III. Những nền tảng của kiến-thức
10. Chính-trị, nghệ-thuật
làm-người
Nếu nhân-loại mảy may
còn chút tương-lai hờ, thì sẽ không do chuyện kéo dài quá-khứ kia hay hiện
tại này. Nếu chúng ta định xây dựng thiên niên kỷ thứ ba trên cơ sở đó,
chúng ta sẽ thất bại. Và giá phải trả cho sự thất bại ấy, trả cho sự từ chối
thay đổi xã-hội, là màn đêm. Eric J. Hobsbawm Tự-do, bình-đẳng, đồng-nhất
Aristote đã từng nói : con người là một
con-vật-chính-trị. Ngày nay, người ta vẫn thích trích dẫn ông.
Trong một ý-nghĩa hiện-đại đáng buồn. Con vật đó đã xuống giá thảm hại.
Người ta bàn về nó với cảm-giác kỳ quặc nửa như khâm phục một vận-động viên
nửa như lờ mờ ghê tởm. Ta khâm phục thiên tài mánh khóe, bộ mặt nhập nhằng,
nghệ-thuật tuyệt luân chơi chữ và ăn nói nước đôi, khả-năng quyến rũ bằng
media, nỗi đam-mê, tài chinh phục và ý chí quyết liệt ôm quyền-lực của nó.
Nhưng ta không sao cản được cảm-giác lờ mờ ghê tởm đối với sự vô nghĩa cỏn
con của nó. Câu nói trên đã khơi nhiều suy-luận đáng chú
ý về chính-trị. Con người đúng là con vật phải phục-tùng nhu-cầu và bản-năng
của loài người. Nó mãi mãi là con vật bất kể những nền văn-hoá sẽ phát-triển
ra sao. Tư-tưởng của người Hy-Lạp cổ lớn ở chỗ thẳng thắn công nhận điều
ấy : khi chào đời, con người chưa là người. Nó nên-người bằng cách kế
thừa văn-hoá do tiền nhân để lại trên quả đất này nhờ sự giáo dục mà
người đương thời ban bố cho nó. Mọi nền văn-hoá công nhận sự-thật ấy. Không
nền văn-hoá nào coi thường tầm quan trọng cơ-bản của giáo dục, trước tiên do
gia đình,
sau đó do xã-hội ban bố, trong quá-trình nhân-hoá hay phi-nhân-hoá con
người. Con người đúng là toàn bộ quan-hệ xã-hội của nó. Xuyên qua ngôn-ngữ,
quan-hệ xã-hội ấy lan rộng tới toàn bộ người đời xưa. Nội chuyện nêu danh
Aristote ở đây cũng đủ thấy. Con người nên-người và tiếp tục làm-người
xuyên qua quan-hệ xã-hội của nó. Dựa vào và xuyên qua quan-hệ
xã-hội, nó tái-tạo nhân-loại của quá-khứ, sáng-tạo nhận loại của tương-lai.
Có thể lý do đó khiến Socrate, khi bị ép lựa-chọn giữa lưu vong hay chết,
thà chết còn hơn ra đi. Phải chăng, đối với ông, ra đi không chỉ là chết
trong lòng một tí mà còn hơn là chết vĩnh-viễn ? Rời bỏ thành-quốc, ông sẽ
tan mình cả xác lẫn hồn trong Hư-vô. Nuốt thuốc độc cần
trong lòng cộng đồng, ông chết với tư cách người
và, qua hành-động ấy, tiếp tục sống ở ta. Vì thế
ta còn nhớ cuộc tự-sát của ông : nó tạo ý-nghĩa và giá-trị. Người Hy-lạp cổ khác các dân tộc khác
bởi quan-niệm của họ về quan-hệ xã-hội : đó là quan-hệ giữa những con người
đoàn-kết,
tự-do và bình-đẳng, giữa những « công-dân » của Thành-quốc.
