Những bài cùng tác giả
B. Russell không chỉ có đóng góp vào việc phát triển
triết học phân tích, mà còn vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Phân tích
những cống hiến của ông trong lĩnh vực tôn giáo, trong bài viết này, tác
giả đã đưa ra và luận giải quan niệm của ông về: 1. Mối quan hệ giữa tôn
giáo và khoa học; 2. Niềm tin tôn giáo; 3. Những đóng góp của tôn giáo
trong nền văn minh nhân loại.
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng
lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông
không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết
học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc
học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về
tôn giáo.
Quan điểm tôn giáo của
B. Russell được hình thành từ rất sớm. Sau này, chính ông đã thừa nhận rằng,
từ thủa thiếu niên, đối với ông “không gì quan trọng bằng tôn giáo - ngoại
trừ môn toán”(1).
Rằng, xuất phát từ lòng mộ đạo ấy mà sau này, ông đã tìm
hiểu xem giá trị của tôn giáo là gì và vì sao mình đã từng tin vào tôn giáo
như vậy. Kết quả của quá trình nghiên cứu về tôn giáo đã được ông thể hiện ở
nhiều tác phẩm, như Bản chất của tôn giáo
(1912), Tôn giáo và giáo hội (1916), Những điều tôi tin
(1925), Tại sao tôi lại không phải là tín đồ Kitô giáo? (1927),
Tôn giáo có đóng góp hữu ích gì cho nền văn minh hay không? (1930),
Tôn giáo và khoa học (1935), v.v.. Các tác phẩm này đã đem lại danh
tiếng cho ông không kém gì các tác phẩm viết về lôgíc học, toán học và triết
học.
Trong quan điểm về tôn giáo, trước hết B. Russell đã khẳng
định, ba vấn đề quan trọng nhất đối với bất kỳ một tôn giáo nào - đó là: 1.
Thượng đế; 2. Linh hồn bất tử; 3. Ý chí tự do. Ông tự cho mình là trường hợp
đặc biệt khi suy tư về ba vấn đề này theo thứ tự từ dưới lên trên, nghĩa là
bắt đầu từ vấn đề “ý chí tự do”. Thứ nhất, xuất phát từ luận cứ cho
rằng “mọi chuyển động vật chất đều tuân theo những quy luật về động lực
học”, B. Russell đã đi tới chỗ bác bỏ quan điểm “có ý chí tự do”. (1)
Thứ
hai, về vấn đề linh hồn bất tử, theo ông, thể chất
và tinh thần hiển nhiên là có quan hệ với nhau và bất kể mối quan hệ đó là
như thế nào thì cũng “không có lý do gì để cho rằng tinh thần còn tồn tại
khi mà bộ óc đã thối nát”. Thứ ba, về vấn đề Thượng đế, B. Russell cho
rằng, mặc dù từ trước tới nay, “người ta đã đưa ra nhiều lý lẽ để chứng minh
Thượng đế tồn tại”, nhưng “tất cả những lý lẽ đó tuyệt nhiên không có giá
trị gì cả”. Với ba quan niệm này, ông đi đến kết luận: “Tôi không có một lý
do gì để tin ở ba cái đó cả”
(2) vàtuyên bố đã giải quyết xong vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là
những quan niệm ban đầu của B. Russell về tôn giáo và chúng còn được ông tiếp
tục nghiên cứu cùng với những vấn đề khác của tôn giáo.
Khi chứng kiến những cuộc tranh luận kéo dài về mối quan hệ
giữa tôn giáo và khoa học, B. Russell cho rằng, trong thời kỳ hình thành,
không những toán học, lôgíc học, mà cả thiên văn học, y học, v.v. với tư
cách các lĩnh vực sản xuất tinh thần đã xuất hiện và phát triển trong các hệ
thống thế giới quan tôn giáo. Khi đó, các khái niệm và tư tưởng của các khoa
học này còn mang tính chất thần thánh và do vậy, cơ sở cho xung đột giữa
khoa học và tôn giáo chưa xuất hiện. Bởi lúc này, theo ông, tri thức về thế
giới tự nhiên hoà nhập và cấu thành một bộ phận của thế giới quan tôn giáo.
Xung đột giữa tôn giáo và khoa học chỉ xuất hiện dưới hình thức gay gắt và
rõ ràng khi các tôn giáo, đặc biệt là các tôn giáo mặc khải, đã hoàn toàn
thần thánh hoá bức tranh thế giới, còn khoa học đã dần xây dựng được các
phương pháp nhận thức của bản thân mình và bắt đầu hoài nghi các thành tố
của thế giới quan tôn giáo.
