Paul A. Baran là một nhà kinh tế
học người Mỹ theo chủ nghĩa Marx.
Tiểu luận
"The Commitment of the Intellectual"
[*]
ra đời trên
Monthly Rewiew tháng
5 năm 1961. Bản dịch tiếng Pháp, đăng trên tạp chí
Partisans tháng
10 năm 1965 dưới tựa đề
"Qu’est-ce qu’un Intellectuel",
đã được Trần Sóc Sơn sử dụng để chuyển sang Việt ngữ trên
Gió Nội
lần đầu vào khoảng cuối thập niên 1960. Trong lần dịch lại này,
chúng tôi sử dụng bản gốc tuy nhiều chỗ vẫn dựa trên bản cũ, đồng
thời giữ lại tựa đề của bản Pháp văn và đặt thêm một số tiểu tựa cho
dễ đọc.
Ở đây, khi lập đường
phân thủy giữa
"trí thức"
với "lao động trí thức",
Baran đã đưa ra một sự phân biệt hợp lý và cần thiết. Và mặc dù được
khai sinh trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, thật ra nó đã vượt thoát
khuôn khổ của môi trường này. Phê phán của ông đối với một thành
phần xã hội nào đó ở Hoa Kỳ vẫn còn nguyên giá trị, nếu đường ranh
trên được áp dụng trong một khung cảnh khác, quốc gia chậm tiến hay
chủ nghĩa xã hội đương tồn.
Thế nào là người trí
thức? Câu trả lời hiển nhiên nhất có lẽ như sau: đấy là người lao
động dùng trí tuệ của mình, và kiếm sống (hoặc trong trường hợp
không phải bận tâm vì sinh kế, thoả mãn lợi ích riêng của mình) nhờ
bộ óc hơn là bằng bắp thịt. Tuy khá giản tiện và trực tiếp, nhìn
chung, định nghĩa này vẫn không thích hợp. Đúng cho bất cứ ai không
làm việc tay chân, rõ ràng là nó không ăn khớp với nghĩa thông
thường của từ "trí thức". Những thành ngữ như "dài lưng tốn vải"
và "trí thức trùm chăn"
[1] cho
phép ta nghĩ rằng có một khái niệm khác hẳn trong công luận để chỉ
hạng người nào đó như một tầng lớp nhỏ hơn bên trong loại người "lao
động bằng trí óc".
Phân công xã hội
Đây không phải là sự tinh
tế gò bó và vô bổ về từ ngữ. Thật ra, sự tồn tại của hai khái niệm
khác nhau đó phản ánh một điều kiện xã hội hiện thực: hiểu rõ điều
này, chúng ta sẽ đánh giá trung thực hơn vị trí và chức năng của
người trí thức trong xã hội. Tuy rộng, định nghĩa đầu áp dụng chính
xác cho một nhóm người khá đông, hợp thành một thành phần quan trọng
của xã hội: họ làm việc với óc não nhiều hơn là bắp thịt, và sinh
sống bằng trí tuệ hơn là bàn tay. Hãy gọi họ là người lao động
trí thức. Đó là những nhà kinh doanh, y sĩ, quản đốc xí nghiệp,
người phổ biến "văn hoá", nhân viên chứng khoán và giáo sư đại học…
Tập hợp này, cũng như tập hợp "tất cả người Mỹ" hay "tất cả những
người hút ống điếu" không có gì là xúc phạm. Sự sinh sôi nẩy nở đều
đặn của nhóm lao động trí thức này là một trong những nét nổi bật
nhất của tiến hoá lịch sử cho đến nay. Nó phản ánh một khía cạnh chủ
yếu của việc phân công xã hội, đã bắt đầu với sự kết tinh của một
tập đoàn tu sĩ chuyên nghiệp và đạt đến tột đỉnh với chủ nghĩa tư
bản phát triển: sự tách rời hoạt động trí óc khỏi hoạt động tay
chân, "dân thầy" khỏi "dân thợ".