Nói rằng những con người thuộc một cộng đồng đoàn-kết, gắn bó, chung thân
phận quả là nói một ý hai lần. Nhưng đoàn-kết trên cơ sở tự-do và
bình-đẳng là một tính đặc-thù Hy-lạp. Công-dân Hy-lạp tự-do vì họ không
lệ-thuộc người khác về mặt vật-chất để sống : nô-lệ đảm bảo cho họ nhu yếu
phẩm để sống và thời-gian rảnh để lo việc của Thành-quốc. Họ không
bình-đẳng trên cơ sở sức lực, tiền của, tài năng. Họ bình-đẳng
với nhau trong tư cách người tự-do. Đây là dân tộc đầu tiên trong
lịch-sử phát minh thể chế chính-trị dân-chủ trên nền tảng
kinh-tế nô-lệ. Chưa ai giải thích vì sao chuyện ấy không những có thể hình
dung mà còn có thể thực-hiện được. Một bài thơ ngông cuồng lộng lẫy trong
quá-trình nhân-hoá của các nền văn-minh. Sự bình-đẳng xã-hội của người Hy-lạp
cổ ăn khớp với sự đồng-nhất về nhân-tính của họ. Nói rằng con người là toàn
bộ quan-hệ xã-hội của nó cũng có nghĩa là nói « nó bằng chính nó » trong
chừng mực nó là cả loài người, là người và, vì thế, mọi người « bằng nó »,
rằng họ là người như nhau. Chính vì thế người Hy-lạp cổ coi nô-lệ như một
loại thực-thể khác biệt, không là người như họ, công-dân của
Thành-Quốc. Khả-năng loại trừ người khác khỏi nhân-giới vạch giới hạn của
thế-giới-quan của họ. Flaubert đã minh hoạ điều ấy ở con người, một cách
đáng phục, trong truyện Salammbô. Amilcar Barca định dùng con một người
nô-lệ thế mạng cho con trai mình để tế thần Moloch. Người bố già quỳ xuống
ôm đầu gối ông, xin ông tha mạng đứa trẻ. Amilcar hết sức ngạc nhiên :
làm sao nô-lệ có thể có tình cảm hao hao giống như tình cảm của chính-mình ?
Trong mắt Amilcar, người nô-lệ già, tuy đã từng nuôi nấng chàng, chưa bao
giờ là người cả. Ý-niệm bình-đẳng giữa người với người
có nội-dung lịch-sử cụ-thể gắn liền với kích-thước có-thực của sự đoàn-kết
giữa họ. Nó từ từ phát-triển, từ kích-thước giới hạn của những bày đàn
nguyên thủy tới cả nhân-loại. Quan-hệ giữa người với người thiết lập,
phát-triển tới đâu, hành-động và văn-hoá của họ xâm nhập vào nhau đến đâu,
nội-dung ấy lan rộng đến đó. Mới đây, nó đã đạt một nội-dung phổ-cập. Như
thế, sự bình-đẳng đó không có tính tự-nhiên, nó có tính xã-hội.
Nó chỉ có thể có được nhân danh sự đồng-nhất về nhân-tính của con người mà
ta gọi là đoàn-kết. Vì sự đồng-nhất nhân-tính kia tự-hiện-thực dưới
hình-thái của một đám người cá-biệt mà ý-niệm bình-đẳng hình
thành : một quan-hệ bình-đẳng đòi hỏi ít nhất hai tác nhân. Nói rằng
mọi con người đều bình-đẳng trong tư cách người, có nghĩa là thừa
nhận tính ba-chiều-kích của con người. Với tư cách vật-thể, nó chỉ có một và
là độc-nhất trong không-thời-gian. Với tư cách sinh-thể, nó có thể tạng và
lịch-sử riêng không thể quy-nạp về bất cứ sinh-thể nào khác. Với tư cách
tinh-thần, nó là toàn bộ nhân-loại và, trên danh nghĩa đó, nó bình-đẳng
với mọi người : « một con người
trọn vẹn, cấu tạo bằng cả nhân-loại, ngang giá với mọi người và bất cứ ai
cũng ngang giá với mình. »
« Một người, một phiếu ».
Một người bằng giá-trị một người. Giá-trị đó không dính dáng tới
con-người-vật-chất hay con-người-sinh-vật. Nó chỉ có thể ám chỉ
con-người-tinh-thần, con-người-văn-hoá, con người « cấu tạo bằng cả
nhân-loại ». Nhưng con người ấy chỉ hiện-thực dưới hình-thái một
thực-thể cá-biệt. Tùy ý, ta có thể ứng-xử với nó như với vật-thể, sinh-thể,
trí-thể, một cách riêng biệt hay như một tổng-thể. Những khả-năng đó đều
hiện-thực. Chúng quy định cái khung của những quan-hệ giữa người với người.