Với quan niệm như vậy về mối quan hệ giữa khoa học và tôn
giáo, khi đứng trên lập trường của triết học thực chứng mới, B. Russell đã sử
dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên để chống lại những tín điều
phí lý của tôn giáo và đề cao vai trò
của con người. Một mặt, B. Russell đã sử dụng những thành tựu cơ bản
của khoa học tự nhiên thế kỷ XVII - XVIII để loại trừ khái niệm mục đích ra
khỏi hệ thống khái niệm của tư duy khoa học. Theo ông, ở thời kỳ này, khoa
học tự nhiên đều thống nhất ở chỗ đòi hỏi cần phải được giải phóng hoàn toàn
khỏi mục đích luận; mọi tri thức khoa học đều cho thấy tự nhiên là vương
quốc của những nguyên nhân tác động, trong nó không có quan hệ mục đích, mà
chỉ có quan hệ nhân quả. Mặt khác, B. Russell còn sử dụng những thành
quả của học thuyết Darwin ra đời vào cuối những năm 50 của thế kỷ XIX
để phản bác lại thế giới quan tôn giáo. Theo ông, học thuyết của Darwin đã
chứng minh được rằng, các loài thực vật và động vật không phải là cố định mà
luôn biến đổi; năng lực thích nghi của cơ thể, cấu tạo và lối ứng xử hợp lý
của chúng là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên. Rằng, những phát hiện
này của Darwin và những thành tựu khác của khoa học tự nhiên (vật lý, hóa
học…) đã tạo ra một bức tranh mới về thế giới tự nhiên thống nhất mà trong
đó, với tất cả những sự khác biệt, các hình thức vận động khác nhau lại hoá
ra là có liên hệ với nhau và được giải thích dựa trên các quy luật nội tại
của chúng, chứ không phải do một Đấng tối cao nào tạo ra cả. Chính Darwin đã
làm nên một cuộc cách mạng trong khoa học, bởi những thành tựu nghiên cứu
của ông đã chứng tỏ rằng, chính con người đã tham gia vào quá trình tiến hóa
của sự sống, chứ không phải con người ra đời nằm trong “kế hoạch” của Chúa.
Không chỉ thế, B. Russell còn phủ nhận quan điểm của các tôn
giáo từ trước tới nay về nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Theo ông, “con
người là sản phẩm của những sự tác động - những cái không thể thấy trước kết
cục mà chúng đang trong tiến trình vươn tới; nguồn gốc của con người, sự
phát triển của con người, ước vọng và nỗi sợ hãi của anh ta, tình yêu và
niềm tin của anh ta chỉ là kết quả sắp đặt ngẫu nhiên của những nguyên tử” (3).
Theo ông, chỉ có khoa học mới có thể giúp con người vượt qua mọi nỗi sợ hãi.
Bởi chỉ có khoa học mới có thể cho chúng ta thấy thế giới tốt đẹp mà chúng
ta đang sống là thế giới hiện thực. Chúng ta phải thay thế cái thế giới đã
bị ngự trị bởi
nhà thờ trong nhiều thế kỷ qua bằng một thế giới tốt đẹp hơn để sống một
cuộc đời đáng sống(4).
Con người phải vượt qua mọi thử thách của cuộc sống bằng kiến thức của mình
chứ không nên chỉ biết cầu nguyện. Rằng, khi con người có kiến thức và am
hiểu thực tế thì cái mà con người có được còn nhiều hơn là cầu nguyện, “bởi
sức mạnh của lời cầu nguyện chỉ có giới hạn, còn sức mạnh của khoa học là
không có giới hạn. Chúng ta nói niềm tin có thể dời non lấp biển thì không
ai tin, nhưng khi nói rằng bom nguyên tử có thể dời non lấp biển thì tất cả
mọi người đều tin”(5).
Trong tác phẩm Tại sao tôi không phải là
một tính đồ Thiên chúa giáo
(1957), B. Russell đã thể hiện rõ lập trường vô thần của mình. Dựa
trên những thành tựu của khoa học thời bấy giờ (toán học, vật lý, lôgíc
học), ông đã chống lại niềm tin tôn giáo và lý giải vì sao mà con người có
nhu cầu tôn giáo, cần đến niềm tin tôn giáo.