Cả nguyên nhân lẫn hậu quả của sự phân cách này đều rất phức tạp, và
lý do sâu xa cũng như tác động của nó đều nhiều như nhau. Vừa nhờ ở
sự bành trướng liên tục của năng suất mà có, lại vừa đóng góp mạnh
mẽ vào sự bành trướng ấy, cách biệt này cùng lúc trở thành một trong
những nét chính của hiện tượng phân tán tiệm tiến nơi mỗi cá nhân,
của cái mà Marx gọi là "sự tha hoá của con người đối với chính
hắn". Sự tha hoá ấy không chỉ biểu lộ qua sự tê liệt và méo mó
mà phân cách này tạo ra cho sự trưởng thành và phát triển của mỗi cá
nhân (việc người lao động trí thức "vận động" chút đỉnh trong khi
người lao động chân tay thỉnh thoảng tham gia vào hoạt động "văn
hoá" chỉ có tác dụng làm cho hiện tượng này trầm trọng hơn, chứ
không thuyên giảm), mà còn biểu lộ qua sự phân cực triệt để xã hội
thành hai phe xung khắc và không còn chút liên hệ nào với nhau. Sự
phân cực này, thẳng góc với những mâu thuẫn đối kháng giữa các
giai cấp xã hội, còn gây ra một lớp sương ý thức hệ dày đặc, che
lấp những thách thức đích thực mà xã hội phải đối phó, đồng thời tạo
ra những vấn đề giả, những đổ vỡ cũng khốc hại chẳng kém gì trường
hợp các thành kiến về chủng tộc hoặc mê tín tôn giáo. Rõ ràng là tất
cả người lao động trí thức đều có một quyền lợi chung: tránh bị dồn
đến chỗ phải làm những công việc tay chân cực nhọc nhưng lương kém
hơn, và - bởi vì chính họ lập ra tiêu chuẩn về sự khả kính – ít được
trọng vọng. Do quyền lợi này dẫn dắt, họ có khuynh hướng tuyệt đối
hoá vị trí xã hội của mình, phóng đại mức khó khăn của công việc và
độ phức tạp của loại khả năng cần thiết, thổi phồng sự quan trọng
của cái học hình thức, của bằng cấp đại học, v. v… Rồi, tìm cách bảo
vệ ưu thế của mình, họ chống lại những người lao động tay chân, tự
đồng hoá với nhóm lao động trí thức thuộc giai cấp lãnh đạo, và đứng
về phe ủng hộ cái trật tự xã hội đã tạo ra và che chở địa vị cùng
những đặc quyền, đặc lợi của họ.
Người lao động trí thức
Vì thế, trong chế độ tư
bản, người lao động trí thức là hình ảnh điển hình của tên đầy tớ
trung thành, nhân viên thừa hành, công chức và phát ngôn nhân của hệ
thống tư bản chủ nghĩa. Anh ta xem cái trật tự hiện hữu xung quanh
là tự nhiên, và chỉ chất vấn hiện tình, hiện trạng xã hội trong
khuôn khổ giới hạn của những bận tâm trước mắt, nghĩa là chỉ liên
quan đến công việc trong tầm tay. Nếu không hài lòng về phí tổn sản
xuất của nhà máy mà anh là sở hữu chủ, giám đốc hay người làm công,
anh ta sẽ tìm cách làm nó giảm bớt. Nếu được giao trách nhiệm "bán"
một thứ xà bông hoặc một ứng cử viên chính trị mới cho dư luận, anh
sẽ làm tròn nhiệm vụ một cách chu đáo và khoa học. Nếu không thỏa
mãn với những kiến thức hiện có về cấu trúc nguyên tử, anh sẽ dành
hết nghị lực và tài năng siêu phàm để tìm ra phương thức làm tăng
thêm hiểu biết về cấu trúc ấy. Người ta có thể nghĩ rằng đó là một
kỹ thuật gia. Nhưng điều này dễ gây ngộ nhận. Với tư cách là
chủ tịch xí nghiệp, anh có thể lấy nhiều quyết định quan trọng ảnh
hưởng đến nền kinh tế quốc gia, đến công ăn việc làm và đời sống của
hàng triệu người. Với tư cách là công chức cao cấp trong chính phủ,
anh có thể ảnh hưởng lên cả những biến chuyển của tình hình thế
giới. Là giám đốc một viện hay một cơ quan khoa học quan trọng, anh
có thể quy hoạch chiều hướng và phương pháp nghiên cứu cho một số
lớn các nhà khoa học trong nhiều năm liền. Tất cả những điều trên dĩ
nhiên là không phù hợp chút nào với nội dung của từ "kỹ thuật gia".
Danh từ này thường được dùng để chỉ loại cá nhân mà công việc là áp
dụng chủ trương chứ không phải là soạn thảo chính sách, là chọn lựa
những phương tiện thích nghi chứ không phải là quyết định các mục
tiêu nhắm đến, là theo dõi việc thực hiện chương trình trong chi
tiết chứ không phải là quy hoạch những dự án lớn. Tuy nhiên, danh từ
"kỹ thuật gia" nói lên bản chất của tập hợp gọi là "người lao động
trí thức" còn trung thực hơn cả nghĩa thông thường của từ này.
Tôi lặp lại: đối tượng công tác và suy tư của người lao động trí
thức là những việc làm trong tầm tay. Ðó là sự hợp lý hoá, chế ngự
và vận dụng cái phần thực tại mà anh phải chăm lo trước mắt. Trong
nghĩa này, anh ta không khác bao nhiêu hoặc không khác chút nào với
người lao động tay chân chuyên cán mỏng những tấm kim khí, ráp máy
hay xây tường. Nói bằng thể phủ định, người lao động trí thức,
trong tư cách này, không quan tâm tới ý nghĩa, tính chất, vị trí
của công việc mình làm trong toàn bộ sinh hoạt xã hội. Nói cách khác
nữa, anh ta không nghĩ gì tới mối tương quan giữa phần nhân lực
trong đó có hoạt động của mình với những phần nhân lực khác, và với
toàn bộ quá trình lịch sử. Phương châm "tự nhiên" của anh ta là hãy
lo chuyện của mình, và nếu cần mẫn và có tham vọng, cố sao trở thành
người hữu hiệu nhất, thành công nhất trong lãnh vực này. Còn về phần
những người khác, cũng vậy, họ hãy lo công việc của họ, bất cứ đó là
việc gì. Quen suy nghĩ với những danh từ như huấn luyện, kinh
nghiệm, khả năng, người lao động trí thức cho rằng lo nghĩ đến những
vấn đề có tính cách toàn thể như thế cũng là một công việc chuyên
môn như bao việc khác. Ðối với anh ta, đó là "lãnh vực" của các
triết gia, chức sắc tôn giáo, nhà chính trị, cũng như "văn hoá" hay
"giá trị" là địa hạt của các nhà thơ, nghệ sĩ và bậc hiền minh.
