Bài đuợc hiệu chỉnh vào tháng 2 năm 2007
Trong khi nền triết học cổ điển
Tây Phương với chịu ảnh hưởng lớn về thần linh, thượng đế thì ở Đông
Phương đúng hơn là Ấn độ, đã có một nền văn minh vô cùng rực rỡ mà cho
đến nay các nhà khảo cổ học, và các nhà khoa học chưa khám phá được
hết mức độ sâu rộng cũng như những kiến giải về vũ trụ và thế giới
chính xác đến độ bất ngờ đặc biệt là trong các kinh điển Phật Giáo,
một loại tôn giáo “vô thần”. 
Thật vậy, ra đời vào khỏang
thế kỉ thứ 6 trước công Nguyên trong bối cảnh xã hội phân hoá cực kỳ
phức tạp của xứ Ân mà đạo Bà La Môn ngự trị. Thích Ca Mâu Ni
(Shakyamuni) cùng với các đồ đệ chỉ trong vòng vài trăm năm
(*)
đã khai hoá một hệ thống tư duy (trí huệ) hoàn toàn mới và họ đã để
lại một kho kinh sách khổng lồ mà qua đó người ta có thể tìm rút ra
được vô vàn những hiểu biết giải thích về thế giới và vũ trụ vẫn có
giá trị cho đến tận thiên niên kỷ này.
Khi nói đến tôn giáo sẽ khó tránh
cho chúng ta liên tưởng tới nhiều hình ảnh có tính cách thần linh hay
siêu thực xa vời hay thậm chí mê tín, thụ động. Tuy nhiên, không ai có
thể biết được chính xác những lời dạy ban đầu của Thích Ca có dính
dáng gì đến những hình thức tôn giáo trong đó kể cả các hoạt động tích
cực hay tiêu cực hiên nay của Phật giáo. Bởi vì ở thời mà đức Phật
giảng dạy thì không được
ghi nhận nguyên văn. Chỉ có Những kinh sách
được chép và dịch lại sau này nên chắc khó tránh khỏi sự điều chỉnh
hay sưã chưã của những thế hệ sau đó. Chưa kể rằng, ngay chính trong
thời gian thuyết pháp, Thích Ca đã tuỳ theo hiểu biết, lòng tin, và
kinh nghiêm của từng đối tương để truyền thụ giáo hoá chứ không cứng
ngắt giáo điều. (Đây có lẽ cũng là nguyên do của việc phân hoá phong
phú nhưng thống nhất trong tư tưởng của Phật giáo ngày nay)
Tạm thời bỏ qua các
tranh cãi về tôn giáo, khi khảo cứu tham vấn các kinh điển Phật
học, người ta có thể rút ra được nhiều quan điểm hay giải thích
của Phật giáo về thế giới và con người cũng như nhiều phương pháp
phân tích khoa học đã được dùng đến. Mặc dù các kinh điển tập
trung nhiều trong việc giảng d
ạy các phương cách thoát khổ, ta vẫn tìm thấy khá đầy đủ những
luận cứ và quan điểm của Phật giáo về thể tính vật lý của thế giới
và vũ trụ. Ỏ đây ta chỉ dừng lại trên những ý niệm có liên quan
nhưng không đi xa hơn để tránh lạc khỏi đề tài vật lý sử.
Giải thích của Phật giáo về nguồn
gốc hình thành, và quy luật phát triển chung của vũ trụ:
Một trong những câu hỏi hóc buá và
lâu đời nhất của vật lý và triết học là vũ trụ do đâu mà có? Nó
vận động và phát triển ra sao? Hầu hết các quan điểm có được từ khi
có câu hỏi trên cho tới khi Phật giáo ra đời đều mang nặng tính
thần quyền và ngay cả đến thiên niên kỉ thứ hai này chúng ta vẫn
còn thấy nhan nhản các lý thuyết dưạ vào niềm tin lên đấng sáng
thế, người có toàn quyền tạo ra vũ trụ. Vậy mà Phật giáo một
tôn giáo tối cổ lại chạy ra khỏi các giáo điều cứng ngắt và thiết
lập nên một hệ thống nhân sinh quan hoàn toàn vô thần. Theo
các kinh điển của Phật giáo, vạn vật bất kể sinh giới hay vật chất phải
tuân theo những qui luật tác động một cách không thiên vị lên
chúng.