Theo B. Russell, tôn giáo có nguồn gốc đầu tiên và cơ bản
chính là do nỗi sợ hãi. Loài người luôn cảm thấy bất lực trước những gì
mà mình gặp phải, chẳng hạn như sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên, trước
những khó khăn mà nó luôn phải hứng chịu trong đời sống xã hội; thậm chí,
con người còn sợ chính bản thân mình. Theo ông, có ba điều làm cho con người
sợ hãi. Đó là, thứ nhất, con người “sợ thiên nhiên”, ví dụ “có thể bị
sét đánh, hoặc bị chôn sống trong một cuộc động đất”; thứ hai, con
người “sợ người khác”, chẳng hạn, trên chiến trường, kẻ thù có thể giết
mình; thứ ba, con người sợ ngay những đam mê của chính mình. Bởi lẽ,
“những đam mê có khi mãnh liệt quá, có thể thúc đẩy mình làm những điều mà
sau khi bình tĩnh lại rồi, mình sẽ ân hận” (6). Do đó, con người luôn sống
trong cảnh sợ hãi, và chính tôn giáo đã giúp cho con người bớt đi nỗi sợ hãi
ấy.
Trong tác phẩm Thế nào
là bất khả tri (1953), B. Russell cho rằng, “có rất nhiều người không tin
vào Chúa và họ cũng không chịu sự trừng phạt nào vì sự bất tín này. Và nếu
Chúa có thật, tôi nghĩ rằng Ngài sẽ không lo lắng hay băn khoăn gì đến việc
liệu mình có bị xúc phạm bởi những người hoài nghi về sự hiện diện của mình
hay không” (7). Lý giải điều này, ông đã
đưa ra hai lý do khiến ông không tin vào
Chúa. Thứ nhất, ông không thừa nhận sự tồn tại của
Thượng đế và sự bất tử của Ngài; thứ hai, ông không thừa nhận sự tồn
tại của Chúa như một người khôn ngoan và sáng suốt nhất.
Điều mà B. Russell muốn
nói đến khi phủ nhận niềm tin tôn giáo là: “Mọi đức tin mù quáng đều tai
hại” và đức tin tôn giáo là một đức tin vô căn cứ. Bởi lẽ, theo ông, thứ
nhất, không thể đánh giá được đức tin nào là tốt và đức tin nào là xấu,
chẳng hạn như, “người theo một tôn giáo nào đó cho rằng, đức tin trong tôn
giáo của họ là tốt trong khi đức tin của những người không theo tôn giáo ấy
là xấu”; thứ hai, chúng ta chỉ có thể định nghĩa “đức tin” là niềm
tin vững chắc vào một cái gì đó không thể chứng thực được, và một khi đã có
chứng cớ rạch ròi thì không ai nói đến đức tin nữa. Ông viết: “Chúng ta
không bao giờ nói đến đức tin khi hai cộng hai bằng bốn hay trái đất hình
tròn. Chúng ta chỉ nói đến đức tin, khi chúng ta muốn thay thế cảm xúc cho
chứng cớ”(8).
Mặc dù trong quan niệm về
niềm tin tôn giáo, B. Russell luôn sử dụng những chứng cứ khoa học để bác bỏ
niềm tin tôn giáo, song, ông cũng phải thừa nhận rằng, trên thực tế, rất khó
tìm thấy cái có thể thay thế niềm tin tôn giáo. Ông viết: “Mặc dù chúng ta
đã được truyền thụ về thiên văn học của Côpécnic qua sách giáo khoa, nhưng
học thuyết này không thể thâm nhập được vào niềm tin tôn giáo, đạo đức hay
tinh thần của chúng ta, thậm chí nó cũng không thể phá hủy được niềm tin của
chúng ta vào thuật chiêm tinh. Con người vẫn tin mình ra đời nằm trong kế
hoạch thiêng liêng của Chúa”(9).