Từng cá nhân, người lao
động trí thức có thể không phát biểu quan điểm trên một cách rõ
ràng; cũng có thể là anh ta không ý thức được nó nữa. Nhưng mỗi
người, gần như tự bản năng, nếu có thể nói như thế, đều ưa thích
loại lý thuyết đã thu nhập và hợp lý hoá được quan điểm này. Một
trong những lý thuyết ấy là quan niệm nổi tiếng lâu đời của
Adam
Smith về một thế giới trong đó mỗi người làm vườn, bằng cách chăm lo
mảnh vườn riêng của mình, sẽ góp phần tốt nhất vào sự thịnh vượng
chung của tất cả các mảnh vườn khác của mọi người. Dưới ánh sáng của
triết lý này, sự quan tâm về cái toàn thể bị đặt ngoài trung tâm của
những lo nghĩ cá nhân, và chỉ còn tác động trên anh ta một cáchhời
hợt bên lề, nếu chưa hoàn toàn mất hết hiệu lực, nghĩa là chỉ ảnh
hưởng tới anh ta trong tư cách công dân. Sức mạnh và ảnh hưởng của
thứ lý thuyết đó xuất phát từ một chân lý quan trọng mà nó hàm chứa:
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, cá nhân phải đương đầu vớicái toàn
thể như một quá trình đã được khách quan hoá, toàn năng, chuyển động
một cách phi lý bởi những lực tăm tối mà anh ta không thể hiểu được,
do đó, lại càng không thể ảnh hưởng tới được.
Một lý thuyết khác cũng
phản ánh điều kiện của người lao động trí thức và thỏa mãn những đòi
hỏi của anh ta, đó là quan niệm về sự cách ly giữa phương tiện với
cứu cánh, sự ly dị giữa một bên là khoa học và kỹ thuật học, một bên
là sự xác định mục tiêu và giá trị. Thái độ này, đến từ một giòng tư
tưởng cũng cao quý không kém gì giòng tư tưởng của Adam Smith, đã
được Charles Percy Snow
[2] xem rất
đúng là "một phương thức thoái thác trách nhiệm". Theo ông:
"Những người muốn trốn tránh trách nhiệm thường nói:chúng tôi
sản xuất ra dụng cụ. Chúng tôi ngừng ở đó. Bây giờ đến lượt
các ông, những người còn lại, những người làm chính trị, nói
rõ cách dùng các món đồ đó. Có thể là chúng sẽ được dùng vào những
mục đích mà phần lớn chúng ta cho là xấu xa. Nếu thế, chúng tôi rất
lấy làm tiếc. Nhưng với tư cách là nhà khoa học, việc đó không thuộc
thẩm quyền chúng tôi". Và những gì áp dụng cho nhà khoa học,
cũng áp dụng cho tất cả những người lao động trí thức khác, với một
áp lực tương đương.
Dĩ nhiên, "thoái thác
trách nhiệm", trên thực tế, dẫn đến cùng một thái độ với "lo lấy
phần việc của mình"; đó chỉ là cách nói mới. Và thái độ này vẫn
không thay đổi, dù hiện nay một khuynh hướng khá phổ biến đặt tín
nhiệm ở chính phủ nhiều hơn ở nguyên tắc phó mặc buông trôi,
thay thế bàn tay vô hình của Thượng Đế bằng bàn tay lộ liễu hơn, nếu
không nhất thiết phải là hữu ích hơn, của nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Kết quả vẫn thế: quan tâm tới cái toàn thể không phải là việc của cá
nhân; và bỏ mặc mối lo đó cho kẻ khác, cá nhân chấp nhận, qua
chính sự bỏ mặc ấy, cấu trúc hiện hữu của cái toàn thể như một
dữ kiện, đồng thời tán đồng các tiêu chuẩn về lý tính, những giá trị
đang giữ phần ưu thắng trong xã hội, cũng như loại thước đo về hiệu
năng, sự thực hiện và sự thành đạt hiện hành.
Thế nào là người trí thức ?
