xứng đáng với Tôi” (Mt 10,38; xc. 16,24). Thực ra, tuy là hai lời
mời gọi nhưng kỳ thực chỉ có một lời kêu gọi, diễn đạt một đàng là dưới
hình thức tích cực (“hãy vác Thập giá đi theo Tôi”) và một đàng là dưới
hình thức tiêu cực (“Ai không vác Thập giá đi theo Tôi”). Lời kêu gọi đó
hướng tới hết mọi người (công thức tích cực theo Matthêu được dành cho
các môn đệ, Marcô đi nhằm tới đám đông có mặt với các môn đệ, còn Luca
thì nói cho tất cả). Việc vác Thập giá là điều kiện cần thiết để “đi
theo Đức Giêsu”; nó đòi hỏi phải từ bỏ mình, từ bỏ những mỗi liên hệ gia
đình (Mt 10,37), và đưa tới sự mất mạng sống. Trong những lời vừa nói,
Thập giá không còn được hiểu theo nghĩa đen của một khổ hình nữa, nhưng
đã được đồng hóa với chính bản thân Đức Giêsu, kẻ bị chết trên Thập giá
như biểu hiệu của sự hiến thân phục vụ tha nhân.
Thánh Phaolô đã hiểu điều kiện làm môn đệ của Đức
Kitô như là thông dự và Thập giá của Ngài: “tôi đã được đóng tinh vào
Thập giá cùng với Đức Kitô: không còn phải tôi sống nữa song là Đức Kitô
sống trong tôi” (Gl 2,19). Dĩ nhiên, ở đây Phaolô không hiểu theo
nghĩa là mình cũng phải lãnh chịu khổ hình bị đóng đinh vào Thập giá
giống như Đức Giêsu trước đây, nhưng Phaolô đã mở rộng tất cả các chiều
kích thần học của Thập giá. Tiên vàn là Phaolô muốn đến lãnh nhận tất cả
những hồng ân cứu chuộc phát sinh từ cái chết và sự phục sinh của Đức
Kitô; ơn cứu chuộc ấy được thông qua cho ta qua Bí tích Thánh tẩy (x. Rm
6,1-11). Kế đó, hồng ân đã lãnh nhận cần phải phát sinh một sinh lực mới
nơi người tín hữu: người tín hữu phải đóng đinh tiêu diệt nơi thân xác
mình tất cả những đam mê tội lỗi (xc. Gl 5,24). Hơn thế nữa, người tín
hữu cần phải tìm cách diễn tả sự thông dự vào những đau khổ của Đức Kitô
(xc. 2Cr 4,10) trong cuộc đời của mình, đặc biệt qua những cuộc bách hại
gặp phải trên đường truyền giáo. Trong bối cảnh ấy Phaolô nói tới “những
người bị bách hại vì Thập giá của Đức Kitô” (GL 6,12), và tuyên bố
rằng mình đang mang trên thân thể những dấu thương (stigmata) của Đức
Kitô (Gl 6,17). Thậm chí Phaolô còn đi tới chỗ quả quyết rằng: “Tôi
bổ túc trong thân xác hay chết của tôi những chi còn thiếu nơi những
gian nan của Đức Kitô, nhằm sinh ích cho thân thể của Ngài là Hội thánh”
(Cl 1,24). Phaolô lấy làm hãnh diện vì Thập giá của Chúa Giêsu Kitô: “nhờ
đó thế gian đã bị đóng vào Thập giá đối với tôi và tôi đối với thế gian”
(Gl 6,14).
3. Việc tôn kính Thập giá
Từ những dòng suy niệm trên đây, chúng ta thấy rằng
Thập giá mang một ý nghĩa sâu đậm đối với Kitô giáo: nói được là nó trở
thành biểu tượng của chính Đức Kitô. Tuy nhiên, lòng tôn sùng hình ảnh
Thập giá xuất hiện khá muộn. Một lý do có lẽ là tại vì nó gợi lên cảnh
tượng của nhục hình ghê tởm. Vì thế mà trước khi hoàng đế Constantinô ra
lệnh bãi bỏ khổ hình Thập giá trong đế quốc Rôma, người ta ít thấy các
biểu tượng tôn kính Thập giá. Trong các hang toại đạo, chúng ta thấy có
một biểu tượng na ná với hình thức chiếc neo tàu. Trái lại, trong khu
vực Palatinô ở Rôma, người ta thấy một bức họa châm biếm vẽ một người bị
treo trên Thập giá với đầu con lừa đang khi có một người khác đang tỏ
dấu tôn kính, với những dòng chữ như sau: “Alexanênô đang thờ lạy chúa
nó”.
Từ sau khi Constantinô thắng trận nhờ dấu Thập giá,
thì Thập giá thay đổi ý nghĩa. Như đã nói, hình phạt Thập giá bị loại
khỏi hình luật. Đối lại, các Kitô hữu đang dùng tài nghệ của mình để
trang hoàng Thập giá dưới những dạng thức khác nhau. Họ không chỉ giới
hạn vào việc họa lại Thập giá lịch sử trên núi Calvê, nhưng hoặc được
trang hoàng với những viên ngọc bích, hoặc diễn tả như cây sum suê hoa
trái. Cũng nên biết là vào thời ấy, các Kitô hữu chỉ tôn kính cây Thập
giá chứ không có hình tượng của Đức Giêsu. Tại sao vậy? Có lẽ vì họ
không muốn trở lại cảnh Ngài đang chết nhục nhã đang khi mà họ thâm tín
rằng Ngài đã sống lại vinh hiển: bởi thế họ muốn trình bày Thập giá như
là nguồn sống, như là biểu hiệu của sự chiến thắng nói chung bên Đông
phương, mỗi khi phải trưng bày Đức Kitô trên Thập giá thì người ta dùng
hai mẫu tự Hy lạp bắt đầu danh xưng giống như chữ X và P), hoặc là dùng
hình con chiên (chiên sát tế nói trong sách Khải huyền) và kể cả Đức
Kitô Phục sinh. Còn bên Tây phương, từ thế kỷ XII dần dần các nghệ sĩ
muốn trở về với cảnh tượng lịch sử và tâm lý, họa lại Đức Kitô hấp hối,
đầu đội mão gai và mình mang đầy thương tích.
