Nền khoa học Australia - Một kim tự tháp vững chắc!

Vietsciences-  Phạm Việt Hưng        14/04/2011

 

Những bài cùng tác giả

Năm 2010, nền khoa học và giáo dục Việt Nam đã trải qua một “cơn địa chấn” của niềm xúc động và háo hức do “sự kiện Ngô Bảo Châu” gây ra. Ai cũng phấn khởi, tự hào, nhưng những người sâu sắc tự hỏi: Chúng ta tự hào vì cái gì?

PGS-TSKH Phùng Hồ Hải, trưởng phòng Đại số thuộc Viện Toán học Việt Nam, đã trả lời câu hỏi này trên Diễn đàn các nhà báo môi trường Việt Nam[1] ngày 30/08/2010:

Tôi không nghĩ Giải Fields là tấm gương phản ánh sức mạnh nền toán học của một quốc gia”. Theo ông, “Sức mạnh nền toán học nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung, kể cả kinh tế và xã hội, được phản ánh qua rất nhiều tham số chứ không đơn thuần giải thưởng”. Ông nói tiếp: “Đấy là niềm tự hào về tiềm năng của người Việt. Không phải là tự hào về nền giáo dục của chúng ta, mà là tự hào về tiềm năng tư duy của con người chúng ta”, rồi ông quả quyết: “Một nhà khoa học công tác ở Việt Nam, làm việc ở Việt Nam, tôi không xác định được là đến bao giờ mới có vinh dự như anh Châu hôm nay. Anh Châu, nếu làm việc trong môi trường thuần túy Việt Nam, tôi khẳng định, không thể đoạt được giải thưởng Fields”. Khẳng định ấy dựa trên nguyên lý cốt lõi của giáo dục: “Không thầy đố mày làm nên”.

Chừng ấy vẫn chưa đủ, bởi “một con chim én chẳng làm nên mùa xuân”. Muốn có những thành tựu lớn của khoa học thì cần phải có “cả một cộng đồng để cộng tác, cần một môi trường khoa học để tạo nên một nền tảng kiến thức dẫn đến một tư duy mới”, ông Phùng Hồ Hải nhấn mạnh.

Ông ví “một nền khoa học giống như một kim tự tháp, chân đế càng rộng, đỉnh càng cao”, rồi bất ngờ đi đến một kết luận tưởng như bình thường nhưng lại mang tính nền tảng: “… để có nhà khoa học xuất chúng, cần có nhiều nhà khoa học bình thường”. Nói cách khác, cần có một xã hội trí thức để tạo ra một tầng lớp tinh hoa (elite)! Ông lập luận: “Không thể xây dựng một tòa nhà cao vút mà chân đế lại bé tí”, và do đó, muốn có một kim tự tháp khoa học vững chắc, phải “sớm tạo ra một môi trường khoa học đủ mạnh để lôi kéo số đông khoa học gia”.

Môi trường ấy là gì, nếu không phải là hệ thống đại học và các viện nghiên cứu đủ mạnh, dựa trên nền tảng của một nền giáo dục phát triển?

Nhưng làm thế nào để tạo ra môi trường đó?

Trong khi tìm kiếm một câu trả lời cho Việt Nam, hãy thử tìm hiểu xem điều gì đã làm cho một quốc gia như Australia, với một lịch sử phát triển ngắn ngủi và dân số ít ỏi, đã có thể xây dựng nên một kim tự tháp khoa học cao chót vót với chân đế vững chắc.

 

1. Một kim tự tháp vững chắc:

 

Với một dân số vẻn vẹn chỉ có 20 triệu người, Australia thực sự đáng kính nể vì đã “sản xuất” ra một đội ngũ hùng hậu các trí thức hàng đầu thế giới, với 10 nhân vật đoạt Giải Nobel và 1 nhân vật đoạt Giải Fields:

1.       Elizabeth H. Blackburn, Nobel Y học năm 2009

2.       Barry Marshall, Nobel Y học năm 2005

3.       J. Robin Warren, Nobel Y học năm 2005

4.       Peter C. Doherty, Nobel Y học năm 1996

5.       John Warcup Cornforth, Nobel Hoá học năm 1975

6.       Patrick White, Nobel Văn học 1973

7.       John Carew Eccles, Nobel Y học năm 1963

8.       Sir Frank Macfarlane Burnet, Nobel Y học năm 1960

9.       Sir Howard Florey, Nobel Y học năm 1945

10.     William Lawrence Bragg, Nobel Vật lý năm 1915, đến nay vẫn giữ kỷ lục người trẻ nhất đoạt Giải Nobel.

11.    Terence Tao (Đào Triết Hiên), thần đồng toán học, đoạt Giải Fields năm 2006, người trẻ nhất đoạt Giải Fields, được mệnh danh là “Mozart của toán học” – danh hiệu cao quý trước đây chỉ dành riêng cho nhà toán học vĩ đại Henri Poincaré.

Nhưng như PGS Phùng Hồ Hải đã nói, không thể đánh giá tiềm lực khoa học và giáo dục của một quốc gia đơn thuần qua số giải thưởng. Vậy Úc có thực sự là một cường quốc khoa học và giáo dục hay không?

Xin trả lời ngay: Bên cạnh những ngôi sao sáng rực rỡ – các nhà khoa học đoạt Giải Nobel và Giải Fields – bầu trời khoa học Úc còn có rất nhiều ngôi sao sáng khác, tạo nên một môi trường khoa học hùng mạnh. Môi trường này nẩy nở từ một nền giáo dục tiên tiến – cái nôi đào tạo ra một lực lượng trí thức thành thục về chuyên môn, vững vàng về văn hoá, làm nòng cốt xây dựng Australia thành một cường quốc kinh tế, khoa học và công nghệ, đủ sức cạnh tranh với các quốc gia hàng đầu trên thế giới.