Khi ta quy con người về vật-thể mà nó là, ta gán cho từ « bình-đẳng »
một nội-dung đơn thuần lượng, gán cho nó ý-nghĩa của một quan-hệ bằng-nhau
vật-lý.
Quả nhiên, trong nền văn-hoá của ta, người ta ứng-xử như thế khi người ta
nói rằng con người này nặng
một tỷ đôla hay trị giá 1500 Euro một tháng. Đối với tuyệt đại
đa số người, sự quy-nạp bản-thể ấy tự-hiện-thực mỗi ngày trong thị-trường
cơ-bản nhất của nền văn-minh dân-chủ thị-trường, thị-trường lao-động,
thị-trường nhân công. Tại Hà Nội có một thị-trường kiểu ấy mà người ta đặt
tên một cách hiện-thực khủng khiếp : chợ cơ bắp hay chợ người.
Khi người ta ứng-xử với con người như với
con thú mà nó là, người ta đề nghị thay quan-hệ bình-đẳng bằng quan-hệ
công-bằng :
do thể tạng và lịch-sử cá-nhân của nó, nó ít nhiều khỏe, khéo, thông minh
hơn người khác và vì thế xứng đáng nhận bao nhiêu hay bao nhiêu đồng lương.
Nhưng lấy đơn vị nào để đo lường sự xứng đáng kia ? Vòng lá
thắng phù du của vận-động viên điền kinh Hy-lạp hay một triệu đôla cho người
vô địch quần vợt tại Flushing Meadow ? Người thua nhận 200.000 đôla ít hơn.
Số tiền ấy đâu đo đếm được độ chênh lệch về tài năng của nó so
với người thắng trận. Thắng và thua đều tuyệt-đối. Đôi khi chỉ tùy thuộc một
sự-kiện mong manh, một may rủi, thậm chí một sai-lầm của trọng tài. Đó là
một giá-trị trong một trò giải trí xã-hội. Những đối thủ cảm-nhận rõ điều
ấy : họ không khóc vì bắt hụt một số tiền có thể kiếm thêm mà vì không nắm
được cái cúp để dương lên trước mắt quần hào.
Tìm cách thay thế lý-tưởng bình-đẳng giữa người bằng ảo ảnh của sự « công-bằng »
đối với thú-vật trong thế-giới này, nơi những quan-hệ cơ-bản nhất
giữa người với người, những quan-hệ đảm bảo sự tồn-tại của xã-hội và của
những cá-nhân, bắt buộc phải quy thành một quan-hệ về lượng, một quan-hệ
giữa những vật-thể, là chuyện hão. Chỉ mới bước ra khỏi bài diễn thuyết, chỉ
mới trở về thế-giới thực, ta bắt buộc phải nói một con người trị giá
bao nhiêu. Tất cả ? Chẳng gì cả ? Bằng một cái gì ? Một cuộc đời
khác ? Một người khác ? Một đôla ! Con người bình-đẳng với nhau trong tư
cách người. Đó là cách nói dung tục, cách nói đúng ! Chuyên-gia biện-chứng
am hiểu truyền thống kinh-viện, si mê tiếng Pháp, sẽ viết : thể đồng-nhất
của loài người tự-hiện-thực xuyên qua sự khác biệt giữa họ và tự-giải-quyết
trong sự công nhận sự bình-đẳng với nhau.
Thật là rắc rối, uyên bác, bí hiểm, hơi buồn cười, bàn dân hoàn toàn không
thể hiểu được. Tuy thế, ta không nên cười những lời hư ảo đó. Nó không chỉ
đơn thuần là một trò chơi chữ nghe rất kêu nhưng bất-lực, một thuật đau đớn
để luyện ảo
khái-niệm. Đó là cách trình bày vô-xác, tuyệt vọng của những người của
Thực-thể và của chữ nghĩa,
để miêu tả một hiện-thực ta có thể chứng kiến mỗi ngày trong quá-trình
nên-người của một đứa trẻ. Ta nên chú ý tới tính đặc-thù của tự-do của
người Hy-lạp. Đó là tự-do của con người trong Thành-quốc. Nó không thể tách
rời sự đoàn-kết giữa họ, nó hình-thành trên cơ sở sự bình-đẳng giữa
họ. Nó biểu-hiện sự đồng-nhất nhân-tính của họ. Những nhà cách-mạng Pháp năm
1789 không nhầm lẫn trong hoài bão của họ khi họ tạo ra khẩu hiệu của nền
Cộng hoà : Tự-do, Bình-đẳng, Trong-tình-anh-em. Con người trở
nên tự-do và bình-đẳng tùy theo mức độ họ trở thành anh em, gắn
bó với nhau trong quá-trình nên-người, làm-người. Gắn bó thì họ đã
gắn bó với nhau rồi, nhưng trong quá-khứ, trong bản-chất, trong khả-năng,
với tư cách thực-thể văn-hoá. Nhưng nếu họ muốn tiếp tục làm-người, họ phải
quyết định tiếp tục trở-thành-người, thực-hiện điều ấy trong cuộc sống hiện
tại bằng cách hành-động cùng với người khác vào thế-giới chung, bằng cách
ứng-xử như một con-vật-chính-trị, bằng hành-động chính-trị.