Tôi đề nghị chúng ta tìm
đường phân thủy giữa người lao động trí thức và trí thức
[3] qua
thái độ của họ đối với những vấn đề đặt ra bởi toàn bộ quá
trình lịch sử. Bởi vì một đặc tính của người trí thức giúp ta phân
biệt anh ta với người lao động trí thức, và với tất cả những người
khác, là sự kiện này: sự quan tâm của anh ta đối với toàn bộ quá
trình lịch sử không phải là một thái độ hời hợt ngoài mặt, nó ăn sâu
vào tâm trí anh, và chi phối công việc anh ta làm. Tự nhiên, điều đó
không có nghĩa là trong sinh hoạt thường nhật, người trí thức lăn xả
vào việc nghiên cứu tất cả quá trình phát triển lịch sử. Chuyện ấy
hiển nhiên là không thể xảy ra. Nó chỉ thật sự có nghĩa là người trí
thức luôn luôn tìm cách gắn liền bất kỳ phạm vi lao động
riêng biệt nào của mình với những mặt khác của cuộc sống. Chính sự
cố tâm nối liền các sự việc với nhau – những sự việc mà, trong
trường hợp người lao động trí thức sinh hoạt trong khuôn khổ các
định chế tư bản chủ nghĩa và thấm nhuần cả ý thức hệ lẫn văn hoá tư
sản, nhất định sẽ bị nhốt cứng trong các ngăn kiến thức hoặc lao
động xã hội rời rạc -, chính cố tâm nối kết đó xác lập một trong
những đặc điểm nổi bật của người trí thức. Và cũng chính nó xác nhận
một trong những chức năng chính của người trí thức trong xã hội:
nhắc nhở và biểu trưng cho một sự kiện hết sức cơ bản trong hệ thống
tư bản chủ nghĩa, là những mẩu nhỏ của cuộc sống xã hội, tuy bề
ngoài có vẻ độc lập, hỗn tạp và rời rạc – văn học, nghệ thuật, chính
trị, trật tự kinh tế, khoa học, điều kiện văn hoá và tâm lý cá nhân
- đều có thể được hiểu rõ (và bị chi phối) khi nào chúng được nhận
diện rõ rệt như các bộ phận của toàn bộ quá trình lịch sử.
Nguyên tắc "chân lý là cái toàn thể" này – nói theo ngôn ngữ của Hegel -, ngược lại,
bao hàm điều tất yếu không thể tránh: từ chối chấp nhận bất cứ một
bộ phận nào của cái toàn thể chỉ như dữ kiện, hoặc xem nó như không
thể nào tìm hiểu, phân tích được. Dù là nghiên cứu về nạn thất
nghiệp trong một nước hay sự lạc hậu và đói rách ở một nước khác, về
tình trạng giáo dục hiện nay hay sự phát triển của khoa học trong
giai đoạn trước, không một toàn bộ những điều kiện chi phối bất cứ
xã hội nào có thể được chấp nhận như tự nhiên vốn như thế, hoặc nằm
"ngoài lãnh vực". Hoàn toàn không thể nào chấp nhận được sự trốn
tránh phơi bày mối liên hệ phức tạp giữa bất kỳ hiện tượng gì ta
đang khảo sát với vấn đề trung tâm quá hiển nhiên của sự phát triển
lịch sử: tính năng động và sự tiến hoá của ngay chính trật tự xã
hội.
Quan trọng hơn nữa, cần
phải ý thức rõ hậu quả của thói quen xem những cái gọi là "giá trị"
được mọi người tôn trọng như hoàn toàn nằm ngoài phạm vi nghiên cứu
khoa học; đây là một lối hành xử đã được hệ tư tưởng tư sản chủ tâm
bồi dưỡng. Bởi vì các "giá trị" và những "phán đoán đạo đức" này, mà
người lao động trí thức thường xem như loại dữ kiện bất khả xâm
phạm, không hề từ trên trời rơi xuống. Bản thân chúng cũng chính là
những khía cạnh và kết quả quan trọng của sự phát triển lịch sử; ở
đây, không những chúng cần phải được nhận diện dứt khoát như thế, mà
nguồn gốc và vai trò lịch sử của chúng còn cần phải được khảo sát kỹ
lưỡng. Thật ra, sự phi thiêng hoá các "giá trị", "phán đoán đạo đức"
và những thứ tương tự, sự nhận diện các nguyên nhân xã hội, kinh tế
và tâm lý đã khiến chúng xuất hiện, tiến hoá và biến mất, cũng như
sự lột trần loại quyền lợi đặc thù mà chúng phục vụ ở từng thời kỳ
lịch sử nhất định… chính là đóng góp riêng lớn nhất mà người trí
thức có thể mang đến cho sự tiến bộ của loài người.
"Trung lập đạo đức ?"