Trong những thế kỷ đầu, việc tôn kính Thập giá Đức
Kitô đưa tới linh đạo muốn thông dự vào khổ nạn của Ngài nhất là qua sự
tử đạo. Nhưng từ thế kỷ thứ IV, nhất là kể từ khi tục truyền kể là tìm
lại được chính Thập giá thực của Đức Kitô (năm 326), thì việc tôn kính
Thập giá được phát triển trong phụng vụ, đặc biệt vào ngày thứ 6 Tuần
Thánh. Thập giá được ca ngợi như là cây gỗ đã mang lại ơn cứu rỗi cho
thế giới. Từ thế kỷ 11, bên Tây phương phát triển lòng tôn kính các sự
khổ nạn của Chúa, với việc suy gẫm những chặng đường mà Chúa đã đi qua
cũng như những lần đã té ngã. Lúc đầu mỗi địa phương bày một hình thức
suy niệm (thí dụ 7 lần Chúa ngã) hoặc những chặng dừng chân (có khi lên
tới 47 chặng). Hình thức 14 chặng hiện nay đã được ấn định vào đầu thế
kỷ 17 tại Tây Ban Nha. Cạnh việc suy gẫm con đường Thập giá của Đức Kitô
cũng không thể thiếu hình ảnh của Đức Maria cùng chia sẻ những đau khổ
với Con mình (bài ca Stabat mater dolorosa).
Lòng tôn sùng Thập giá cũng còn được biểu lộ qua dấu
Thánh giá mà tín hữu vạch ra trên mình đang khi kêu cầu danh Chúa Ba
Ngôi. Tục lệ này đã xuất hiện ít là từ thế kỷ thứ 2. Vào khoảng năm 211,
Tertullianô đã kể lại như một thói quen đã thịnh hành: “Chúng tôi làm
dấu Thập giá trên trán vào mỗi bứơc đi và cử động, khi khởi sự và kết
thúc việc làm; khi mặc áo, khi chỗi dậy, khi tắm rửa, khi ăn uống, khi
thắp đèn vào buổi chiều tối, khi ngồi xuống và trong bất cứ công chuyện
gì” (De corona militum 3,4).
Cũng nên biết là trong lịch sử có nhiều hình thức làm
dấu thánh giá. Từ thế kỷ thứ 2, người tín hữu đã có thói quen vạch dấu
thánh giá trên trán bằng ngón tay cái hay ngón tay trỏ. Đến thế kỷ thứ
4, thì làm dấu thánh giá trên ngực nữa. Còn dấu thánh giá trên môi thì
mãi tới thế kỷ thứ 8 mới thấy nói tới. Đó là cái mà chúng ta quen gọi là
dấu thánh giá kép. Còn dấu thánh giá đơn vạch từ trán xuống ngực và qua
hai vai thì xuất hiện riêng tư từ thế kỷ thứ 5, nhưng chỉ được phổ biến
từ thế kỷ thứ 10 trong các đan viện. Hồi thế kỷ thứ 13, Đức Giáo Hoàng
Innocente III khuyên nên làm dấu thánh giá như vậy với 3 ngón tay, từ
trán xuống ngực, rồi từ vai phải sang vai trái. Thế nhưng, qua thế kỷ
sau, thì người ta làm dấu với 5 ngón tay, và đổi ngược thứ thự hai vai,
nghĩa là từ trái sang phải. Trong khi bên Tây phương thì khi làm dấu
thánh giá như vậy, người ta quen đọc: Nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần; bên Đông phương thì người ta dùng nhiều công thức khác nhau, tỉ
như: “Lạy Chúa chí thánh! Lạy Chúa chí thánh và Hùng mạnh! Lạy Chúa chí
thánh, hùng mạnh và Bất tử, xin thương xót chúng con!”.
Các tác giả đã vạch ra ba ý nghĩa chính của cử chỉ
làm dấu, đó là: tuyên xưng, kêu cầu và hiến dâng.
a. Tuyên xưng rằng chúng ta là Kitô hữu; chúng ta đã
để cho Đức Kitô ghi ấn trên bản thân chúng ta, cũng như tuyên xưng việc
Ngài đã cứu rỗi chúng ta nhờ Thập giá.
b. Dấu Thập giá cũng là lời kêu van, xin Chúa đến
giúp chúng ta nhờ sức mạnh cứu rỗi từ Thập giá.
c. Dấu Thập giá có ý nghĩa hiến dâng, bởi vì chúng ta
dâng cho Chúa công việc sắp khởi sự, trong tinh thần vâng lời và phục vụ
giống như Đức Kitô, ngõ hầu làm vinh danh cho Thiên Chúa Ba Ngôi.
4. Biểu tượng Thập giá qua các thời đại trong Kitô
giáo.