Nhờ đó mà Úc đã đứng thứ 8 trong bảng xếp hạng năm 2009 của Ngân hàng Thế giới (World Bank) về Tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người (GDP per capita), sau Luxembourg, Ả-rập thống nhất, Na-uy, Singapore, Mỹ, Ai-len, Hà-Lan, và đứng trước một loạt quốc gia phát triển khác như Áo, Canada, Thụy-điển, Ireland, Đan Mạch, Anh, Đức, Bỉ, Pháp, Phần-lan, Tây-ban-nha, Nhật, Ý, … 

Trong một bảng xếp hạng khác do tạp chí Newsweek công bố vào tháng 08-2010 mang tên “Các quốc gia tuyệt vời nhất thế giới” (The World’s Best Countries)[2], với các tiêu chí cơ bản là y tế, giáo dục, kinh tế,  chính trị, Australia được xếp hạng 4. Riêng về giáo dục, Australia được xếp thứ 13.

Mặc dù “mọi so sánh đều khập khiễng”, nhưng những bảng xếp hạng nói trên về căn bản đã phản ánh đúng sự thật. Tuy chưa có những trung tâm khoa học và công nghệ mạnh như Silicon Valley của Mỹ, Australia vẫn là một trong những quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản. Xin đơn cử một thí dụ: Chương trình nghiên cứu “viễn tải lượng tử” (teleportation)[3] tại Đại Học Quốc Gia Australia (ANU) ở Canberra. Tại đây, các nhà khoa học Úc, dưới sự lãnh đạo của Tiến sĩ Ping Koy Lam, đã đạt được những thắng lợi bước đầu làm nức lòng giới khoa học toàn cầu: Truyền được thông tin tức thời qua khoảng cách 1m mà không cần có bất cứ một dòng chuyển động nào của các hạt lượng tử. Đây là một trong những thí nghiệm đầu tiên ứng dụng “tương tác ma quái” (spooky interaction) của các hạt lượng tử để chuyển thông tin tức thời. Thuật ngữ “tương tác ma quái” do chính Albert Einstein nghĩ ra nhằm mô tả một hiện tượng lượng tử mà ông không thể hiểu nổi: một hạt ánh sáng có thể đồng thời tồn tại ở hai vị trí hoàn toàn cách biệt – một hiện tượng “vô lý” dưới nhãn quan của Cơ học Newton (không thể giải thích bằng luật nhân quả) nhưng hoàn toàn hiện thực trong thế giới lượng tử.

Vậy mà các nhà khoa học tại ANU vẫn đang tiếp tục tìm cách “tác động ma quỷ từ xa” (ghostly action at a distance) thông qua một khoảng cách lớn hơn 1m và tiến tới khoảng cách bất kỳ. Thật là kinh ngạc khi biết rằng về mặt lý thuyết, “tương tác ma quái” còn có thể vận chuyển cả những “đồ vật” qua khoảng cách vạn dặm với tốc độ “tức thời”! TS Ping Koy Lam nói: “Về lý thuyết, không có gì ngăn trở con người di chuyển tức thời trong không gian, nhưng vào thời điểm hiện nay, đó vẫn là chuyện viễn tưởng. Tuy nhiên trong tương lai không xa, việc vận chuyển tức thời một vật rắn có thể trở thành hiện thực. Tôi dự đoán trong vòng từ 3 đến 5 năm nữa khoa học sẽ có thể vận chuyển tức thời một nguyên tử”.

Nếu mục tiêu này trở thành hiện thực thì khó có thể tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra trên thế gian này, bởi lúc đó chuyện Tề Thiên Đại Thánh thoắt biến, thoắt hiện trên thiên đình hay dưới hạ giới sẽ là chuyện có thật. Vì thế đề tài “viễn tải lượng tử” đã và đang trở thành một mũi nhọn của khoa học hiện đại, làm dấy lên một cuộc chạy đua ráo riết giữa các cường quốc khoa học, trong đó Úc là một trong những quốc gia đi tiên phong.

Thoạt nghe câu chuyện trên, người ta dễ có cảm tưởng nền khoa học Úc có xu hướng “bay bổng siêu thoát, chân không chạm đất”. Nhưng ngược lại, người Úc rất thực tiễn: những nghiên cứu lý thuyết vô bổ nhằm đoạt danh hiệu hão hoặc sản xuất ra những “tiến sĩ giấy” dường như không có chỗ đứng trong nền khoa học và công nghệ ở Úc. Điều này giải thích vì sao Úc đạt được rất nhiều thành tựu về y khoa, nông nghiệp, hoặc các lĩnh vực khác gắn liền với đời sống.  

Ngày 08-09-2010, kết quả thử nghiệm lâm sàng một loại thuốc mới đặc trị ung thư ác tính rất hiệu quả đã được công bố trên tạp chí Nature. Giáo sư MacArthur, người lãnh đạo chương trình nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư tại Trung tâm Nghiên cứu Ung thư MacCallum cho biết đây là những tín hiệu rất khả quan. Ông nói: “Loại thuốc này được điều chế để điều trị triệt để và diện tận gốc các khối u”. Giáo sư Austin Curtin, một người tham gia trực tiếp vào chương trình nghiên cứu này, cho hay việc sử dụng kỹ thuật di truyền mang lại hiệu quả tích cực. Ông cho biết: “Một bệnh nhân trẻ 23 tuổi, bị ung thư đã di căn, chỉ sau vài tuần lễ điều trị bằng loại thuốc mới, các khối u tái phát ở xương đã teo lại, còn các khối u di căn trên não cũng hoàn toàn biến mất”. Ông khẳng định đây là một phát minh đột phá, mở ra triển vọng tiến tới thời đại tiêu diệt ung thư tận gốc – ước mơ của nhân loại từ nhiều thế kỷ nay.

Chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên với thành tựu nói trên nếu biết rằng tại Australia sức khỏe con người là vấn đề được ưu tiên số một, khám bệnh thông thường không mất tiền (nhà nước chi trả thông qua chính sách medicare), nghề y là một trong những nghề được trọng vọng nhất, thi tuyển vào Đại học Y khoa là khó nhất, quá nửa số công trình đoạt Giải Nobel của Úc đều thuộc y khoa, v.v.

Tính thực tiễn trong nghiên cứu khoa học ở Úc cũng lộ rõ trong lĩnh vực nông nghiệp. Ai cũng biết Úc có những sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng như ngô, thịt bò, nhưng có thể ít người để ý rằng đất đai của Úc nói chung khô cằn. Vậy mà từ những vùng đất khô cằn đó, người Úc làm ra những sản phẩm nông nghiệp tươi tốt không thua kém gì sản phẩm của những xứ nông nghiệp truyền thống, nếu không muốn nói là còn chất lượng hơn. Nguyên nhân rất dễ hiểu: người Úc rất giỏi trong khoa học nông nghiệp, và những khoa học này được áp dụng triệt để trong thực tiễn. Cách đây hơn chục năm, ở Úc hầu như không có thịt gà ngon như gà nuôi thả ở Việt Nam, vì chỉ có gà công nghiệp. Nhưng hiện nay gà ngon đã có mặt ở khắp các chợ Á Châu tại Úc. Trước đây Úc cũng không có nhãn, vải. Những hoa quả này nhập từ Việt Nam sang được coi là món quà quý hiếm. Nhưng nay chợ hoa quả của Úc đã bán đầy vải, nhãn trồng tại Úc, ngon hơn rất nhiều so với vải, nhãn của Việt Nam. Trong khi nhãn Hưng Yên ở Việt Nam hầu như mất giống thì nhãn ở Úc vừa to, vừa dầy cùi, vừa ngon ngọt đậm đà. Cái gì làm cho nhãn Úc ngon như thế? Câu trả lời rất đơn giản: khoa học chọn giống và lai tạo, chăm sóc cây cối đã đi vào cuộc sống, thay vì nằm trên các bàn giấy và làm đồ trang sức cho các bằng tiến sĩ!

Các nhà khoa học tại Trung tâm Ứng dụng Thực vật Di truyền Úc (ACPFG) tại Đại học Adelaide cũng vừa thành công trong việc tạo ra một giống lúa mới chịu được nước mặn, và đang chuyển kỹ thuật này sang lúa mì và lúa mạch, những loại lương thực chủ yếu trên toàn thế giới. Thành công này sẽ dẫn tới sự tăng sản lượng lúa tới mức không thể ngờ tới, vì diện canh tác sẽ được mở rộng gấp bội.

Tất cả những thành công đó đã được ươm trên mảnh đất giáo dục – giáo dục chính là nền tảng của phát triển!

 

2. Nền tảng giáo dục:

 

Nền giáo dục Úc không chú trọng từ chương, nhồi nhét, mà nhấn mạnh tới tư duy độc lập và sáng tạo. Tinh thần ấy đã thấm vào tâm hồn học sinh ngay từ cấp tiểu học, trung học, và trở thành phương châm cơ bản đối với sinh viên đại học. Điều này đã được trình bầy rất rõ trong Lời giới thiệu trên trang mạng “Study in Australia”[4] (Học tập ở Úc). Xin trích đoạn:

          Tại Úc, bạn có quyền tự do lựa chọn con đường học tập thích hợp với mục tiêu riêng của bạn. Có hàng ngàn ngành học dành cho bạn, nhưng dù chương trình bạn chọn thế nào thì bạn cũng vẫn được đào tạo theo một đường lối giáo dục duy nhất: Việc học tại Úc khuyến khích tư duy đổi mới, sáng tạo và độc lập …Quan trọng nhất, bạn sẽ học cách làm thế nào để ứng dụng sáng kiến của bạn. Thầy giáo của bạn sẽ khuyến khích bạn suy nghĩ về những giải pháp độc đáo  và thực tiễn đối với những vấn đề thực tế … Mỗi đại học Úc sẽ cung cấp cho bạn một sự hiểu biết đâu ra đấy về lĩnh vực mà bạn chọn, cùng với những kỹ năng chuyên sâu có thể được ứng dụng ở những khu vực khác. Bạn không chỉ học các môn về sức khoẻ, khoa học, công nghệ hay nghệ thuật, mà còn học cách làm thế nào để tư duy một cách sáng tạo và độc lập.

 

 

 

          Lời giới thiệu trên sẽ là một quảng cáo thiếu hấp dẫn nếu nó không có những sản phẩm giáo dục ưu tú để chứng minh. Nhưng may thay, Úc có thừa những sản phẩm như thế. Thần đồng toán học Terence Tao là một sản phẩm sáng chói của nền giáo dục đó. Nhiều nhà khoa học Úc gốc Việt, vốn xuất thân từ những nền văn hoá chịu nhiều ảnh hưởng của Khổng giáo (quen rập khuôn hơn là độc lập sáng tạo), cũng trở nên năng động lạ thường khi được đào tạo và rèn luyện qua môi trường giáo dục Úc. Xin kể hai thí dụ:

.           2a. GS Kiều Tiến Dũng, người dám đối mặt với những bài toán không giải được[5]:

Chúng ta đều biết rằng computer đã, đang và sẽ làm được nhiều điều kỳ diệu mà ngày xưa tưởng chừng chỉ có Thượng Đế mới làm nổi. Tuy nhiên những người không chuyên ngành thường không để ý rằng thực ra có nhiều bài toán không thể giải được. Nguyên nhân không phải vì các nhà khoa học “kém cỏi”, mà do những “căn bệnh bẩm sinh” của computer!