Ðiều này nêu lên một vấn
đề mới. Khi nhận định rằng chức năng của mình chỉ là áp dụng những
phương tiện tốt nhất để đạt đến các mục tiêu cho sẵn, người lao động
trí thức đã lấy thái độ bất khả tri đối với ngay chính các mục tiêu
đó. Trong khả năng như chuyên viên, giám đốc hay kỹ thuật gia, họ
tin rằng họ không có thẩm quyền chi hết trong việc quyết định những
mục tiêu phải theo đuổi, cũng như trong việc phát biểu sự ưa chuộng
một mục tiêu nào đó hơn một mục tiêu khác. Như đã nói, họ chấp nhận
là họ có thể, trong tư cách công dân, có một vài sở thích, với hệ số
không hơn cũng chẳng kém gì sở thích của người khác. Nhưng với tư
cách là nhà khoa học, chuyên gia, nhà thông thái,… họ khước từ lên
tiếng tán đồng "phán đoán giá trị" này hoặc phán đoán khác. Một sự
thoái vị như thế, trên thực tế, chỉ có nghĩa là tán đồng mãi mãi
hiện trạng, là đưa tay cứu giúp những kẻ đang tìm đủ cách để ngăn
cản mọi nỗ lực thay đổi trật tự xã hội hiện hữu bằng một trật tự mới
tốt đẹp hơn. Chính sự "trung lập đạo đức" này đã khiến hơn một nhà
kinh tế, xã hội, nhân chủng học... tuyên bố rằng, vì là nhà
khoa học, họ không thể phát biểu một ý kiến nào hết về việc các nước
kém mở mang có nên bước vào con đường tăng trưởng kinh tế hay không;
cũng chính nhân danh cùng một thứ "trung lập đạo đức" này mà nhiều
nhà khoa học lỗi lạc đã cống hiến không ít năng lực và thiên tài của
mình vào việc phát minh và hoàn chỉnh loại vũ khí vi khuẩn.
Đến điểm này, người ta có
thể bắt bẻ rằng tôi đang lập luận luẩn quẩn, tiên quyết cho là đúng
chính cái điều cần phải chứng minh, rằng nếu có vấn đề ở đây chính
là vì không ai có thể suy diễn, chỉ bằng sự hiển nhiên và lý luận
không thôi, tính chất tốt hay xấu, lợi hoặc hại của một sự việc nào
đó đối với hạnh phúc của nhân loại. Dù mạnh đến đâu, luận cứ trên
nằm ngoài vấn đề đang bàn cãi. Ai cũng có thể đồng ý rằng, về những
gì tốt hay xấu cho sự tiến bộ của nhân loại, người ta không thể nào
đạt đến một phán đoán có giá trị tuyệt đối cho mọi nơi và mọi
thời. Nhưng có thể nói một phán đoán tuyệt đối và phổ quát như thế
chỉ là vấn đề giả, và nhấn mạnh trên tính thiết yếu của nó chính là
một khía cạnh của hệ tư tưởng phản động. Sự thật hiển nhiên là cái
gì có thể thúc đẩy sự tiến bộ, có cơ may cải thiện kiếp người, những
gì thuận lợi cho số phận con người hoặc ngược lại, khác nhau tùy
từng thời kỳ lịch sử và từng địa điểm trên trái đất. nhưng những vấn
đề mời gọi phát biểu ý kiến không hề thuộc loại trừu tượng,
tư biện về "thiện", "ác" chung chung, mà luôn luôn là các vấn đề
cụ thể, đặt ra trên lịch trình xã hội bởi những căng thẳng và
đối kháng, bởi các tập hợp chóng đổi thay của lịch sử. Cổ kim chưa
thời nào, nơi nào có khả năng, mà cũng không hề có sự bắt buộc, đạt
đến những giải pháp có giá trị tuyệt đối; tuy ở mọi nơi, mọi thời
đều có thách đố sử dụng sự khôn ngoan, kiến thức và kinh nghiệm đã
tích tụ được của nhân loại để tiến đến càng sát càng tốt, một giải
pháp ước chừng như tốt đẹp nhất trong những điều kiện hiện
hữu.
Nếu chúng ta theo gương
kẻ "thoái thác trách nhiệm", những người chủ trương "trung lập đạo
đức" chỉ quan tâm đến phần việc riêng của mình, thì chính chúng ta
sẽ ngăn cản tầng lớp này của xã hội - lớp người có (hay đáng lẽ phải
có) những kiến thức và học thức phong phú đầy đủ nhất, nhiều khả
năng khám phá và hấp thụ kinh nghiệm lịch sử nhất - trong việc cung
cấp cho xã hội một phương hướng nhân bản cùng sự lãnh đạo sáng suốt
có thể thu góp ở mỗi ngã tư của cuộc hành trình lịch sử. Nếu "tất cả
mọi ý kiến có thể phát biểu đều có giá trị không hơn không kém gì ý
kiến của tôi", như gần đây một nhà kinh tế học lỗi lạc đã lưu ý, thì
đâu là sự đóng góp mà các nhà khoa học và người lao động trí thức đủ
loại có ý muốn và có khả năng mang lại cho hạnh phúc xã hội? Trả lời
rằng đấy là sự "biết làm như thế nào" cần thiết để thực hiện mọi mục
tiêu mà xã hội có thể chọn lựa không phải là giải đáp thỏa đáng.
Phải thấy rõ rằng "sự chọn lựa" của xã hội không phát sinh từ phép
lạ: dù ở thời điểm nào, xã hội cũng bị đưa đẩy đến một vài chọn lựa
bởi những quyền lợi có năng lực cám dỗ, dọa dẫm hoặc bắt buộc. Khi
người lao động trí thức từ bỏ việc tìm cách ảnh hưởng lên quyền
quyết định những chọn lựa đó, sự đào nhiệm này không hề để lại
khoảng trống nào trong lãnh vực tạo tác giá trị. Nó chỉ đơn thuần
buông thả công việc cực kỳ quan trọng ấy vào tay bọn lang băm, bịp
bợm và bè lũ, mà dụng tâm có thể là mọi thứ trừ lòng nhân.