Xuôi dòng lịch sử có một số biểu tượng của thập giá
qua các thời đại và đã được du nhập chính thức vào Kitô giáo. Dấu chỉ
chữ thập, được hiểu là một cam kết khẳng định trong một giao ước, đã trở
thành dấu của Phép Rửa khi ta chịu bí tích Thánh Tẩy, biểu hiện giao ước
của Thiên Chúa với con người: Thiên Chúa chính thức là Cha của người
nhận Phép Rửa, và người đó là con của Thiên Chúa. Ta có thể hiểu mối
liên kết giữa Phép Rửa và Thập Giá mà thánh Phaolô đề cập (Rm 6: 5-6).
Việc cầu nguyện giang tay cũng gợi lên hình ảnh của thập giá. Và cầu
nguyện cũng đem lại cho chúng ta sự sáng và sự sống từ nguồn sống vĩnh
cửu của Chúa Giêsu.
1.
Thập giá hình tròn thường dùng trong ma thuật.
2. Thập giá chìa khóa, tên la-tinh là crux ansata,
biểu tượng cho sự sống và sinh lực của người Ai cập; được Kitô hoá vào
trước năm 391.
3. Thập giá Hy lạp, còn gọi crux quadrata.
4. Thập giá của Thánh An-rê (cũng như thập giá Hy lạp
để nghiêng), còn gọi crux decussata, thấy xuất hiện trong nghệ
thuật của Do thái.
5. Thập giá La-tinh, gọi là crux immissa; vào
cuối thế kỷ thứ IV, được vẽ thêm các trang trí hình vỏ sò ở các đầu cạnh
(xem hình 11)
6. Hình chữ thập, hoặc còn gọi (tuy không chính xác)
là crux monogrammatica, có lẽ là biểu tượng Kitô giáo cổ xưa
nhất. Gồm hai chữ cái Hy lạp rho và tau chồng lên nhau,
thoạt tiên được coi là viết tắt của người ngoại đạo, nhưng sau đó được
đưa vào các thủ bản Tin Mừng tiếng Hy lạp vào khoảng năm 200. Được coi
là một dấu thánh, nomen sacrum.
7. Thập giá của thánh An-tôn, còn được gọi là thập
giá tau hay crux commissa, lấy chữ Hy lạp tau, và
được cho là có dạng của thập giá ở Golgotha (sách giáo phụ Justin Martyr
91.2)
8. Thập tự xoắn thường thấy trong các văn bản.
9. Thập giá của người Malta, biểu tượng của trật tự.
10. Thập giá có hình chiếc nĩa, còn gọi thập giá mang
bệnh dịch, phổ thông vào cuối thời Trung Cổ. Nó nhấn mạnh đến vẻ đau khổ
của thập giá, còn khi vẽ có các nhành lá, thì mang biểu tượng của Cây Sự
Sống.
11. Thập giá hình giọt nước mắt, như mở rộng cánh
tay, biểu tượng tính chiến thắng của thập tự.
12. Thập giá Giêrusalem, mang 5 dấu thương tích của
Chúa Giêsu.
13. Thập giá kép, còn gọi là crux gemina, sau
này trở thành thập giá của các thượng phụ, trên thanh ngang có thêm gạch
đầu; nếu có ba thanh ngang là thập giá của giáo hoàng.
14. Thập giá bên nước Nga, có thêm gạch dưới để chân.
15. Thập giá ánh sáng, còn gọi crux radiata,
có màu vàng, hay 4 tia sáng chiếu ra.
16. Thập giá có hoa văn, còn gọi crux florida,
hay thập giá cây mang sự sống, gợi ý về thiên đàng (Khải Huyền 22: 2)
17. Thập giá kết hợp hai chủ đề của Tân Ước là ánh
sáng (ΦωC / phōs) và sự sống (ΖωH / zōē; xem Tin Mừng
Gioan 8:12), kết hợp được hai thập giá 15 và 16.
18. Thập giá kết hợp hai chữ Hy lạp chi (X) và
rho (P) viết chồng lên nhau. Thật ra không phải là thập giá theo
đúng nghĩa, vì đó là dấu chỉ tên của Chúa Giêsu, chứ không mang nghĩa
phải thập giá.
B. NHỮNG SUY TƯ CỦA CÁC GIÁO PHỤ VÀ CÁC
NHÀ THẦN HỌC VỀ THẬP GIÁ
I.Thập giá trong thần học Cổ điển
Kinh Thánh gắn liền Thập giá với ơn cứu rỗi của nhân
loại. Có những lời tuyên xưng đức tin về ý nghĩa của cái chết của Đức
Kitô: tuy không mắc tội tình gì nhưng Ngài đã phải chết trên Thập giá;
thế nhưng, đó không phải là cái chết oan uổng, bởi vì theo 1Cr 15,3: Đức
Kitô đã chết vì tội chúng ta, theo như lời sách thánh. Công thức còn
được thánh Phaolô lặp lại ở nhiều nơi khác nữa, thí dụ như: 1Tx 5,9; 2Cr
5,14-21; Rm 4,25. Những lời tuyên bố khi thiết lập Bí tích Thánh thể
cũng cho thấy rằng máu của Đức Kitô được đổ ra “để mang lại ơn tha
thứ tội lỗi cho muôn người” (Mt 26,28; xc. Mc 14,24; Lc 22,20).
Ngoài ơn tha thứ tội lỗi, thánh Phaolô cũng còn nêu bật rất nhiều những
hồng ân khác như hiệu quả của Thập giá, thí dụ như: ơn trở thành công
chính, ơn cứu chuộc, sự bình an hòa giải (Rm 3,24; Cl 1,20).
Các giáo phụ và các nhà thần học thời Trung cổ đã đặt
câu hỏi về ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu đối với chúng ta: tại sao Tân
ước lại quả quyết Đức Kitô chết vì chúng ta? Làm thế nào mà cái chết của
Đức Kitô trên Thập giá có sức mang lại ơn cứu độ cho chúng ta? Đây là
vấn đề mà trong quá khứ quen được bàn trong thiên về công hiệu cứu chuộc
của Thập giá, nhưng gần đây đã bị xét lại vì muốn tìm lối giải thích hợp
với tư tưởng Kinh Thánh hơn.