Thế gọi là tự-do. Trong bối-cảnh, đương nhiên. Nhưng khá hơn, trong
nhân-tính. Vì nếu ý-thức của con người luôn luôn là ý-thức về một điều gì,
nó chỉ như thế trong thuyết-trình.
Nhờ người đời xưa, thuyết-trình ấy có thể có được để thuyết phục người đời
nay và thử quyến rũ một vài người đời sau. Một khi con người chỉ có thể
áp-bức con người thôi thì con người chỉ có thể trở-thành-người tự-do đối với
những người tự-do và bình-đẳng với mình. Tự-do của ta đòi hỏi mọi
người phải tự-do và bình-đẳng. Trong nghĩa đó, nó là, nó muốn
nhân-tính. Ngày nào, dưới hình-thái này hay hình-thái kia, vẫn còn « chủ »
và « nô-lệ » trong thế-giới này, các ông « chủ » dù áp đặt được quyền-lực
của họ bằng tên lửa hay Thị-trường, thì sự-thật của họ vẫn chỉ có thể đọc
được trong ánh mắt của những người « nô-lệ » họ. Họ không có gương nào khác
để nhận diện chính-mình, căm thù hay yêu chính-mình. Tiếc thay, có những mối
tình còn kinh khủng hơn tất cả những mối thù trên quả đất này. Hai bộ mặt của tính chính-đáng của quyền-lực
chính-trị
Một đặc điểm nữa trong tư-duy chính-trị của
người Hy-lạp cổ là ý-chí hiểu bản-chất của Nhà-nước, của chính-quyền,
là mang lại cho nó một tính chính-đáng hợp-lý. Ý-chí ấy gắn liền với
quan-điểm của họ về con người như một sinh-vật chính-trị. Nếu
con người chỉ là con thú, sức-mạnh và mưu mẹo đủ để khiến quyền-lực của nó
trở thành chính-đáng. Loại quyền-lực ấy không có tính chính-trị.
Vì nó là một con-vật-chính-trị, bản-chất chính-trị của nó
không tùy thuộc vật-tính hay sinh-tính của nó và do đó không tùy thuộc những
quan-hệ vật-tính hay sinh-tính mà nó có với thế-giới, bản-chất ấy tùy thuộc
thực-thể-ở-Thành-quốc của nó, tùy thuộc những quan-hệ văn-hoá
mà những đồng-công-dân của nó sáng-tạo ra để tạo giá-trị cho hành-động chung
của họ vào thế-giới. Trong những hình-thái xã-hội ở đó con
người không nhìn nhận nhau như tự-do và bình-đẳng, họ phải tìm sự
chính-đáng của quyền-lực ngoài bản thân họ, ngoài quan-hệ giữa họ, trong
tôn-giáo hay thú-giáo. Những thượng-đế, thần-linh, mệnh trời hay
những quan-hệ huyết-thống, bộ-lạc, bộ-tộc, gia-tộc... làm nền tảng cho
quyền-lực. Nhưng một khi họ nhìn nhận nhau như người tự-do và bình-đẳng,
quyền-lực điều hành quan-hệ giữa họ chỉ có thể do họ tạo ra, do trí-thể mà
có. Hành-động chung tạo ra nhu-cầu phối hợp hành-động của những cá-nhân
để đảm bảo thực-hiện mục đích chung. Nhu-cầu ấy có thể khai sinh
một quyền-lực. Điều kiện đó cần-thiết, không đầy đủ. Khi hành-động chung
giới hạn trong không-gian, thời-gian hay độ phức tạp, những cá-nhân có thể
phối hợp hành-động mà không cần đến môi-giới của một cơ quan độc-lập. Ta
chứng kiến điều ấy trong những cộng đồng người chưa phát-triển lắm nơi đó
hành-động chung không khai sinh bất cứ một hình-thái quyền-lực đặc biệt nào,
trong nhiều trò giải trí xã-hội không cần trọng tài. Khi hành-động chung đạt
quy mô nào đó, trở thành phức tạp, nó tạo nhu-cầu phối hợp thường xuyên
những hành-động cá-nhân. Phải có người tập trung đảm bảo sự phối hợp đó.