Thật vậy, khoa học trong thế kỷ 20, trong khi tạo ra một kỳ tích như computer thì nó cũng đồng thời nêu lên một nguyên lý khẳng định rằng có những bài toán không thể và không bao giờ giải được. Nguyên lý đó đã trở thành “Kinh Thánh” của khoa học tính toán, một “chân lý bất khả kháng”, một “bức tường” bất khả xâm phạm, một “cột mốc” ở bên kia tầm với.

Trong suốt hơn 50 năm qua, không ai dám đụng đến nguyên lý đó, dám biến đổi chân lý đó, dám vượt qua bức tường đó. Nhưng có một người dám làm điều đó: nhà khoa học Kiều Tiến Dũng.

 

 

Đến Úc năm 1980, Kiều Tiến Dũng không dừng lại ở một đời sống hội nhập bình thường, mà khao khát hoà nhập vào dòng tư tưởng khoa học đang cuộn chẩy mãnh liệt tại những quốc gia phát triển nhất thế giới. Vốn bản chất ham mê hiểu biết, anh lao vào học tập, nghiên cứu như một sở thích, một nỗi đam mê. Anh biết chọn con đường nghiên cứu là con đường gian truân, phải hy sinh nhiều tham vọng vật chất và thú vui khác trong đời. Nhưng công lao của anh sớm được đền bù: Năm 1984, sau khi đỗ bằng cử nhân toán-lý xuất sắc tại Đại học Queensland, Kiều Tiến Dũng nhận được học bổng làm luận án tiến sĩ tại Đại học Edinburgh ở Anh. Hoàn thành luận án năm 1988, ông trở thành giáo sư Đại học Edinburgh và Đại học Oxford. Năm 1991, ông trở về làm giáo sư Đại học Melbourne, nhưng vẫn thường xuyên có những chương trình cộng tác nghiên cứu với các đại học danh tiếng nhất của Mỹ như Đại học Princeton, Đại học Columbia, Đại học MIT. Hiện ông là lãnh đạo nhóm nghiên cứu của CSIRO, kiêm giáo sư vật lý lý thuyết tại Đại học Swinburne, Melbourne.

Trong hai công trình nổi bật, “Computing the Non-Computable” (Tính cái không thể tính được), và “A reformulation of Hilbert's tenth problem through Quantum Mechanics” (Một cách phát biểu lại bài toán số 10 của Hilbert thông qua Cơ học Lượng tử), được trình bầy trên trang web của  Viện nghiên cứu quốc gia Los Alamos (Los Alamos National Laboratory) của Mỹ, đồng thời đã đăng tải trên nhiều tạp chí khoa học hàng đầu khác như “Proceedings of the Royal Society” (Biên bản của Hội Hoàng Gia Anh), “International Journal of Theoretical Physics” (Tạp chí quốc tế về vật lý lý thuyết), v.v. GS Kiều đã chỉ ra rằng computer lượng tử có thể giải được những bài toán không thể giải – computer lượng tử có thể biết cái không thể biết! Ông tuyên bố: “Chúng tôi bác bỏ Luận đề Turing-Church bằng cách chỉ ra rằng tồn tại những bài toán không giải được theo nguyên lý Turing nhưng có thể giải được bằng cách thực hiện những quy trình cơ học lượng tử xác định rõ ràng”.

Ngay lập tức, tuyên bố này gây chấn động trong giới khoa học tính toán, toán học và vật lý lượng tử.

Dẫu còn quá sớm để có một kết luận khẳng định ý nghĩa công trình táo bạo của GS Kiều, bởi vì hiện nay computer lượng tử vẫn chỉ đang trong giai đoạn thai nghén, nhưng về mặt lý thuyết, công trình của GS Kiều đang làm dấy lên một mối quan tâm đặc biệt của giới khoa học computer trên toàn thế giới.

Tiến sĩ Richard Gomez, giáo sư Đại học George Mason ở Mỹ, một chuyên gia có uy tín lớn trong khoa học computer hiện nay, nhận định: “Tôi đã đọc các công trình của GS Kiều và nhận thấy những công trình đó hoàn toàn phù hợp với những khám phá của các nhà nghiên cứu khác trong lĩnh vực tính toán lượng tử và vật lý lượng tử. Không còn nghi ngờ gì nữa, hiện nay đã có một sự chấp nhận rộng rãi rằng thông tin mang tính chất vật lý, và vật lý lượng tử cung cấp những quy luật của sự ứng xử vật lý đó”. Ông nói tiếp : “Đặc trưng kỳ lạ của cơ học lượng tử cho phép chúng ta làm việc với toàn bộ thông tin theo những cung cách hoàn toàn mới. Đơn giản là giáo sư Kiều đã biết lợi dụng những quy luật của vật lý lượng tử để đạt tới những kết quả mà trong thế giới của vật lý cổ điển không thể đạt tới được”.