Để trả lời cho câu hỏi về mối liên hệ giữa cái chết
của Đức Giêsu trên Thập giá với ơn cứu chuộc ban cho nhân loại, các giáo
phụ và các thần học đưa ra nhiều lời giải thích khác nhau, tóm lược vào
3 khuynh hướng chính: mẫu gương, giá chuộc, hy lễ.
1/ Dựa trên đoạn văn Phúc âm thánh Gioan 19,37 (Họ
sẽ nhìn thấy kẻ họ đâm thâu), các giáo phụ tiên khởi cho rằng Thập
giá là mặc khải của Thiên Chúa, giống như ánh sáng chiếu tỏa ra giữa đêm
tối. Vài giáo phụ khác, khi chú giải đoạn văn 1Pr 2,21 (Đức Kitô đã
chịu đau khổ vì anh em, để lại một mẫu gương cho anh em dõi bước theo
Ngài), đã nêu bật giá trị của Thập giá ở chỗ nó là bài học, tấm
gương và chứng tá. Dù sao chúng ta cũng đừng nên quên rằng từ thánh
Irênê, các giáo phụ đã coi sự cứu độ được ban cho nhân loại không phải
chỉ nguyên từ Thập giá nhưng mà ngay từ lúc Đức Kitô nhập thể, khi Thiên
Chúa kết hợp với nhân tính để chữa trị và thánh hóa nó. Nói khác đi,
toàn thể cuộc đời Đức Kitô (từ khi nhập thể, giáng trần, trong thời ẩn
dật ở Nadarét lẫn những lời nói việc làm trong khi hoạt động công khai)
đều trở nên mầu nhiệm cứu độ.
2/ Một số giáo phụ giải thích ơn cứu độ do Thập giá
mang lại theo chiều hướng chuộc lại, nghĩa là giải thoát con người khỏi
quyền lực tội lỗi. Thập giá là nơi diễn ra cuộc giao tranh giữa Đức
Giêsu với các lực lượng của sự dữ và sự chết. Trước đây, trong vường địa
đàng, vì một cây mà con người bị làm nô lệ cho ma quỷ; giờ đây, nhờ cây
Thập giá, Thiên Chúa qua Đức Giêsu đã đến trợ giúp con người trong cuộc
giao tranh và chiến thắng. Thực ra, tư tưởng chuộc lại đã gặp thấy trong
Tân ước, thí dụ như thánh Phaolô ví Thiên Chúa như một ân nhân đã bỏ một
số tiền ra để chuộc một nô lệ. Tân ước dùng hình ảnh đó để mô tả việc
con người được giải thoát khỏi cảnh nô lệ của lề luật cũ, của cái chết
và tội lỗi nhờ cái chết của Đức Giêsu (Gl 3,13; 4,4; 2Cr 5,21; Cl 2,14;
một cách tương tự như vậy: Tt 2,14; 1Pr 1,18). Tuy nhiên, đó chỉ là một
hình ảnh loại suy, khi mà sự dữ và cái chết được nhân cách hóa như những
ông chủ đang xiềng xích con người. Tư tưởng chính mà Phaolô muốn nói là:
con người được giải thoát khỏi tội lỗi và cái chết và được trở về sống
trong ơn nghĩa Chúa. Phaolô không đề cập tới cái giá phải trả để chuộc
lại. Thế nhưng về sau, các giáo phụ và các nhà thần học lại giải thích
theo từ ngữ pháp lý: vì tội lỗi mà con người phải làm nô lệ của ma quỷ:
cho nên Đức Kitô phải nộp mình chết thay cho con người để chuộc nó lại.
Cái chết của Đức Kitô trở nên giá chuộc tội. Tuy cùng dùng một từ ngữ
“chuộc lại”, nhưng ý nghĩa của nó nơi thần học kinh viện không hoàn toàn
trung thực với ý nghĩa của Tân ước nữa.
3/ Một chiều hướng khác thì dựa vào tư tưởng hy lễ
(hiến tế) đã được Kinh Thánh nói tới, nhất là “hy lễ xá tội” ở trong thư
gửi Hy bá chương 9 và 10. Hy lễ được giải thích như là một hồng ân mà
Thiên Chúa ban cho con người qua Con của mình để nhờ đó con người có thể
hiến dâng cho Thiên Chúa hy lễ thiêng liêng. Việc con người hiến dâng
mạng sống mình cho tha nhân thì cũng giống như việc Đức Giêsu đã hiến
mình làm hy lễ vâng phục và yêu mến lên Chúa Cha vậy (Ep 5,2). Mặt khác,
tác giả của thư gửi Hy bá cũng nhấn mạnh rằng Hy lễ của Đức Kitô hoàn
toàn khác với các hy lễ trước đó, bởi vì giá trị của nó không phải là
máu me sát tế đổ ra, nhưng là tinh thần vâng phục (Dt 5,8; 10,1). Các
giáo phụ cũng không ngừng lặp đi lặp lại rằng Thiên Chúa không cần tới
hy lễ; nếu Chúa muốn hy lễ thì chỉ vì loài người mà thôi. Đó là đạo lý
của các giáo phụ được thánh Augustinô diễn ra trong De Civitate Dei X,
5-20. Tiếc rằng kể từ thánh Anselmô, hy lễ xá tội được giải thích hoàn
toàn theo phạm trù triết học và pháp lý, hơn là dựa trên đạo lý của toàn
bộ Kinh Thánh. Theo lập luận này, Thiên Chúa nhân hậu muốn tha tội cho
con người, nhưng đồng thời cũng cần phải tôn trọng sự công bằng nữa. Tội
lỗi đã gây ra xáo trộn trật tự, làm xúc phạm đến Thiên Chúa công thẳng
vô cùng; vì thế mà cần phải có Con Thiên Chúa mới có khả năng dâng lên
hy lễ chính mạng sống mình (có giá trị vô cùng) thì mới có thể khôi phục
lại trật tự. Từ đó, Thập giá được giải thích theo chiều hướng là hy lễ
sát tế đền bồi, công thẳng của Chúa (Đức Kitô đền tội thay cho chúng ta,
hứng lấy tất cả những hình phạt chúng ta đáng phải chịu: substitutio,
expiatio); còn chiều kích tình yêu trao hiến, vâng phục không được nêu
bật.