Khát khao chân lý ?
Cần nêu ra đây một luận
cứ khác của những người chủ trương "trung lập đạo đức" mạch lạc
nhất. Họ nhận thấy, đôi khi với chút do dự và hổ thẹn nào đó, rằng
nói cho cùng, chưa ai chứng minh được bằng sự hiển nhiên và lý luận
rằng sống nhân đạo có đôi chút giá trị đạo đức nào. Tại sao một số
người lại không cam tâm chịu đói khổ, nếu sự đói khổ của họ giúp kẻ
khác được hưởng thụ giàu sang, tự do và hạnh phúc? Tại sao lại phải
tìm cách cải thiện điều kiện sinh sống của đại chúng thay vì chăm lo
quyền lợi riêng tư? Tại sao lại phải bận tâm chở "sữa nuôi mọi"
[4], khi
sự bận tâm này là đầu mối của mọi lo lắng, khó chịu? Thái độ nhân
đạo phải chăng tự nó chỉ là một "phán đoán giá trị" thiếu nền tảng
luận lý? Cách đây khoảng 30 năm, một lãnh tụ sinh viên quốc xã đã
đặt cho tôi loại câu hỏi trên trong một buổi họp công cộng (về sau,
anh ta trở thành sĩ quan SS nổi tiếng của Gestapo), và câu trả lời
hay nhất mà tôi tìm ra lúc ấy vẫn còn là câu hay nhất đối với tôi
ngày nay: thảo luận về các sự việc liên quan đến con người chỉ có
nghĩa giữa những kẻ có nhân tính; nói chuyện về con người với súc
vật chỉ tổ mất thì giờ.
Đây là điểm trên đó người
trí thức không có quyền thoả hiệp. Bất đồng, tranh luận, và ngay cả
xung đột trầm trọng là điều không thể tránh, và trên thực tế, không
thể không có để xác định nội dung cũng như phương tiện thực hiện
những điều kiện cần thiết cho sức khỏe, sự phát triển và hạnh phúc
của con người. Nhưng sáp nhập vào chủ nghĩa nhân bản, và tôn trọng
nguyên tắc theo đó việc tìm kiếm sự tiến bộ của loài người tự nó
không cần tới bất kỳ một biện minh nào của khoa học hay luận lý phải
là thứ nền tảng có giá trị định đề cho mọi nỗ lực trí thức
xứng đáng; và cá nhân nào không chấp nhận nền tảng đó đều không thể
tự xem hoặc được xem như người trí thức.
Dựa trên những bài viết
của ông, chắc chắn là Charles Percy Snow đã chấp nhận không chút đắn
đo khởi điểm đó; tuy nhiên, dường như ông tin rằng sự dấn thân của
người trí thức có thể tóm thu vào bổn phận nói lên sự thật (ở đây,
xin ghi thêm rằng cũng không có cơ sở hiển nhiên hay lý lẽ nào khiến
sự thật phải được yêu chuộng hơn sự gian trá!). Thật ra, lý do chính
khiến ông khâm phục các nhà khoa học là sự tận tụy với chân lý của
họ. Ông viết: "Họ muốn tìm ra những gì có đó. Không có ham
muốn này, không có khoa học. Đấy là động lực của toàn bộ sinh hoạt
này. Nó bắt buộc nhà khoa học phải tuyệt đối tôn trọng sự thật, từ
đầu đến cuối cuộc nghiên cứu. Nếu anh muốn tìm ra cái gì đang có
đó, anh không được lừa gạt mình hoặc gạt gẫm bất cứ ai khác.
Không được tự dối trá. Ở mức độ sơ đẳng nhất, anh không được giả mạo
trong các cuộc thí nghiệm".
Tuy nhiên, nếu mệnh lệnh trên góp phần
biểu hiện thể thức dấn thân căn bản của người trí thức, nó không thể
bao gồm toàn bộ vấn đề. Thật thế, vấn đề không phải chỉ là nói lên
sự thật hay không, mà còn là cái gì là sự thật trong mỗi
trường hợp nhất định, là nói lên sự thật về cái gì, và không
nói lên về cái gì. Ngay trong lãnh vực khoa học tự nhiên, đây
là những vấn đề quan trọng, và rất nhiều thế lực hiện đang cố gắng
vận chuyển nghị lực và tài năng của các nhà khoa học theo một vài
chiều hướng nào đó, hoặc đang tìm cách ngăn chận và phá hoại những
kết quả họ đã thu hoạch được ở các phương hướng khác. Vấn đề còn
mang một ý nghĩa then chốt khi đề tài nghiên cứu gắn liền với cấu
trúc và tính năng động của xã hội. Sự thật về một sự kiện xã hội có
thể (và chắc chắn sẽ) biến thành điều láo khoét, nếu sự kiện đó bị
tách rời khỏi toàn bộ xã hội, hay biệt lập với quá trình lịch sử mà
nó là thành phần cấu tạo. Như thế, trong lãnh vực này, cái gọi là sự
thật thường được truy tầm và nói lên (một cách an toàn) về những
việc chẳng quan trọng chút nào; sự đeo đuổi và phát biểu thứ sự thật
đó dần dần trở thành một vũ khí tư tưởng mạnh mẽ cho những kẻ bảo vệ
hiện trạng. Ngược lại, nói lên sự thật về những gì quan trọng,
tìm kiếm sự thật về vấn đề toàn bộ, phát hiện ra những nguyên nhân
xã hội, lịch sử, cùng sự thâm nhập vào nhau của các thành phần khác
biệt bên trong cái toàn thể, là một thái độ dễ bị kết án là phản
khoa học và có tính chất tư biện; thái độ đó sẽ bị trừng phạt bằng
sự kỳ thị nghề nghiệp, cô lập hoá hoặc doạ nạt công khai.