Nhu-cầu phối hợp hành-động biến thành một chức-năng độc-lập tập trung ở một
con người là cơ sở quyền-lực của nó. Người được trao chức-năng đó nhận một
quyền-lực tinh-thần và phương-tiện cưỡng bức đối với những đồng-công-dân của
nó. Người sử dụng quyền-lực đó tìm thấy tính chính-đáng của mình trong
sự thừa nhận khả-năng gánh vác vài trò ấy để thực-hiện những mục đích chung.
Như thế, tính chính-đáng của nó dựa lên hai đòi hỏi : tính đại biểu và
hiệu quả. Hai đòi hỏi đó là nền tảng của tính chính-đáng
chính-trị. Sự chính-đáng đó chấm dứt khi mục đích đã
đạt được. Nó cũng chấm dứt khi người được trao
quyền-lực mất tín nhiệm của cộng đồng hay khi nó chứng tỏ không có khả-năng
thực-hiện nhiệm vụ nó được trao. Điều đó, cuối cùng luôn luôn tước bỏ mọi
tính chính-đáng của nó. Đó là nội-dung cơ-bản của cuộc khủng hoảng văn-minh
ta đang sống. Khi ông François Mitterrand thản nhiên tuyên bố rằng trong vấn
đề chống nạn thất nghiệp, ông đã làm mọi chuyện, không có gì
thành công, không thể làm gì khác ngoài chịu đựng, cam tâm, ông công nhận
ông không có khả-năng thực-hiện nhiệm vụ mà người ta đã trao cho ông. Nếu
thế, ông còn đại diện ai để làm gì ? Ông chỉ còn đại diện sự bất-lực của
người Pháp khi họ muốn xây dựng một xã-hội trong đó họ cảm-thấy họ được làm
người một cách trọn vẹn. Sự chính-đáng của ông quy về (điều không ai uỷ
quyền cho ông cả) sự phục-tùng những « thị-trường tài-chính », những
« quy-luật thị-trường », những uy quyền không có gì là tự-nhiên và không do
ai bầu ra cả. Thế mà chính chúng vạch ra ranh giới của cái mà người ta gọi
là sự-khả-thi, chứ không phải khoa-học hay những giới hạn sinh-tính của con
người. Phục-tùng chúng nghĩa là tiêu diệt chính-trị khỏi không-gian công
cộng, vứt bỏ mọi tính chính-đáng của hành-động chính-trị. Khi tính
« chính-đáng » về quyền sở-hữu của vài đứa trên phương-tiện-sản-xuất do
người khác tạo ra tiêu diệt khả-năng hành-động của tất cả người khác, nhốt
mọi người vào sự bất-lực, cam chịu, phục-tùng, nó tiêu diệt tận gốc
ý-niệm chính-trị, biến tính đại biểu nhân dân thành tuồng hát tinh
khiết, thành kịch câm. Không nên mất thời giờ lên án các media. Chúng
không trực tiếp trách-nhiệm điều ấy. Cơ-bản, chúng dựa hơi và khuếch đại màn
hài kịch. Chúng chỉ là những đứa nịnh thần phi thường : chúng đúc nỗi
bất-lực của ta thành hình ảnh, vẽ một vẻ mặt cho tính phi-nhân quá hiển
nhiên của ta. Qua chúng, chính-trị-gia trở thành lá nho mà nó là, để che dấu
sự bất-lực của con người trong một thời đại, khi nó muốn quyết định
tương-lai của nó. Chính-trị-gia đó là hình ảnh trung thực của chính ta, một
lớp phấn son sặc sỡ được tô vẽ với sự từ bỏ chính-mình, sự lừa gạt, sự phét
lác. Nó là cầu vồng day dứt tiết ra từ sự tan rã của một nền văn-minh. Nó
không là một con-vật-chính-trị nữa. Nó đơn giản là một con vật, con vật huy
hoàng nhất trong muôn ngàn thú-vật, con tắc kè hoa, thể-hiện qua một hay
nhiều người, nếu cần qua toàn bộ giới chính-khách, con vật có lớp da đượm
màu sắc bạo liệt hay run rẩy của Thị-trường huyền-bí, mà tâm-hồn thu gọn
trong màu da, thực-thể tưởng rằng có thể mua hồn mình với giá bán bộ da của
mình. Điều bất-khả-thi không thuộc nhân-giới
Chúng ta, người Pháp, yêu chuộng những câu
bỏ nhỏ, những cách nói khéo, dù chẳng còn ai điên tới mức thèm đùa một
câu duyên dáng vì một chính nghĩa đẹp, rồi chết.