Có lẽ khuyết điểm lớn của thần học trong quá khứ là
khi sử dụng các từ ngữ của Kinh Thánh, họ đã giải thích các từ ngữ ấy
theo triết lý hay pháp luật mà bỏ qua toàn thể bối cảnh của mặc khải.
Thực vậy, Kinh Thánh nói tới sự “công bằng” của Thiên Chúa, hạch sách
cho tới đồng xu cuối cùng. Ngay từ Cựu ước, sự “công bằng” của Thiên
Chúa ám chỉ việc Ngài giữ lời hứa, lòng trung tín đối với giao ước. Tuy
rằng Israel có thất trung, nhưng Thiên Chúa không rút lời. Tư tưởng đó
được nối dài qua Tân ước, nơi mà Thiên Chúa bày tỏ sự công bằng qua việc
duy trì lời hứa: chính Ngài không ngừng yêu thương nhân loại cho dù tội
lỗi của loài người gây ra bao nhiêu rối loạn. Ngài đứng ra khởi xướng
cuộc giao hoà với nhân loại nhờ Đức Kitô. Như thế, chúng ta đừng hiểu sự
“công bằng” của Thiên Chúa như là “công thẳng”, nhưng phải nói là sự
“trung tín” thì mới đúng. Một cách tương tự như vậy, các từ ngữ đọc
thấy trong Kinh Thánh như là “công trạng”, “chuộc lại”, “hy lễ”, “làm
nguôi lòng” cần phải hiểu theo nghĩa loại suy (như thánh Tôma Aquinô đã
nhắc nhở nhiều lần: ST III, q.47,3; q.48,1-5), và nhất là cần được đi
kèm theo với những từ ngữ khác biểu lộ ơn cứu độ: “trao ban, hoà giải,
bình an, ban sự sống”,.v.v…
Như thế, để trả lời thoả đáng cho câu hỏi: “tại sao
ơn cứu độ thế gian được thông ban qua cái chết của Đức Giêsu?”, chúng ta
cần phải xây dựng theo lời giảng đầu tiên của thánh Phêrô để nói rằng: “tại
vì tội lỗi và vũ lực của con người đã khai trừ Đức Giêsu, người công
chính tuyệt đối”. Cái chết của Đức Giêsu là do con người đã gây ra;
còn sự sống thì xuất phát từ Thiên Chúa khi cho Đức Kitô sống lại (x. Cv
2,23-24). Thiên Chúa luôn luôn trung tín với lời hứa ban ơn cứu độ bất
chấp sự phá hoại của con người. Nói khác đi, xem ra trước đây, thần học
nhìn từ đất lên trời chú ý tới giá trị công nghiệp đền tội của Đức Giêsu
dâng lên Thiên Chúa; còn ngày nay, người ta muốn nhìn từ trời xuống đất
để ý tới tình thương của Chúa Cha tỏ ra cho nhân loại khi ban chính con
của mình cho nhân loại. Một cách tương tự như thế, Thập giá được nhìn
như biểu hiệu tình yêu của Đức Kitô trao ban mình cho các bằng hữu. Dù
sao, thiết tưởng cả hai chiều hướng đi lên hoặc đi xuống (hoặc nói theo
kiểu thánh Tôma: đi ra đi về, exitus-reditus, con người từ Chúa đi ra và
lại trở về với Chúa) cũng cần được bổ túc cho nhau.
Dù nói thế nào đi nữa, chúng ta phải khiêm tốn nhìn
nhận giới hạn của trí óc chúng ta khi đứng trước thập giá: mãi mãi Thập
giá vẫn là một mầu nhiệm, đồng thời cũng là sự điên rồ phi lý theo kiểu
tính toán của con người.
II. Thần học cận đại về Thập giá
Từ thời các giáo phụ, vấn đề chính của thần học về
Thập giá là tìm hiểu mối liên hệ giữa cái chết trên Thập giá của Đức
Kitô với hồng ân cứu độ ban cho loài người. Nói khác đi, Thập giá được
bàn tới trong nhãn giới của mầu nhiệm cứu chuộc.
Thần học cận đại có một nhãn giới khác về vấn đề này.
Bắt nguồn từ vấn nạn của Luther về mặc khải của Thiên Chúa nơi Thập giá,
các nhà thần học Tin lành cận đại nói tới sự đau khổ của Thiên Chúa trên
Thập giá, và từ đó xét lại vấn đề ý nghĩa sự đau khổ của con người. Sau
cùng cũng cần nói thêm đôi chút về thần học Thập giá theo Thượng Hội
đồng Giám mục thế giới họp năm 1985.