Trí thức, người phê phán xã hội
Khao khát nói lên sự thật, vì vậy, chỉ
là một điều kiện để làm người trí thức. Điều kiện khác nữa là
phải can đảm, phải dám suy nghĩ đến cùng, "dám phê phán không xót
thương tất cả những gì hiện hữu, không xót thương ở chỗ sự phê phán
đó không lùi bước trước chính những kết luận của nó, hay trước mọi
đụng chạm dù với bất cứ thứ quyền hành nào" (K. Marx). Như vậy,
người trí thức tự bản chất là kẻ phê phán xã hội, người mà ưu
tư là nhận diện, phân tích sự vật, và bằng cách đó, góp phần vượt
qua mọi trở ngại ngăn cản sự vươn tới một trật tự xã hội tốt đẹp,
nhân đạo và hợp lý hơn. Do đó, anh ta trở thành lương tri của xã hội
và là phát ngôn nhân của những lực lượng tiến bộ mà trong bất kỳ
thời kỳ lịch sử nào xã hội cũng có. Tất nhiên là anh ta sẽ bị giai
cấp lãnh đạo, luôn luôn tìm cách duy trì hiện trạng, xem như phần tử
gây rối, phá hoại, và anh ta cũng sẽ bị ngay chính những người lao
động trí thức làm thuê cho họ cáo buộc như kẻ không tưởng, hoặc –
trong trường hợp tử tế nhất – nhà siêu hình học, và – trong trường
hợp tồi tệ nhất – tên phiến loạn.
Giai cấp lãnh đạo càng phản động, thì
trật tự xã hội mà nó thống trị ngày càng hiển nhiên là đã trở thành
một chướng ngại cho sự giải phóng con người, hệ tư tưởng của nó lại
càng bị chế ngự bởi tính phản trí thức, phi lý và mê tín. Đồng thời,
sự kiện người trí thức phải chịu đựng những áp lực đè nặng trên
mình, để không khuất phục trước ý thức hệ của giai cấp lãnh đạo và
không gục ngã trước tinh thần khuôn phép vừa tiện vừa lợi của người
lao động trí thức, lại càng trở nên cam go, khó khăn. Trong những
điều kiện như vậy, nêu rõ chức năng của người trí thức và nhấn mạnh
trên tính cách dấn thân của họ là điều cực kỳ quan trọng và cấp
thiết. Bởi vì chính trong loại điều kiện như thế mà người trí thức
phải nhận lãnh số phận, cả như đặc quyền lẫn đặc nhiệm, là bảo toàn
truyền thống nhân bản, lý trí và sự tiến bộ - gia sản quý báu nhất
của nhân loại qua suốt toàn bộ quá trình lịch sử.
Người ta nói rằng, đối với tôi, làm
trí thức đồng nghĩa với làm anh hùng. Người ta cũng có thể cho rằng
nhân danh tiến bộ của nhân loại để đòi hỏi con người phải chịu đựng
tất cả mọi áp lực của bao kẻ cố bám víu lấy quyền lợi đã chiếm hữu
được, phải đương đầu với mọi hiểm nguy đang đe dọa hạnh phúc cá nhân
của mình là điều không hợp lý. Tôi nhìn nhận rằng yêu sách
điều đó quả là quá đáng. Cho nên tôi sẽ không làm thế. Nhưng lịch sử
cho chúng ta thấy rằng, ngay trong các thời kỳ đen tối nhất và trong
những điều kiện gian nan, thử thách nhất, nhiều cá nhân đã biết vượt
lên trên quyền lợi riêng tư ích kỷ của mình để đặt chúng dưới quyền
lợi của toàn thể xã hội. Ðiều đó luôn luôn đòi hỏi rất nhiều can
đảm, trong sạch và trí tuệ. Tất cả những gì chúng ta có thể hy vọng
hiện nay là đất nước chúng ta cũng sẽ sản xuất được một số người,
nam cũng như nữ, biết bảo vệ danh dự của người trí thức, chống lại
sự cuồng nộ của những quyền lợi hiện đang ở vào địa vị thống trị, và
những cuộc tấn công dồn dập của chủ nghĩa bất khả tri, chủ nghĩa ngu
dân và tính phi nhân.