Với câu hỏi sự ra đời của Chúa đã diễn ra như thế nào, hay
cần phải tìm ở đâu nguyên nhân, lý do đầu tiên đã dẫn đến sự xuất hiện của
thế giới, B. Russell cho rằng, việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này cũng
có nghĩa là bảo vệ quan điểm cho rằng mọi cái mà chúng ta thấy trên thế giới
này đều có nguyên nhân và do vậy, buộc chúng ta phải trở lại một chuỗi các
nguyên nhân và trở về với nguyên nhân đầu tiên - đó là thế giới này ra đời
do chủ ý của Chúa. Với quan điểm này, ông đã phủ nhận sự ra đời và vai trò
sáng thế của Chúa. Theo ông, “nếu mọi cái ra đời đều phải có nguyên nhân thì
Chúa cũng phải có nguyên nhân. Nếu mọi cái đều tồn tại không có nguyên nhân
thì Chúa cũng tồn tại trên thế giới mà không có nguyên nhân”. Và, “nếu trả
lời Chúa sáng tạo ra thế giới chỉ vì ý muốn của mình, chứ không vì một lý do
nào khác, thì như vậy, chúng ta đã chỉ rõ rằng, có một cái gì đó không bị
quy luật chi phối, nghĩa là cái chuỗi quy luật tự nhiên đã bị phá vỡ. Còn
nếu trả lời như những nhà thần học chính thống rằng, tất cả những quy luật
mà Chúa đã định trước đều có một nguyên nhân để quy định chúng như thế,
không thể khác được... thì như vậy, bản thân Chúa cũng phải tuân theo quy
luật..., nghĩa là phải thừa nhận có một quy luật tồn tại độc lập với sự sắp
xếp của Chúa và có trước sự sắp xếp đó”(10). Từ quan niệm này, B. Russell cho
rằng, thật là sai lầm khi tranh luận về nguyên nhân đầu tiên. Bởi lẽ, sự
tranh luận này không mang lại điều gì tốt đẹp hơn cho thế giới mà con người
đang sống. Không có lý do gì để nói tại sao thế giới ra đời mà không có
nguyên nhân, nhưng lại có rất nhiều lý do để nói tại sao thế giới không tồn
tại mãi mãi. Rằng, quan điểm cho mọi vật phải có điểm khởi đầu về thực chất,
là do trí tưởng tượng nghèo nàn của chúng ta mà ra.
Mặc dù khẳng định tôn giáo sẽ còn tồn tại cùng với loài
người, nếu như vẫn còn những cuộc đại chiến khiến cho nhân loại điêu đứng,
nhưng B. Russell cũng cho rằng, tôn giáo sẽ chết, nếu các vấn đề xã hội, như
chiến tranh, vũ khí hạt nhân và vũ khí hoá học, nạn đói và thất học,… được
giải quyết. Đánh giá tôn giáo có mặt tốt, có mặt xấu, ông đã đưa ra một số
ví dụ để chứng minh rằng, tôn giáo cũng mang lại lợi ích cho con người,
chẳng hạn như “nhờ tôn giáo mà các tu sĩ Ai Cập thời cổ đã làm ra lịch, đã
ghi khá kỹ các lần nhật thực, nguyệt thực để dự đoán được bao giờ thì những
hiện tượng đó trở lại”. Song, nhìn chung, “tôn giáo luôn để lại nhiều hậu
quả tai hại, khi thần thánh hoá chủ nghĩa bảo thủ, cố bám lấy những hủ tục
cũ, nhất là thần thánh hoá sự cố chấp và lòng căm thù” (11).
Là người mang lập trường
vô thần, nhưng B. Russell cũng là người rất công bằng trong việc nhìn nhận,
đánh giá những giá trị tích cực mà tôn giáo đã đem lại cho con người. Trong
tác phẩm Khoa học và tôn giáo, ông đã cho rằng, một tôn giáo lớn bao
giờ cũng có hệ thống tín điều, hệ thống các quy tắc đạo đức và giáo hội.
Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được, mà phải sống theo
những khuôn phép đạo đức hợp với tín điều của tôn giáo đó; hành động của họ
không phải chỉ là thực hành một số nghi lễ nào đó, mà còn phải tuân theo
những quy tắc đạo đức nhất định. Do vậy, đương nhiên, một số quy tắc của đạo
đức đã trở thành bộ phận cấu thành của tôn giáo.
Theo B. Russell, bất cứ
tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều
chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tôn giáo đều tuyên
bố về giá trị tối cao của các lực lượng siêu nhiên và mọi giá trị khác phải
lấy đó làm chuẩn. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo đức của hầu hết các tôn
giáo, ngoài giá trị đặc thù là bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, nó còn
đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như sống hiếu thảo
với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác...
Mục đích của những công trình nghiên cứu về tôn giáo là để mở mang đầu óc
cho những người dân bình thường không có cơ hội hoặc khả năng tìm hiểu các
giáo lý tôn giáo, giúp cho họ hiểu biết đúng đắn về các tôn giáo và đón nhận
những giá trị đích thực, vô giá mà tôn giáo có thể ban tặng cho họ.
Trong quan niệm về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo,
B. Russell đã lựa chọn lập trường đối lập với tôn giáo. Đây là hạn chế cơ bản
nhất của ông về vấn đề tôn giáo. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự
tập trung quyền lực, sự phi nhân văn hóa con người không chỉ là hệ quả tất
yếu của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, mà còn là kết quả của một tổ hợp nhân
tố; trong đó, một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất là việc khoa học
khước từ tôn giáo. Nhiều nhà nghiên cứu thần học cho rằng, khi khước từ tôn
giáo, toàn thể xã hội, quyền lực và khoa học đều trở thành cái phi tinh
thần, còn hành vi của con người thì đánh mất định hướng đạo đức, nhân văn.