1. Sự đau khổ của Thiên Chúa
Trong khi thần học Công giáo cổ điển bàn tới Thập giá
trong nhãn giới của ơn cứu chuộc, thì Luther nói tới Thập giá dưới khía
cạnh mặc khải: làm sao con người có thể biết được Thiên Chúa? Luther
phân biệt giữa 2 cách biết Thiên Chúa: một đàng là biết nhờ suy luận các
hữu thể thụ tạo, được mệnh danh là theologia gloriae, Thiên Chúa được
quan niệm như Đấng chủ tế trọn tốt trọn lành. Thế nhưng, Luther cho rằng
đó không phải là khuôn mặt thực của Thiên Chúa mà chỉ là một hình tượng
do con người đã tạo ra. Luther chủ trương rằng cách thức để nhận khuôn
mặt thật của Thiên Chúa là con đường Thập giá (theologia crucis), nơi mà
Thiên Chúa tỏ ra ý định của Ngài đối với nhân loại. Ngài không phải là
một hữu thể toàn hảo bất biến, nhưng là một Đấng rất xa với tội lỗi và
đau khổ của con người, đã bày tỏ tình yêu với con người cách hùng hồn
nơi Thập giá của Đức Giêsu. Tiếp theo Luther, Thần học về Thập giá về
phía Tin lành mang một hướng đi độc đáo: nó không những chỉ muốn đào sâu
giá trị của ơn cứu chuộc được ban từ Thập giá, nhưng nó cũng trình bày
toàn thể thần học về bản tính của Thiên Chúa được mặc khải nơi Thập giá.
Vào thế kỷ 20 này, vấn đề được phát biểu một cách bạo dạn như sau: ai
chịu khổ và chịu chết trên Thập giá? Phải chăng chỉ có Đức Kitô chịu khổ
hình chịu chết? Có thể nói rằng Chúa Cha chịu đau khổ hay không? Có thể
nói rằng Thiên Chúa chịu chết hay không? Nên biết rằng đây không phải là
những câu hỏi ngớ ngẩn, gợi lên để nói cho vui. Một số câu hỏi này đã
được đặt ra từ các trại tập trung của Đức quốc xã, khi hàng triệu người
phải nếm những cảnh tra tấn tù tội, hỏa lò: họ cảm tưởng rằng Thiên Chúa
đã chết trong sự thinh lặng, không ra tay can thiệp, cũng giống như cảnh
tưởng Đức Giêsu bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng trong hoàn cảnh tương tự,
nhà thần học Tin lành Kazo Kitamori người Nhật đã viết những dòng suy tư
về sự đau khổ của Thiên Chúa từ kinh nghiệm đau khổ của dân tộc vào hồi
thế chiến thứ hai (Theology of the Pain of God, 1946, tái bản 1972).
Từ một câu hỏi đặt lên trong giới thần học Luther, nó
trở thành một đối tượng cho một ngành của thần học gọi là staurologia
(Thập giá học). Các thần học gia của Công giáo lẫn Tin lành đều tham gia
vào cuộc khảo cứu những đề tài về sự mặc khải của Thiên Chúa từ Thập
giá. Trước tiên, họ bàn tới sự đau khổ và sự chết nơi Đức Kitô như một
chủ thể duy nhất gồm thiên tính và nhân tính (nơi Đức Kitô, thiên tính
đã chia sẻ sự đau khổ của nhân tính như thế nào). Kế đó, họ đi lên mối
liên hệ giữa Chúa Cha với Đức Kitô (xét vì Đức Kitô với Cha là một). Tác
giả dẫn đầu cho hướng đi này là Jurgen Moltmann, với tác phẩm “Thiên
Chúa bị đóng đinh trên Thập giá” (xuất bản năm 1972), mở rộng Thập giá
tới toàn thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: “Vì yêu mà con đau khổ khi bị Cha
bỏ rơi; vì yêu mà Cha khổ khi con đau đớn và chết; Thánh Thần tình yêu
đã khôi phục sự sống cho người đã chết. Nơi Thập giá ta chứng kiến được
sự tham dự yêu thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.
Cũng trong chiều hướng đó mà các nhà thần học Công
giáo như Hans Urs Von Balthasar, F.X. Durwell đã trình bày toàn bộ mầu
nhiệm vượt qua như là mặc khải mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
2. Ý nghĩa của sự đau khổ
Đang khi mà thần học Tin lành nhìn lên Thập giá để
tìm hiểu sự đau khổ của Thiên Chúa, thì thần học giải phóng nhấn mạnh
tới sự đau khổ của con người. Thật ra, như chúng ta đã biết, việc gắn
liền Thập giá với đau khổ không còn gì mới lạ. Văn chương tu đức đã
trình bày khía cạnh này từ lâu rồi: chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô chấp
nhận những đau khổ như Thập giá mà Chúa gởi đến! Tuy nhiên, thần học
giải phóng tố cáo rằng một luồng tu đức như vậy sẽ tạo ra những hạng
người thụ động: đứng trước các bất công xã hội, những cảnh lầm than của
nhân loại, người tín hữu chỉ biết học đức kiên nhẫn chịu đựng, thay vì
tìm cách cải tạo xã hội. Hơn thế nữa, nói rằng chấp nhận những đau khổ
như Thập giá Chúa gởi đến thì có khác nào như nói rằng Chúa muốn cho con
người phải đau khổ hay sao?