Đã bao lần ta miên man trước khẳng-định sâu sắc đến chóng mặt sau :
chính-trị là nghệ-thuật của sự-khả-thi. Nâng chính-trị thành nghệ-thuật, rồi
tức khắc giới hạn nó ở mức khả-thi
để cho phép và biện minh một cách ít tốn kém cả tiền lẫn nước bọt cho đủ
loại chính-trị, lộn vòng nhảy nhót như thế quả là tuyệt vời ! Thú vui tinh
khiết chơi ngôn-từ riết cũng có khả-năng che dấu con người hiện-thực. Khi người ta nêu chính-trị như nghệ-thuật
của sự-khả-thi, một cách rất uyên bác, người ta mời mọc ta đừng rơi vào
luận-điểm mị dân, giữ tinh-thần trách-nhiệm. Phục-tùng sự-khả-thi
là có tinh-thần trách-nhiệm. Không ai có quyền buộc ai làm chuyện
bất-khả-thi ! Như thế, ai khôn ngoan cứ hứa hẹn
mọi điều bất-khả-thi để hốt phiếu và, vừa được bầu, phục-tùng ngay những
điều khả-thi. Làm như thế, họ nói với ta, là ứng-xử với phong cách của một
thủ lĩnh có tầm cỡ Nhà-nước. Khinh bỉ cử tri một cách khốn nạn đến thế là
cùng ! Con người không điên tới mức như người ta
xuyên tạc. Họ có thể điên thật trong đời sống tinh-thần, thơ văn, nghệ-thuật
của họ, những lĩnh-vực ở đó cái gì cũng khả-thi, hay trong sự tuyệt vọng khi
không còn gì có khả-năng cấm họ làm bất cứ gì. Ngoài ra họ rất thực tế.
Nhưng ta cứ thử chơi trò chơi này một cách lương thiện. Nghệ-thuật của
sự-khả-thi ? Đồng ý. Nhưng khả-thi trong lĩnh-vực nào ? Trong quan-hệ giữa
người với vật-chất ? Những quan-hệ đó tùy thuộc khoa-học và cộng nghệ, không
tùy thuộc chính-trị ngay cả dưới dạng nghệ-thuật. Hiện nay, ta có thể, nội
vài giây, xoá bỏ Paris khỏi mặt đất, nhưng ta chưa thể dạo một vòng trên
hành tinh Vệ Nữ rồi về nhà nội trong một tiếng đồng hồ hỏa tiễn. Hiện nay ta
chưa thống-nhất được kiến-thức của ta về bốn lực vật-lý điều hành sự
vận-động của vũ trụ. Để làm những chuyện ấy, ta nên kiên nhẫn tin tưởng vào
những nhà khoa-học. Ta chẳng nên chờ đợi bất cứ điều gì ở những
chính-trị-gia. Trong quan-hệ giữa con người với sự-sống ?
Một phần đã rơi vào lĩnh-vực khoa-học. Người ta đã biết làm tuyệt sinh sản
những hạt giống,
tạo những cây với hệ gien bị thay đổi, những đứa trẻ thụ thai trong
ống nghiệm, người ta đã biết sao chép thú-vật và con người.