Theo nhận định của tạp chí NewsFactor, công trình của GS Kiều có thể bắn một phát đạn trúng hai đích: Bài toán số 10 của David Hilbert và Sự cố Dừng của Alan Turing. Trong bài báo nhan đề “Quantum Leaps May Solve Impossible Problems” (Những bước nhẩy lượng tử có thể giải được những bài toán không giải được), tạp chí này viết: “Nhà vật-lý-toán-học Úc gốc Việt, Giáo sư Kiều, đã có một khám phá có thể làm cho nền toán học và khoa học computer của thế kỷ trước vượt qua được giới hạn của chính nó: Những bài toán từng được coi là “không giải được” (unsolvable) hoặc “không tính được” (uncomputable) có thể sẽ giải được bằng cách sử dụng những tính chất bí ẩn của cơ học lượng tử !”.

Tạp chí New Scientist, trong bài “Smash & Grab” (Đột phá và nắm bắt) coi đó là “một cuộc tấn công táo bạo vào chính những giới hạn của toán học, nhờ đó có thể lấy lại những kho báu mà chúng ta tưởng rằng vĩnh viễn sẽ nằm ở phía bên kia tầm với. Hãy sẵn sàng để biết cái không thể biết!”.

Nếu đặc trưng của nền giáo dục Úc là “khuyến khích tư duy sáng tạo và độc lập” thì công trình táo bạo của GS Kiều chính là một bằng chứng hùng hồn của đường lối giáo dục đó. Nói cách khác, đường lối giáo dục đúng đắn chính là bệ phóng của tinh thần sáng tạo, bản thân GS Kiều cũng nghĩ vậy. Trong thư trao đổi với cá nhân tôi (người viết bài này), ông nói:

Sau những năm trung học và gần hai năm đại học tại Việt Nam tôi rất bỡ ngỡ khi bước thẳng vào năm thứ hai tại đại học Queensland với một môi trường và phương pháp giảng dạy rất khác lạ. Ở phương tây, nền giáo dục khuyến khích sự sáng tạo cá nhân, không gò bó vào khuôn thước của học thuyết cũ.  Nhất là trong lãnh vực khoa học hay toán học, khuôn thước ràng buộc tối hậu là những chân lý thiên nhiên và khách quan, thay vì những lý thuyết do người đi trước đặt/tìm ra. Tôn trọng lịch sử, tôn trọng người đi trước,  tôn trọng bậc thầy là những điều phải có.  Nhưng không để phải đến mức diệt chết cái tự do tìm tòi, tự do suy nghĩ, tự do đặt câu hỏi, nghi vấn ngay cả những lý thuyết hiện thời. Có như thế mới có tiến bộ và phát triển.  Dù sao đi nữa thì lý thuyết cũng chỉ là lý thuyết, chúng phải được kiểm chứng, bồi đắp hay đào thải với những dữ kiện mới. Cũng như những thời đại đến rồi đi, lý thuyết cũng chỉ hữu ích trong một thời gian nào đó đề làm nền tảng, bàn đạp cho sự tiến triển mai sau.

Có ý kiến cho là sinh viên học sinh phương tây coi thường thầy cô mình.  Nhưng ngược lại, họ kính phục thầy cô của mình một cách khác.  Chính bản thân tôi dù đã rất lúng túng khi phải tranh luận với giảng sư hay thầy đỡ đầu luận án vì những giá trị đạo đức Á châu của mình, nay lại lấy làm thích thú khi tranh luận một cách ngang hàng với sinh viên mình dạy.  Qua đó, sự kính nể giữa thầy và trò lại càng tăng thêm ở chổ nể phục khả năng chuyên môn, thái độ tôn trọng sự thật của nhau, thay vì một sự phục tòng tuyệt đối do lề lối, phong tục áp đặt. Dĩ nhiên, ngoài vòng tranh luận, người trò vẫn tôn trọng và phải tôn trọng người đã bỏ công truyền đạt, dạy dỗ mình. Nhưng khoa học nói riêng và sự thật nói chung không phân biệt tuổi tác và thứ bậc trong xã hội.  

Một điểm khác mà mình có thể học hỏi ở người là phải dám nghĩ đến những chuyện lớn: “Think big”. Nên có cái nhìn tổng quát và toàn diện để tổng hợp vấn đề cho những bước tiến lớn. Do đó giáo dục phương tây không chủ trương từ chương, nhồi nhét chi tiết, không chú trọng vào việc làm thật nhiều bài toán một kiểu cho thật lẹ để có điểm cao mà không hiểu nguồn gốc của phương pháp giải và của bài toán được giải; nếu chỉ như thế người học trò sẽ không biết áp dụng toán vào những trường hợp mới lạ. Phải chăng đây là lý do tại sao học sinh Á châu, phần lớn, thi toán thì điểm cao nhưng kết quả sáng tạo, ngay cả trong toán học, thì lại thua học sinh Âu Mỹ ?

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển và cạnh tranh (và ngay cả đến sự sống còn) của một quốc gia trên bình diện thế giới đều phải dựa vào dân trí và kiến thức, nhất là kiến thức về khoa học, kỹ thuật và y khoa (kiến thức trong các lãnh vực khác không phải là không cần thiết.)  Thiếu một nền tảng dân trí cao, thiếu cơ sở kiến thức vững vàng thì sớm muộn gì một quốc gia cũng sẽ phải, nếu không đã, lệ thuộc vào nước ngoài. Ngay cả nước Úc, một đất nước từng được coi là may mắn vì giầu quặng mỏ, tài nguyên thiên nhiên, nhưng với thời đại toàn cầu hóa hiện nay, với một dân số chỉ khoảng vỏn vẹn 20 triệu, Úc muốn giữ được vai trò tiên tiến và duy trì được mức sống cao của người dân thì cần phải và rất đang chú trọng đến việc đào tạo và giáo dục – điển hình là việc cải tổ ngành đại học gần đây của chính phủ.