Điều quan trọng nhất cần đề cập là
nguyên lý Nhân-Quả. Nguyên lý này cho rằng mọi hành vi, vận động
đều gây ra các hậu quả tất yếu của nó. Các hậu quả này trước hay
sau sẽ đến lúc
quay ngược lại tác động vào chính chủ
thể của hành vi vận động ban đầu. Đây là nguyên lý bao trùm các
hoạt động của vũ trụ.
So sánh ra, thì nguyên lí này là một
sự mở rông của nguyên lí tương tác lực và phản lực mà Newton đã
phát biểu. Cái khác ở đây, theo Phật giáo qui luật Nhân -Quả
không chỉ đúng cho thế gíơi vật chất mà nó còn đúng luôn cho cả
thế giới giới tâm lý con người.
Phật giáo cho rằng mỗi hiện tượng
mà ta có thể nhận biết hay suy diễn ra (hay ngay cả các hiện tượng
mà ta chưa đủ khả năng để quan sát qua các giác quan hoặc qua suy
diễn), đã là kết quả của sự phối hợp từ các nhân tố vận động (nhân)
kết hợp với điều kiện sẵn có của môi trường (duyên).
Điều này thì chúng ta đã có thể thấy rất rõ trong thế giới sống:
một hạt giống không thể nảy mầm và phát triển mạnh mẽ nếu không có
các điều kiện thích hợp của môi trường. Mặc dù, hạt giống có thể
tự thân nó mang những tính trạng rất khoẻ.
Tiếp xa hơn, luật Nhân-quả không chỉ đứng yên hay tác động trên
một sự kiện cô lập mà nó có tính phổ dụng trong toàn vũ trụ. Nghiã
là bất kể vật thể có kích cỡ nhỏ hay to có đời sống dài hay ngắn
đều phải tuân theo sư chi phối của luật nhân quả.
Và chuổi nhân quả luôn luôn xãy ra tác động nhau. Mỗi
hậu quả của các
vận động, tác động một lần nưã cùng với sự biến chuyển mới của môi
trường sẽ là tiền đề tạo điều kiện cho các vận động và tương tác
mới … và tập họp những vận động và tương tác họp thành một vòng
luân chuyển không ngừng nghĩ gọi là “trùng trùng duyên khởi”
Như vậy, theo cái nhìn của Phật giáo, vũ trụ là sự vận động và
tương tác lẫn nhau của các hiện tượng tiếp nối không có bước đầu
và cũng không có kết thúc. Các hiện tượng này liên tục, sinh diệt
và chuyển biến theo luật nhân quả. (Pháp Duyên Khởi)
Quan điểm duyên sinh trong Phật
giáo cho ra một hệ quả là không có vật thể nào có thể tồn tại độc
lập mà chúng nương tưạ vào nhau tồn tại hài hoà nhau.
“Vật này có, cho nên vật
khác có, cái này không thì cái kia cũng không; vật này sinh, cho
nên vật khác sinh, mà cái này diệt thì cái kia cũng diệt”.
(trích - Đại thưà Phật giáo tư tuởng luận – chương 1 của Kimura
Taiken Thích Diễn Bồi dịch).
Ở đây ta có thể so sánh với việc
cho rằng cả vũ trụ này tồn tại bởi sự tương tác lẫn nhau của vật
chất (bằng các lực vật lý chẳng hạn) và không thể
nào có một vật thể
riêng biệt hoàn toàn không tương tác với
các vật thể còn
lại.
Các ảnh hưởng tương
tác lẫn nhau của các sự kiện trong đời sống có khi sâu rộng hơn
như chúng ta tưởng. Theo Stephen Hawking, đã trình bày trong
chương 4 của quyển “vũ trụ trong một vỏ hạt” xuất bản năm 2001
rằng: “Một con bướm vỗ cánh ở Tokyo có thể gây ra mưa ở công
viên trung tâm ở New-york” đã phần nào chứng thực cho cái ý
tưởng duyên khởi của nhà Phật.
Quan Điểm của Phật Giáo về Sự
chuyển hoá của thế giới vật lý:
1. Vai Trò Đấng Sáng Thế và sự
thành hoại của vật chất
Kế đến, phải kể tới nguyên lý Vô
Thường: Phát biểu ngắn gọn của nguyên lý này là Không có vật gì
thường tồn vĩnh cửu
hay có thể ở mãi trong trạng thái nhất định.
Một hệ quả đơn giản là mọi vật có lúc sinh ra thì sẽ có lúc nó bị
tiêu diệt.