Những vấn nạn vừa nêu lên đã bắt buộc thần học cận
đại xét lại một câu hỏi mà con người mọi nơi mọi thời đã đặt lên cho tất
cả các tôn giáo: vì đâu mà con người phải khổ? Giới hạn vào sự liên hệ
với Thập giá, ta nên biết rằng Kitô giáo tiên vàn không nhằm đề ra một
lý thuyết để giải thích về nguyên nhân của sự đau khổ cho bằng trưng ra
mẫu gương của một người đã cùng chia sẻ sự đau khổ: người ấy chính là
Đức Kitô. Nơi Người, Thiên Chúa đã nếm thử tất cả những mùi đau khổ của
con người, cả về thể chất lẫn tinh thần, nhất là sự khắc khoải trước cái
chết và cái chết đã mang ô nhục. Thiên Chúa đã lãnh lấy đau khổ không
phải vì Ngài yêu thích đau khổ, nhưng là vì yêu thương con người khổ
đau. Ngài không muốn phô trương kỷ lục về đau khổ cho bằng muốn chia sẻ
thân phận con người ngay từ khi vào đời. Chính trong sự liên đới của Đức
Kitô với những đau khổ của loài người mà chúng ta tìm thấy một niềm an
ủi; thực vậy, bất cứ người nào cho dù bị chìm sâu xuống bể khổ đến đâu,
cũng đều có thể hướng mắt nhìn lên Thập giá. Thực ra, Đức Kitô không có
thánh hóa sự đau khổ xét như là đau khổ: sự đau khổ nguyên nó là điều
xấu và có thể gây ra bao nhiêu sự xấu khác (căm tức, oán hờn, trách
phận, ghen tương,…). Chúng ta cũng đừng coi sự đau khổ như là giá mà Đức
Kitô phải trả cho Thiên Chúa để đền tội của loài người; bởi vì như vậy
là hạ giá Thiên Chúa, coi Ngài như ông chủ nợ khắc nghiệt cay cú! Hình
ảnh ấy không phản ánh khuôn mặt của Thiên Chúa mà Đức Kitô đã mặc khải
cho chúng ta. Thiết tưởng phải nói rằng không phải số lượng đau khổ
chồng chất lên thân xác của Đức Kitô đã mang lại ơn cứu độ cho nhân
loại, cũng chẳng phải chính cái chết có sức đền tội thay cho chúng ta:
nhưng là cách thức mà Đức Kitô đã lãnh nhận cái chết. Đức Kitô đã đón
nhận hết tất cả những đau khổ cho tới chết với tinh thần tự do âu yếm và
trao hiến thân mình. Đức Kitô đã hoán cải cái chết, từ chỗ là hoa quả
của thù hận và tội lỗi để trở nên ngọn lửa của yêu thương. Chính vì đã
xoay ngược ý nghĩa của cái chết như vậy mà ta có thể nói rằng Đức Kitô
đã giao tranh với sự chết. Đức Kitô đã lãnh nhận cái chết trên mình và
đã vật ngã nó nhờ sự sống lại; hay nói cách khác, Ngài đã tiêu diệt cái
chết. Nhờ tình yêu mà Ngài thông ban cho con người, chúng ta cũng có thể
chấp nhận cùng với Ngài (nghĩa là có thể hoán cải) sự đau khổ. Vì thế,
đau khổ có thể có giá trị hay không là tuy theo thái độ chúng ta có chấp
nhận nó cách tự do hay không, nghĩa là có biết đón nhận nó với sức mạnh
của Đức Kitô (giống như Ngài và cùng với Ngài) hay không.
Dù sao, cần phải nhấn mạnh rằng Thập giá không phải
là một học thuyết giải thích hay biện minh cho sự đau khổ của con người.
Thập giá cho ta thấy một sự kiện là Thiên Chúa đã đến gặp gỡ sự đau khổ,
với thái độ tự do của Ngài. Điều đó đã vạch ra hai bộ mặt của đau khổ:
nó vừa kinh tởm vừa xinh đẹp. Nó kinh tởm bởi vì chính một kẻ công chính
vô tội đã chịu khổ do dã tâm của đồng loại. Nó xinh đẹp bởi vì cách thức
mà Đức Giêsu đã chấp nhận và biến đổi nó: Người đã đón nhận nó cách âu
yếm và hoán cải nó thành dụng cụ yêu thương. Và Đức Kitô mời gọi các môn
đệ hãy vác Thập giá đi theo Ngài với nghĩa ấy: bắt chước Chúa trong thái
độ yêu mến.
Đức Gioan Phaolô II đã viết dòng suy niệm về ý nghĩa
sự đau khổ trong tông thư Salvifici Doloris.
3. Thần học Thập giá trong tương quan giữa Giáo
hội với trần thế
Trong hậu bán thế kỷ 20, thần học Công giáo có nhiều
du dịch đáng kể chung quanh thần học Thập giá. Trước đó, Thập giá được
nói nhiều trong các sách tu đức, đề cao việc chia sẻ những đau khổ của
Chúa Giêsu qua những việc hãm mình đền tạ. Vào thập niên 50, với cuộc
cải tổ phụng vụ, Thập giá dần dần biến đi nhường chỗ cho mầu nhiệm Phục
sinh. Thật vậy, nếu không có sự phục sinh thì Thập giá chẳng có ý nghĩa
gì hết mà chỉ dẫn tới tuyệt vọng. Trùng với thời kỳ phát triển khoa học
và kinh tế tại Âu châu, các văn kiện của công đồng Vaticanô II được soạn
ra dưới ánh sáng lạc quan của mầu nhiệm phục sinh đến nỗi quên đi mầu
nhiệm Thập giá! Thế nhưng, đến khoảng thập niên 70, với những cuộc khủng
hoảng kinh tế, với những cảnh bất công còn tái diễn trên thế giới, thần
học lại quay lại với Thập giá. Sự quân bình giữa Thập giá và Phục sinh
không phải lúc nào cũng dễ dàng! Vào dịp kỷ niệm 20 năm bế mạc công đồng
Vaticanô II, khi nhận định về sứ mạng của Hội thánh trong thế giới dựa
theo hiến chế “vui mừng và hy vọng” Thượng Hội đồng Giám mục khoá bất
thường năm 1985 đã tuyên bố như sau:
Chúng tôi nhận thấy rằng những dấu chỉ của thời
đại chúng ta có phần khác với thời đại công đồng, với những vấn đề và
khắc khoải lớn hơn. Thực vậy, ngày nay khắp nơi trên thế giới chúng ta
đang chứng kiến sự gia tăng của đói kém, đàn áp, chiến tranh, đau khổ,
khủng bố và nhiều hình thức bạo lực khác. Điều này đòi hỏi một sự suy tư
thần học mới và sâu xa hơn, ngõ hầu có thể giải thích những dấu chỉ này
trong ánh sáng của Tin mừng. Chúng tôi thấy rằng trong nỗi khó khăn hiện
tại Thiên Chúa muốn dạy chúng ta cách thấm thía hơn về giá trị, tầm quan
trọng và trung tâm của Thập giá Đức Kitô. Vì thế, sự liên hệ giữa lịch
sử nhân loại và lịch sử cứu rỗi cần được giải thích dưới ánh sáng của
mầu nhiệm vượt qua. Dĩ nhiên, thần học Thập giá không loại bỏ hoàn toàn
thần học về tạo dựng và nhập thể, nhưng nó giả thiết cả hai nền tảng đó.