Richard Feynman, người Mỹ, một nhà vật lý lý thuyết lớn của thế kỷ 20, đã tâm tình trong cuốn sách “The meaning of it all”[6]muốn làm khoa học thì trước hết phải học để biết nghi ngờ! Nghi ngờ là cần thiết và sự nghi ngờ có cái giá trị của nó. Từ cái nghi ngờ ta mới đặt vấn đề, mới nêu câu hỏi và từ đó tìm cách giải đáp thích đáng.  Tiến sĩ Feynman nhấn mạnh là chúng ta không nên sợ những nghi ngờ mà phải đón nhận và trân quý  chúng.  Cái quyền được nghi vấn đã phải trải qua bao nhiêu tranh đấu chứ không phải loài người tự nhiên mà có.  Có nghi ngờ, có không chắc chúng ta mới có cơ hội để cải thiện hoàn cảnh, lý thuyết đã không còn phù hợp với các dữ kiện mới nữa …”.

 

          2b. Phan Kiều Oanh với “giấc mơ Úc”:

          Để có thêm một thí dụ làm sáng tỏ tính mở của đại học Úc, xin kể thêm trường hợp của nhà lập trình Phan Kiều Oanh.

Khi Kiều Oanh còn ở Việt Nam, cô là một sinh viên xuất sắc, đặc biệt trong môn toán và tiếng Anh. Trong những năm phổ thông trung học, cô đã tham gia các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc về toán và tiếng Anh, trong đó đã hai lần đoạt giải nhì môn toán và một lần đoạt giải nhất tiếng Anh.

          Các cuộc thi này được tổ chức hàng năm để phát hiện những học sinh năng khiếu giỏi nhất. Năm 1983, sau khi đạt điểm xuất sắc trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học, Kiều Oanh được học bổng du học. Năm 1989, sau khi tốt nghiệp Đại học Công nghệ Sofia, Bulgaria, cô lại nhận được học bổng của đại học này để làm luận án tiến sĩ. Hoàn thành luận án năm 1993, cô lên đường sang Úc để khởi đầu sự nghiệp khoa học của mình.

          Tuy nhiên bằng cấp của nhiều quốc gia trên thế giới không nghiễm nhiên được công nhận tại Úc, trong đó có bằng cấp của Bulgaria. Vì thế, khi mới đặt chân tới Úc, Kiều Oanh gặp khó khăn rất lớn trong khi tìm kiếm một việc làm thích hợp. Cô phải đối mặt với hàng đống thách thức trong bước khởi đầu cuộc sống mới của mình.

          Nhưng khó khăn không làm cô nản lòng. Cô nhớ tới một danh ngôn của nhà bác học vĩ đại Pythagoras: “Bước khởi đầu là một nửa sự nghiệp”, tương tự như ngạn ngữ Việt Nam: “Vạn sự khởi đầu nan”.

          Vốn là một phụ nữ năng động và nhiệt tình, Kiều Oanh không thất vọng và không đầu hàng số phận. Cô quyết định khởi đầu lại toàn bộ sự nghiệp: Cô nộp đơn theo học tại Đại Học Công Nghệ Sydney (UTS) như một sinh viên năm thứ nhất.

          Đó là một quyết định cực kỳ khó khăn, vì lúc ấy cô không có tiền để sinh sống, thuê nhà ở, trả học phí và mua sách vở tài liệu. Chi phí cho việc học hành có thể sẽ rất lớn nếu chương trình học kéo dài nhiều năm (4 hoặc 5 năm). Nhưng thử thách tạo nên phẩm chất con người. Đó là điều Kiều Oanh đã được ông nội và cha mẹ giáo dục từ khi cô còn nhỏ, và giờ là lúc cô đem ra áp dụng: Cô quyết định vừa đi học vừa đi làm – đi làm để trang trải mọi chi phí đời sống và học hành. Cô làm đủ mọi việc có thể làm: may thuê, dạy học thuê, v.v.

          Tuy nhiên, phẩm chất con người là chứng chỉ tốt nhất trong cuộc sống! Ngay ngày đầu tiên tại đại học UTS, Kiều Oanh đã thể hiện khả năng vượt trội của cô so với các bạn cùng lớp. Giáo sư Roman Stere, với kinh nghiệm từng trải của ông, nhanh chóng nhận ra cô sinh viên xuất sắc của mình – Kiều Oanh tỏ ra biết và hiểu sâu sắc mọi điều ông trình bầy đến nỗi ông phải tạm ngừng bài giảng để hỏi cô:

          -Này cô Kiều, có vẻ như cô đã biết tất cả những gì tôi giảng trước khi cô đến đây, đúng không?

          -Vâng, đúng thế, thưa giáo sư, Kiều Oanh trả lời.

          -Tại sao cô biết?

          -Vì em đã tốt nghiệp đại học và hoàn thành luận án tiến sĩ từ mấy năm trước.

          -Thế ư? Ở đâu và bao giờ? Hãy nói cho tôi biết quá trình học tập của cô! Giáo sư Roman hối thúc.

Thế là Kiều Oanh kể lại chuyện học hành của cô, rằng cô đã tốt nghiệp đại học ra sao và đã làm luận án tiến sĩ ra sao. Nghe cô kể xong, giáo sư Roman liền hỏi:

          -Vậy cô còn đến lớp này để làm gì?

          -Thưa giáo sư, vì Úc không công nhận bằng cấp của Bulgaria. Vì thế em không tìm được một công việc thích hợp để khởi đầu sự nghiệp khoa học. Do đó em tới đây để kiếm một cái bằng của Úc! Kiều Oanh giải thích.

          -Ồ, thì ra là như thế, vậy tôi sẽ cho cô thi chương trình năm cuối đại học ở đây. Nếu cô thi đỗ, cô có thể lập tức trở thành một người tốt nghiệp đại học ở Úc. Cô có muốn như thế không?