Phần còn lại, điều khả-thi giới hạn trong những bó buộc sinh-học riêng của
từng loài sinh-vật. Ta có thể ăn khác đi và ngon hơn, ta không thể vĩnh-viễn
nhịn ăn. Vậy, chỉ còn lĩnh vưc quan-hệ giữa người với
người. Nhưng đó lại là lĩnh-vực duy nhất mà mọi điều đều
khả-thi. Thiện nhất cũng như ác nhất. Điều chắc chắn cũng như điều không thể
hình dung được. Thế kỷ 20 chứng minh quá rõ điều ấy với những cuộc sát sinh
vĩ đại, Hiroshima và Nagasaki, những chủ-nghĩa phátxít, thực dân, chiến
tranh đế quốc, cuồng tín tôn-giáo hay ý-thức-hệ đủ loại, những cuộc thanh
lọc chủng tộc, đào thải con người khỏi xã-hội, sự bành trướng của chủ-nghĩa
kỳ thị chủng tộc trong xã-hội của ta, chiến tranh kinh-tế đương đại,
hiện-tượng buôn bán đàn bà, bóc lột trẻ con... và Gandhi. Nếu tất cả
đều có thể, điều tệ nhất không đương nhiên. Quá-trình nhân-hoá hay
phi-nhân-hoá con người không có tiền-định. Trong nghĩa đó, chính-trị
chính là nghệ-thuật thực-hiện sự bất-khả-thi. Người Hy-lạp cổ chứng
minh điều ấy khi họ sáng-tạo thể chế dân-chủ trên cơ sở kinh-tế nô-lệ, điều
không thể tưởng tượng và không ai tưởng tưọng ra ở thời đại họ. Sự
bất-khả-thi không thuộc thế-giới của người Hy-lạp. Sự bất-khả-thi
không thuộc nhân-giới. Vì con người tự-do. Chính-trị, quan-niệm như nghệ-thuật của
sự-khả-thi mơ hồ mà người ta đã đặt và áp đặt,
tất-yếu dẫn tới sự cam phận của những công-dân, sự vô liêm sỉ của
chính-khách. Do đó họ chẳng có ý-nghĩa, giá-trị gì cả. Do đó người đời ngày
càng dửng dưng đối với chuyện công, ngày càng ghê tởm chính-trị và
chính-trị-gia : đó chỉ là những bức ảnh phản-chiếu sự thoái hoá chết người
không thể chấp nhận được của chính họ. Là người sử dụng tài tình nghệ-thuật
chính-trị ấy, ông Mitterrand chắc chắn sẽ để lại Đại Khải Hoàn Môn, Kim tự
tháp ở Louvre và Thư viện mang tên ông trên nhựa đường thành phố Paris. Còn
lại, ông chỉ thành công trong chuyện an ủi người Pháp về sự bất-lực của họ,
ông đã giúp họ nuốt chửng giấc mộng « đổi đời », đổi xã-hội. Một cách rất
« nghệ-thuật » ông đã giúp họ học phục-tùng (một cách kiêu hãnh, nghĩa là
qua ngôn-từ phiếm)
hiệu lệnh của một thế-giới do người khác quan-niệm và áp đặt. Dường như
những kẻ khốn nạn ấy không có nhu-cầu nhớ-lại lắm. Ông rất ít khả-năng lưu
lại kỷ-niệm lớn trong giấc mộng làm-người của ta. Trong lĩnh vưc quan-hệ giữa người với người,
mọi chuyện đều tùy thuộc con người và chỉ tùy thuộc nó thôi. Điều đó không
có nghĩa là nó có thể làm bất cứ gì, bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, bất cứ
thế nào, trong mọi lĩnh-vực. Điều nó có thể làm, cách thực-hiện, thời điểm
thuận lợi nhất để thực-hiện điều ấy trong quan-hệ của nó với vật-giới hay
sinh-giới, đều bị giới hạn khắt khe bởi kiến-thức hay cơ cấu sinh-tính của
nó. Nhưng, trên cơ sở đó, điều ta muốn làm đối với chính ta, đối với quan-hệ
giữa ta với nhau, chỉ tùy thuộc ta. Ta muốn chung sống trong thế-giới chung
như thế nào ? Tùy quyết định ấy, ta sẽ sử dụng hay không sử dụng kiến-thức
và phương-tiện mà loài người đã tích lũy cho tới ngày nay. Ta có thể cho
phép đứa trẻ sinh ra ngoài hôn thú hưởng hay không những quyền lợi của đứa
trẻ do một cặp có hôn thú sinh ra. Ta có thể cho phép một người ném bom hạt
nhân trên đầu người khác hay cấm đoán điều ấy. Ta có thể lựa-chọn sản-xuất
vũ khí hay cung cấp cho cả nhân-loại cơm áo và học hành. Ta có thể lựa-chọn
giữa đánh thuế lợi nhuận tài-chính hay lương lao-động, tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp
hay cải thiện đời sống của các gia đình, theo những tỉ lệ khác nhau... Khi
ta lựa-chọn một hình-thái xã-hội, ta lựa-chọn thế-giới trong đó ta thèm
sống, vì nó ta dám đấu tranh và đồng thời lựa-chọn ta nên làm gì với gia tài
nhân-loại đã qua để lại cho ta. Trong sự lựa-chọn đó, không có gì
bất-khả-thi cả. Sự lựa-chọn chung đó quyết định ranh giới của
chính-trị, ranh giới của hành-động có ý-thức, có sự ưng thuận của con người.