Khi các kitô hữu nói tới Thập giá, chúng ta không muốn bị gán là bi quan
yếm thế nhưng chúng ta muốn đặt mình trên thực trạng của nền hy vọng
kitô giáo. Từ viễn ảnh của mầu nhiệm vượt qua, cùng với sự khẳng định
mối liên kết giữa Thập giá và Phục sinh, chúng ta có thể nhận định một
sự thích nghi canh tan và chính hiệu hay giả hiệu. Một đàng chúng ta
không thể nào chấp nhận hoàn toàn đồng hóa với thế gian; đàng khác,
chúng ta cũng không thể đóng khung Giáo hội vào cộng đồng các tín hữu:
chúng ta cần phải khẳng định sự cởi mở truyền giáo của Giáo hội nhằm tới
sự cứu rỗi toàn diện con người. Nhờ đó, hết mọi giá trị chân chính của
con người không những được chấp nhận mà còn được bảo vệ cách cương
quyết: phẩm giá nhân vị; những quyền lợi căn bản của con người; hoà
bình; tự do khỏi mọi áp bức, nghèo kém và bất công. Tuy nhiên, sự cứu
rỗi toàn diện đạt được khi mà những thực tại vừa nói của con người được
thanh luyện và nâng cao nhờ ân sủng và sự kết hợp với Thiên Chúa, nhờ
Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần.
Cũng nên biết là văn kiện ấy cũng lấy mầu nhiệm Thập
giá làm mẫu mực cho việc hội nhập văn hóa. Nói cách khác, tiêu chuẩn của
việc hội nhập văn hóa không thể chỉ dựa thuần tuý trên mầu nhiệm nhập
thể, nhưng còn phải dựa cả trên mầu nhiệm Thập giá nữa: Giáo hội cần
biết thu nhận các nền văn hóa nhưng đồng thời cũng cần phải biết thanh
tẩy luyện lọc chúng nữa. Như thế, ta thấy một chiều kích khác nữa của
thần học Thập giá, đặt trong mối tương quan giữa Giáo hội với trần thế,
giữa lịch sử nhân loại với lịch sử cứu độ.
C. THÁNH GIÁ LÀ TÌNH YÊU
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một
đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh
đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng
trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười
khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên
Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên
một Thập giá.
Ý muốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên
Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên
một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ. Người ta sợ thập
giá. Đó là hình phạt sỉ nhục đau đớn nhất cho tội nhân.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu
đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hòan
toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là
tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui,
để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai
khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với
Ngài. Những ai mang thập giá ngày thứ Sáu Tuần Thánh có thể hạnh phúc
ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự
chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều
ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang hy sinh là đau
khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với
niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn
chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân
lọai. Cái chết của Người là một hiến lễ có giá trị chuộc tội, đền tội,
gánh tội và Người chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ.
Trước khi Đức Kitô bị đóng đinh đã có thập giá rồi.
Người Rôma dùng thập giá để lên án tử hình cho các tội nhân. Bấy giờ ở
đâu có thập giá là ở đó có sự chết. Người ta sợ hãi thập giá. Bóng thập
giá là tử thần. Thập giá tới đâu là khóc than khổ đau đến đó.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có dấu
chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức
Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là
Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Ngài đi vào đời sống
mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên Thánh.
Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không
có tình yêu thì thập giá không phải là Thánh giá. Thập giá dụng cụ giết
người nhục nhã đã trở nên Thánh giá phương tiện ban sự sống mới qua tình
yêu Đấng Cứu Thế.
Thánh giá là biểu tượng cho Kitô giáo. Thánh giá mang
ánh sáng, nguồn chân lý đến cho các giáo huấn của Giáo hội. Thánh giá
là biểu tượng cho niềm tin Kitô hữu, cho ơn cứu độ của Đức Giêsu.
Tôn vinh Thánh giá là tôn vinh chính Đức Giêsu Kitô.
Mỗi ngày người tín hữu nhìn lên Thánh giá, biểu tượng
đức tin và ơn cứu độ, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa và ngợi khen Đức
Giêsu Kitô. Nhờ đó ta sẽ an tâm vững bước trên con đường Chúa Cứu Thế đã
đi qua.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An, viết theo Thời sự thần học
số 7 tháng 3/97
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Hữu An