          Kiều Oanh ngạc nhiên, sung sướng bất ngờ. Tất nhiên là cô chấp nhận đề nghị của giáo sư Roman ngay lập tức.

          Những gì xẩy ra sau đó đã xác nhận những điều Kiều Oanh nói là đúng. Cô đã vượt qua kỳ thi tốt nghiệp với kết quả xuất sắc và giáo sư Roman đã giữ cô ở lại đại học UTS để làm trợ lý. Trong ba năm tiếp theo, Kiều Oanh hoàn thành luận án master (thạc sĩ) tại chính đại học này. Luận án này được đánh giá là đặc biệt xuất sắc vì đề tài do chính Kiều Oanh phát hiện từ thực tiễn của công nghệ, trong khi phần lớn đề tài thạc sĩ hoặc thậm chí tiến sĩ đều do giáo sư hướng dẫn có sẵn từ trước rồi giao cho học trò làm.

          Người phụ trách đề tài của cô cũng chính là GS Roman. Ông rất thích thú với những trình bầy toán học của cô, nhưng một hôm ông đột nhiên hỏi cô: “Theo sự hiểu biết của tôi, tôi thấy sinh viên Việt Nam nói chung rất thông minh, giỏi Toán. Vậy lẽ ra nền khoa học và công nghệ của các bạn phải phát triển lắm chứ. Nhưng tại sao thực tế không phải như vậy? Những người giỏi toán của các bạn đi đâu? Hay các bạn chỉ quen giỏi lý thuyết sách vở thôi mà xa rời thực tiễn? Hay vì nguyên nhân nào khác? Vậy tại sao cô giỏi Toán? Cô học Toán ở đâu? Ai dạy cô?”.

          Câu hỏi vượt quá khả năng trả lời của Kiều Oanh, bởi cô đi du học từ khi 18 tuổi. Thực tiễn trong nước cô không nắm bắt được hết. Cô chỉ trả lời những gì cô biết: “Thưa thầy, kiến thức của em chủ yếu được học từ gia đình. Ông nội em, rồi bố em dạy em là chính. Đã có những năm em phải học chương trình cải cách giáo dục với rất nhiều đảo lộn, nhưng rất may là kiến thức cơ bản em đã nắm vững. Vì thế em vẫn vươn lên được, bất chấp sự hỗn loạn của chương trình cải cách”. 

          Có lẽ Kiều Oanh sẽ tiếp tục sự nghiệp hàn lâm và có nhiều cơ hội để trở thành một giáo sư đại học nếu một công ty của Mỹ không mời cô làm việc cho họ với tư cách một nhà lập trình, kèm theo một đề nghị lương bổng vô cùng hấp dẫn.

          Đối với Kiều Oanh, lập trình là một nghề nghiệp thích thú, rất phù hợp với những ai giỏi toán. Lập trình là một lĩnh vực mà ở đó khoa học về logic và tư tưởng hệ thống tha hồ phát huy sức mạnh. Logic và hệ thống hoá đóng một vai trò nền tảng trong toán học. Đó là lý do để nhiều người nhận định rằng giỏi toán thường sẽ giỏi lập trình, nếu đi vào ngành này.

          Cuối cùng Kiều Oanh đã chọn con đường trở thành một nhà khoa học lập trình, thay vì đi theo con đường hàn lâm ở trường đại học.

          Thời gian đã chứng tỏ lựa chọn của Kiều Oanh là khôn ngoan. Cô tiếp tục gặp thách thức trong công việc, nhưng càng bị thách thức cô càng yêu công việc. Có lần cô tâm sự: “Thắng lợi trong sự nghiệp chỉ có ý nghĩa thật sự khi người ta cảm thấy yêu công việc của mình, đồng thời nhận được những phần thưởng xứng đáng vì công việc đó”. 

 

 

Câu chuyện của Kiều Oanh là một câu chuyện về một nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm thực hiện một ước mơ, và cũng là câu chuyện về một niềm tin mạnh mẽ rằng một ngày nào đó, ước mơ của bạn có thể trở thành hiện thực ở đâu đó. Cô tâm niệm lời của Pierre Curie: “Phải tạo cho cuộc đời một giấc mơ và phải biến giấc mơ thành hiện thực”. Và cô cám ơn nền đại học của Úc đã tạo cho cô điều kiện biến “giấc mơ Úc” thành hiện thực.

          Mặc dù đến nay đã trở thành một chuyên gia lập trình “có hạng” của Úc, nhưng Kiều Oanh vẫn không sao quên được công ơn của GS Roman và Đại học UTS. Cô nói: “Điều khác biệt căn bản giữa đại học ở Bulgaria và Australia là ở chỗ học xong ở Bul, mặc dù có bằng tiến sĩ, mà bước chân vào thực tế vẫn thấy bỡ ngỡ, không biết bắt đầu từ đâu, bởi cách học ở Bul vẫn nặng về từ chương, lý thuyết sáo rỗng, trong khi ở Australia, học ở trường thế nào thì ra thực tế làm thế ấy. Kiến thức được mài dũa qua thực tế nên trưởng thành rất nhanh chóng. Kỹ sư ở Úc nếu không làm đúng chuyên môn của mình trong 3 năm thì tấm bằng đại học sẽ vô giá trị. Khi xin việc người ta không còn nhìn bạn bằng tấm bằng đó nữa. Có nghĩa là bằng cấp không thể dùng để trang sức và loè bịp được”.