Chính điều này đã đưa tới những hậu quả xã hội tiêu cực trong việc áp dụng
các thành tựu khoa học, biến khoa học từ kẻ phục vụ con người thành lực
lượng chống lại con người.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc phê phán tôn giáo của
B. Russell đã đem lại sự phát triển đích thực cho những tôn giáo chân chính.
Bởi cùng với sự phát triển của khoa học, tôn giáo cũng có con đường phát
triển của riêng mình. Những giá trị văn hóa và đạo đức của tôn giáo mà
B. Russell đánh giá cao đã được các tôn giáo, các nhà thần học tiếp tục phát
triển. Tôn giáo hiện nay đã coi việc phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức
như một con đường để thâm nhập vào đời sống cá nhân con người, vào đời sống
xã hội.
Trong quan niệm về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo, mặc
dù B. Russell đứng trên lập trường khoa học và triết học phân tích, nhưng
không phải ông chống lại tất cả mọi tôn giáo. Trong quan niệm của ông về
Phật giáo đã có sự gợi mở về sự hợp tác giữa khoa học và tôn giáo.
A.Einstein - người cùng thời và là bạn của B. Russell đã bày tỏ sự đồng tình
với quan niệm này của ông, khi cho rằng, tôn giáo của tương lai sẽ là một
tôn giáo hoàn vũ. Nó sẽ phải vượt qua một Thượng đế có nhân tính và tránh xa
những học thuyết giáo điều. Khi bao gồm cả khoa học tự nhiên và tâm linh, nó
phải được đặt một cách căn bản trên một ý thức tôn giáo khởi phát từ sự trải
nghiệm về tất cả mọi sự vật, của khoa học tự nhiên lẫn tâm linh, và đây được
xem như một sự hợp nhất đầy ý nghĩa (12).
Đứng trên lập trường duy vật biện chứng, chúng ta có thể nói
rằng, quan điểm tôn giáo của B. Russell là quan điểm vô thần nhất quán. Quan
điểm đó chống lại niềm tin tôn giáo mù quáng, đề cao vai trò của con người
và khoa học với khát vọng giải quyết triệt để vấn đề tôn giáo, đem lại hòa
bình và hạnh phúc đích thực cho nhân loại. Mặc dù chống tôn giáo quyết liệt,
B. Russell vẫn đánh giá cao những giá trị nhân văn, văn hóa, đạo đức tốt đẹp
mà các tôn giáo đã mang lại cho lịch sử văn minh nhân loại. Những hạt nhân
hợp lý của tôn giáo, như giá trị nhân văn, đạo đức tôn giáo vẫn cần phải
được duy trì trong một thế giới còn đầy những bất công, nguy cơ chiến tranh
hạt nhân, nạn đói nghèo và thất học. Với B. Russell, triết lý của đạo Phật là
cái căn bản của đạo đức Phật giáo, là tình yêu thương quảng đại và là động
lực, là sức mạnh mà cả nhân loại phải lưu ý, khi mà người ta không thể có
hạnh phúc trọn vẹn trong lúc vẫn còn một chúng sinh đau khổ./.
(*)
Thạc sĩ. Viện Triết
học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1)
Xem: Bertrand Russell. Thế giới ngày nay và tương lai nhân loại.
(Nguyễn Hiến Lê). Nxb Ca dao, Sài Gòn, 1971, tr.31.
(2)
Xem: Bertrand Russell. Thế giới ngày nay và tương lai nhân loại.
Sđd., tr.31 – 32.
(3)
Xem: B. Russell. Tín ngưỡng của người tự do.
www.talawas/talaDB/showFile.php?res=12267&rb=0301.
(4)
Bertrand Russell. Why I am not a Christian. L, 1957, p.22.
(5)
Bertrand Russell. Impact of Science Society. L., 1953, p.15.
(6)
Bertrand Russell. Thế giới ngày nay và tương lai nhân loại.
Sđd., tr.34-35.
(7)
Bertrand Russell. What is an Agnostics. L.1953.
(8)
Bertrand Russell. Human Societty in Ethies and Politic. L.,
1954, p.215.
(9)
Bertrand
Russell. Unpopular Essays. L., 1950, p.75.
(10) Bertrand Russell.
Why I am not a Christian. L, 1957, p.15,
17.
(11)
Bertrand Russell. Why I am not a Christian. Ibid.,
p.33-34.
|