Do đó, trong Phật giáo không tồn một đấng vĩnh hằng. Nếu có
chăng thì đấng vĩnh hằng đó chính là tính không của vạn vật
Mặc dù có sự tạm phân chia sinh giới
ra làm 6 loại trong đó có trời, (và tiếp theo là người, a-tu-la,
súc sinh, ngạ quỉ, và điạ ngục) Nhưng ở đây vai trò của trời (các
đấng phạm thiên) không phải là tối hậu mà tất cả đều phải tuân
theo luật nhân quả.
Một phần cũng do việc phủ nhận sự
tồn tại một đấng sáng tạo của vũ trụ này mà nhiều nhà nghiên cứu
đã cho rằng: “Phật giáo là một khoa hoc”. Ngày nay, nguyên lý vô
thường đã được chứng minh rộng rãi trong các lí thuyết vật lý hiện
đại đặc.
Từ một hạt cơ bản cho đến … vũ trụ bao la cũng đều có thời hạn tồn
tại của nó! Ngoài ra, vật chất luôn luôn chuyển hoá không ngừng.
Mỗi sự kiện hay sự vật đều có 4 thời kì chính đó là hình thành
(thành), tồn tại và lớn lên (trụ), hao mòn và huỷ hoại (hoại), và
chân như (không) và không gì có thể thoát khỏi qui luật này.
2.
Vũ trụ vô cùng :
Một trong các lý thuyết được nhiều khoa học gia tin tưởng nhất
về sự hình thành của vũ trụ đó là thuyết vụ nổ lớn (big bang). Ủng
hộ giả thuyết này, có cả nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking,
người được xem là đã có những bước tiên phong trong nỗ lực thống
nhất vật lý lượng tử và thuyết tương đối . Thuyết này cho rằng vũ
trụ bắt đầu từ một lỗ đen có kích thước cực nhỏ và có mật độ vật
chất ở đó là vô hạn.
Trong Liên Hoa Kinh, đã có phần đề cập đến chuyện này, theo đó,
các đại sư của Thiên Thai Tông thường dạy rằng "toàn bộ vũ trụ nằm
gọn trong đầu một hạt cải". Như vậy, rõ ràng triết lý Phật giáo có
thể đã thấy được từ lâu hiện tượng vũ trụ không có kích thước này.
Tuy nhiên, cũng theo theo
quan điểm
Phật giáo thì vũ trụ có số lượng
thế giới
lớn vô cùng tận. Số lượng thế giới
giống như thế giới chúng ta đang sống thì “nhiều như cát ở sông
Hằng”:
1000 thế giới nhỏ = 1 tiểu thiên thế
giới
1000 tiểu thiên thế giới = 1 trung thiên thế giới
1000 trung thiên thế giới= Tam thiên đại thiên thế giới.
Vũ trụ không chỉ có một Tam Thiên đại thiên thế giới mà có đến vô
số.
Và theo chu kì “thành, trụ, hoại,
không” thì sự khi thế giới này hình thành cũng sẽ có sự tận diệt
của thế giới khác, cứ như thế luân chuyển không bao giờ dứt.
Triết học tánh không và Cấu
trúc của vật chất:
1. “Vạn Vật
Đều Có Tánh Không !“
Về luận lý, thì trong Phật học không
có sự tồn tại của trạng thái nhị nguyên. Nghiã là không có sự phân
biệt giưã hai trạng thái 1 và 0, có và không, … Nguyên do của sự
phân biệt này là do chính tự tâm lí con người phân biệt mà ra
(bằng các qui ước và định nghiã). Thế giới tự nó không có sự tách
rời phân biệt. Thay vào đó, trạng thái có và không chỉ là sự biểu
hiện một thực thể. Sự tồn tại của một hiên tượng (pháp) bất
kì phải gắn liền với môi trường đã tạo ra nó và tự nó không thể
tồn tại độc lập (vạn vật đều không có tự tính).
Có thể đây là khái niệm khó khăn và
được bàn thảo, tranh cải nhiều nhất cho người làm khoa học. Chúng
ta tạm gọi đây là quan niêm nhất nguyên (hay tánh không). Trong
đoạn kế ta sẽ đề cập thêm
2.
Cấu thành của vật
chất và định luật
bảo toàn năng lượng
Có Một câu hỏi khác cũng không kém
phần quan trọng và lâu đời
trong thế
giới vật lý.