         

          3. Kết:

                 

Việc GS Roman tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho Kiều Oanh trong học tập không có gì đáng ngạc nhiên, bởi đó chính là phương châm chủ đạo của giáo dục Úc – khuyến khích sinh viên phát huy tối đa năng lực sáng tạo của cá nhân. Điều này đã từng được áp dụng rất hiệu quả trong trường hợp thần đồng toán học Terence Tao. Chỉ cần nhìn tấm hình cậu bé 9 tuổi Terence đang “quỳ” trên ghế Đại học Flinders ở Adelaide cũng có thể cảm nhận được “phong cách Úc” trong giáo dục đại học Úc thoáng mở như thế nào:

 

 

Một nghiên cứu sinh Việt Nam là Vũ Trung Thành, đang làm luận án Master tại Úc, ngành Quản trị kinh doanh, đề tài “Quản trị nhân lực”, mới đến Úc chỉ vài tháng nhưng đã nhận thấy ngay những khác biệt trong lối giáo dục ở đây so với những gì anh đã từng trải qua. Thành nói:

Bên cạnh chi phí sinh hoạt dễ chấp nhận, môi trường sống an toàn, khí hậu tốt, các trường đại học Úc có những điểm hấp dẫn sinh viên Việt Nam, đặc biệt nếu so sánh 2 môi trường giáo dục Việt Nam và Úc.

● Thứ nhất, các đại học ở Úc quản trị theo phong cách phương Tây. Có những ví dụ rất đơn giản mà các đại học ở Việt Nam chưa làm được. Đơn cử như việc tự sắp xếp môn học, lịch học thi qua trang web của trường. Thư viện online mở luân phiên 24/7, tức là mọi hoạt động đều đặt sự tiện lợi của người học lên cao nhất. Trong khi đó, đại học ở Việt Nam đặt sự tiện lợi của những người làm công tác quản lí lên cao nhất.

● Thứ hai, đại học ở Úc giảng dạy theo chất lượng Âu Mĩ. Trong các đại học ở Việt Nam, tình trạng đạo văn là phổ biến (khi trò thấy thầy không sáng tạo mà sao chép là chủ yếu thì chuyện sao chép bất bình thường sẽ trở thành hết sức bình thường). Sinh viên các trường đại học ở Việt Nam, ít nhất ở khu vực Hànội như tôi thấy, không cần nỗ lực thực sự vẫn có có thể có bằng tốt nghiệp. Nhưng nguy hiểm nhất là chấp nhận sự dễ dãi, qua loa và gian dối. Tôi đã từng có 4 năm đi học như thế. Nhìn lại đại học ở Úc, họ không chấp nhận sự làm việc hời hợt, gian dối. Trích dẫn phải có nguồn, phải paraphrasing. Phải chăng yêu cầu cơ bản mà giáo dục bậc cao đòi hỏi có lẽ là bất khả ở những quốc gia đang phát triển?

● Thứ 3, đại học ở Úc có cơ sở vật chất tốt. Không ai nghi ngờ sự thành công của giáo dục Úc. Hai yếu tố cơ bản là con người và điều kiện vật chất đầy đủ thì rất dễ nhận thấy”.

Nếu phải nói thêm, người viết bài này chỉ xin nhắc lại lời của PGS Phùng Hồ Hải như một nhấn mạnh: “Không thể xây dựng một tòa nhà cao vút mà chân đế lại bé tí”. Vâng, nền khoa học của một quốc gia không thể trở thành một kim tự tháp vững chắc nếu nền giáo dục của nó chỉ chạy theo những giá trị ảo. Vấn đề là chúng ta phải tạo ra những trí thức thật với một vốn văn hoá cơ bản vững chắc, làm nền móng cho mọi tư duy trong cuộc sống, dù là tư duy khoa học, công nghệ hay tư duy xã hội. Nói cách khác, chúng ta phải có một nền giáo dục tạo ra dân trí cao, thay vì chỉ có những thành tích “khổng lồ chân đất sét”.

Trước khi hoàn thành bài viết này, tôi vô tình đụng phải những tư tưởng rất chí lý về giáo dục. Xin lấy làm lời kết:

“Hãy tránh những sai lầm trong giáo dục. Đó là những sai lầm tệ hại nhất” (Ý kiến một học giả Ấn Độ).

“Một nền giáo dục tồi là nền giáo dục làm thui chột tài năng, người bình thường trở thành kẻ tầm thường; Một nền giáo dục tốt là nền giáo dục làm cho những người bình thường trở thành những người tài năng hữu dụng” (Ý kiến một học giả Trung Hoa).

 

                                           Sydney ngày 30 tháng 09 năm 2010

                                                                   Phạm Việt Hưng

 


 

[3] Xem 1/“Bước đột phá trong vật lý lượng tử: Chuyển thông tin tức thời” của Phạm Việt Hưng trên VnExpress ngày 01-07-2002; 2/ “Dùng ‘tương tác ma quỷ’ để chuyển thông tin tức thời” trong cuốn “Những câu chuyện khoa học hiện đại” của Phạm Việt Hưng, NXB Trẻ và Tia Sáng xuất bản năm 2003

[5] Để biết rõ hơn về các công trình của GS Kiều Tiến Dũng, có thể tham khảo các tài liệu sau đây: “Quantum Leaps May Solve Impossible Problems”, Mike Martin, NewsFactor; “Smash & Grab”, Marcus Chown, New Scientist 06-04-2002, “Computer lượng tử có thể biết cái không thể biết”, Phạm Việt Hưng, Tia Sáng tháng 06-2003

[6] Quyển sách đã được dịch ta tiếng Việt với tên gọi “Ý nghĩa mọi thứ trên đời”, bản dịch của Nguyễn Văn Trọng, Nxb Tri thức, 2010

 

        ©          http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org   Phạm Việt Hưng