Trong tư cách thực-thể văn-hoá, ta bị giới hạn ở đó.
Trong khuôn khổ những giới hạn đó, không có giới hạn nào khác ngoài giới hạn
do khoa-học và sự-sống ràng buộc hành-động của ta. Trong chừng mức con người
có khả-năng sáng-tạo, có khả-năng nghệ-thuật, chính-trị không là nghệ-thuật
của sự-khả-thi. Nó là nghệ-thuật sáng-tạo, trong những hoàn cảnh lịch-sử
nhất định, những hình-thái quan-hệ mới giữa người với người cho phép mọi
người sống một cách nhân-đạo, cho phép những kẻ đang hay sẽ chào đời
học-làm-người. Đó là nghệ-thuật nhân-hoá thế-giới, nghệ-thuật
làm-người. Con người là một con-vật-chính-trị vì nó là
một thực-thể-tự-do, một thực-thể-xã-hội, một con vật văn-hoá. Hiện nay thiên hạ bàn liên miên về nhu-cầu
đặt lại nền tảng cho chính-trị. Mọi người đều cảm-nhận lờ mờ là phải trả lại
công-dân vai trò của nó, phải cho nó quyền tham dự đầy đủ vào hành-động
chính-trị. Nó phải trở thành lại tác nhân có ý-thức và có hiệu-lực
của tương-lai của chính nó trong một dự-kiến về tương-lai trong đó mọi
người, với tư cách là thành viên của Thành-quốc, có đầy đủ chân đứng của
mình. Như thế là công nhận rằng ta chỉ có thể đặt lại nền tảng của chính-trị
trên văn-hoá, toàn bộ quan-hệ với thế-giới mà con người
tái-sinh, tái-tạo, sáng-tạo hàng ngày xuyên qua quan-hệ chung của họ với
thế-giới này. Nhưng chính văn-hoá này, văn-hoá của ta, đã đưa nền
văn-minh của ta vào ngõ cụt hiện nay. Ta không thể tạo lại một nền tảng cho
chính-trị mà không tạo lại nền tảng văn-hoá của ta, không cách-mạng hoá quan
điểm của ta về những quan-hệ giữa con người với vật-chất, sự-sống, tha-nhân
và chính-mình. Những nhà khoa-học lo hai chuyện đầu rất hữu hiệu. Còn chuyện
thứ ba. Chính trong lĩnh-vực này thì mọi chuyện mới khả-thi.
Chỉ trong lĩnh-vực này ta mới có thể, cùng nhau hay mạnh ai nấy làm, quyết
định ta sẽ dùng vào việc gì những kiến-thức, của cải do lao-động và trí-tuệ
của người đời xưa đã tích lũy, những ý-tưởng của người đời xưa, đời nay và,
trong chừng mực nào đó, của người đời sau. Dùng để phục vụ nhân-loại trong
quá-trình nhân-hoá của nó hay để tăng lợi nhuận trước mắt của một thiểu số,
tăng sự giàu có của chúng ? Một cuộc động não triết-học rất đáng làm, rất
cần-thiết. Chỉ nó mới có khả-năng tạo lại nền móng cho
công-ước xã-hội
bằng cách đào sâu, cải tiến những giá-trị cũ của nền văn-minh của ta,
sáng-tạo những giá-trị mới. Nó chỉ có khả-năng thành công nếu nó kéo theo nó
đa số công-dân trong xã-hội. Trong quá-trình này, trí thức, chủ và nô-lệ
thực thụ của ngôn-ngữ, giữ một vai trò cơ-bản, chịu một trách-nhiệm không
thể trốn tranh.
|