CHÚ THÍCH
[*]

[1]
Ở đây, chúng tôi dùng 2 thành ngữ có tính chất đánh giá rõ rệt
trong tiếng Việt; ở bản gốc, tác giả dùng "long-haired
professor"
và "egghead"
(đầu quả trứng = đầu hói). Dù thoạt nhìn chỉ có vẻ mô tả, cả 2 từ
tiếng Anh trên thật ra cũng hàm ý đánh giá, vì đều gợi lên hình
ảnh kẻ đăm chiêu mơ mộng, thiếu liên hệ với người bình dân, không
thực tế, thậm chí thiếu nam tính! Riêng từ "egghead"
đã đạt đến
mức thông dụng tột đỉnh vào cuối những năm 1950, khi được Richard
Nixon dùng để phỉ báng ứng cử viên tổng thống Adlaï Stevenson của
Đảng Dân Chủ Mỹ. Trong thập niên sau, "Egghead"
trở thành tên của nhân vật gian hùng trong bộ phim truyền hình
Batman;với bộmặt tai tái, chiếc đầu hói, bộ quần áo nửa
trắng nửa vàng, Egghead tự xưng là "kẻ phạm tội tinh ranh nhất
thiên hạ", và từ khí giới đến ngôn ngữ sử dụng ("eggs-zactly",
"eggs-cellent") đều gợi nghĩ đến quả trứng. Phạm Trọng Luật.
[2]
Charles Percy Snow (1905-1980): nhà văn và nhà khoa học Anh. Tốt
nghiệp khoa lý hoá tại các đại học Leicester và Cambridge, sau một
thời kỳ làm nghiên cứu khoa học, ông tham gia bộ máy hành chánh
Anh Quốc và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng từ 1940 đến 1966.
Ông là chồng của nhà tiểu thuyết Pamela Hansford Johnson, đồng
thời cũng là nhà văn. Trong lãnh vực này, ông nổi tiếng nhờ loạt
11 quyển tiểu thuyết mang tính chất tự truyện, viết trong suốt 30
năm và được gọi chung là Strangers and Brothers
(1940-1970): mặc dù được xem như có khuynh hướng bàn về quyền lực
hay về quan hệ giữa khoa học với xã hội, loạt truyện xoay quanh
nhân vật chính tên là Lewis Eliot nói đây còn là bức họa sống động
về những thay đổi xã hội ở Anh trong thế kỷ 20. Bên cạnh trường
thiên trên và các tiểu thuyết khác như Death under Sail
(1932), The Search (1934), In Their Wisdom
(1974), A Coat of Varnish (1979), ông còn để lại một
tuyển tập truyện dịch Stories from Modern Russia
(1962), cùng nhiều tác phẩm phê bình, đáng kể nhất là
Trollope: His Life and Art (1975). Như nhà khoa học, tác
phẩm của ông cũng khá đa dạng, bao gồm tập tiểu luận về thiên chức
của nhà khoa học Science and Government (1961), tập
thuyết giảng về lợi và hại của công nghiệp Public Affairs
(1971), với nhiều tập tiểu truyện về các nhà bác học như A
Variety of Men (1967), The Realists (1978),
và The Physicists (1981). Đặc biệt bài thuyết trình
Rede Lecture on The Two Cultures and the Scientific
Revolution (1959) của ông, và sau đó bài The Two
Cultures, And a Second Look (1963), về hố ngăn cách giữa
hai giới văn học và khoa học đã được bàn luận sôi nổi và sâu rộng
trong mọi giới học thuật. Charles P. Snow được Hoàng Gia Anh tấn
phong Hầu Tước năm 1957 và Nam Tước Leicaster năm 1964. Phạm Trọng
Luật.
[3]
Xin xác định để tránh mọi hiểu lầm: người lao động trí thức có thể
(và đôi khi thực sự) là người trí thức, và người trí thức thường
là người lao động trí thức. Tôi nói "thường" vì nhiều công
nhân nhà máy, thợ thủ công hay nông dân cũng có thể (và trong một
số hoàn cảnh lịch sử, điều này đã từng xảy ra) là người trí thức
mà không hề làm một nghề lao động trí thức.
Paul Alexandre Baran.
[4]Trong
bản gốc: "milk of the Hottentots";trong
bản dịch Pháp ngữ"pauvres
petits Chinois".
Từ
"Hottentots"
xuất hiện trong
sách vở của người Âu vào thế kỷ thứ 18 như tiêu chuẩn để chỉ giống
người thấp kém và mọi rợ nhất; trên thực tế, đấy là tên mà giới
thực dân Hà Lan đặt cho một bộ lạc Nam Phi ở giữa Mũi Hảo Vọng và
Namibia, mặc dù tập hợp thổ dân này tự gọi mình là
"khoikhoi"
("chủng tộc tinh khiết").
Ngày nay, Shorter Oxford Dictionary của Anh vẫn định
nghĩa
"Hottentot"
là"kẻ thấp
kém về văn hoá và trí tuệ",
trong khitừ thời New
Deal ở Mỹ, chở"sữa cho dân
Hottentots"
trở thành câu chế giễu quen thuộc của phe đối lập với mọi hình
thức viện trợ nhân đạo của Hoa Kỳ cho các nước kém phát triển |