Đó là câu hỏi về sự cấu tạo của vật chất. Gần như mãi cho đến cuối
thế kỷ 20 người ta mới có được một câu trả lờì tương đối rõ ràng
dựa trên phương trình E = mc² do Einstein phát triển. Cái ý nghiã
triết học nằm
trong phương trình này là một sự khẳng định rằng vật chất đều chỉ
là một dạng tích tụ của năng lượng.
Trong Phật
học, vật chất thì được phân lớp một
cách sơ khởi thành bốn loại (tứ đại) bao gồm: Đất dùng để chỉ tất
cả những vật chất ở thể rắn, nước
cho vật chất thể lỏng, gió cho thể khí, và dạng vật chất cuối
cùng, lửa, chỉ năng lượng chuyển hoá thuần tuý. Các dạng vất này
không tồn tại vĩnh cửu mà có thể bị chuyển hoá bởi luật vô
thường. Theo quan niệm nhất nguyên thì các thể này chỉ là một
(tính không) và tính không này có tính phổ dụng cho vạn vật. (Nói
nôm na theo các thiền học Phật giáo: ‘vạn vật đều có Phật tính!’
Tức là mọi vật
đều có bên trong nó thể
tính của chân lý)
Để dễ cho các bạn hình dung, thì ta
có thể so sánh cách luận giải đó với
luận giải của vật
lý hiện đại rằng “vạn vật cho dù ở bất
kì dạng gì đều có thể mô tả ở một dạng
duy nhất đó là năng lượng!”
Đáng chú ý hơn nưã, khi mô tả trạng
thái của vũ trụ thì trong bộ kinh ngắn (toàn bộ có khoảng hơn 160
chữ):
“Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” chỉ ra rõ ràng hơn: “…Thị chư
pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất
tịnh, bất tăng, bất giảm” (
tạm dịch: vạn vật đều là tướng không, không sinh ra, không mất đi,
không dơ, không sạch, không tăng, không giảm). Như vậy, bạn nghĩ
sao về sự xác tín
của điều này nếu ta
liên tưởng tới định
luật bảo toàn năng lượng
của vật chất trong
vũ trụ mà các nhà vật lý đang cổ
suý?
4. Bản chất thật của Vạn Vật:
Từ mấy ngàn năm trước, Phật giáo đã
đưa khái niệm liên quan đến việc phủ nhận sự tồn tại của các dạng
nhận thức từ con người về vật chất (tính “không”). Theo ý chỉ này
thì tất cả các dạng thông tin mà ta nhận thức về vật chất đều
không chính xác. Chẳng hạn, hãy xét hai khái niệm quan trọng nhất
là “sắc” và “tướng”.
Sắc là thuộc tính màu của vật chất
mà chúng ta cảm nhận. Còn “tướng “ là thuộc tính về hình dáng của
vật chất. Như vậy tại sao lại phủ nhận hai thuộc tính này?
Cho đến nay thì người ta đã biết khá
rõ rằng màu sắc chỉ là sự thụ cảm của mắt đối với một số bước sóng
ánh sáng khác nhau và nó gần như là thuộc tính của tâm lý (hai
sinh vật khác nhau có thể cảm nhận về màu khác nhau tuỳ theo kinh
nghiệm và bẩm sinh của sinh vật đó)
Cấu trúc không gian của vật chất
cũng tương tự, cấu thành bởi vô vàn những hạt cơ bản tùy theo khả
năng nhận thức của con người hay cá nhân mà việc thấy biết về vật
chất đó các khác nhau.
Nếu như đem cọng tóc phẳng trơn lên kính hiển vi điện tử thì ta sẽ
có cảm nhận về hình dáng (tướng) của cọng tóc sẽ hoàn toàn khác
(và có lẽ xấu xí và khá đúng hơn) với cảm nhận ban đầu.
Do đó, không thể vinh vào hai thuộc
tính “sắc” và “tướng” mà cho rằng đó là thể tính chân lý của vật
chất mà ta cảm thấy được. Tương tự như vậy cho âm thanh, cảm giác,
nhận thức , …(Duy Thức Luận
và Bát Nhã Tâm Kinh).
Cũng xin nói thêm ở đây việc phủ
nhận mọi thứ trong Phật giáo nhằm mụch đích giáo hoá rằng mọi cái
nhìn, thụ cảm, suy diễn, quan điểm, hiểu biết, hay hành động của
con người đều do tự tâm của chính con người đã dựa vào kinh
nghiêm, bản năng, và các điều kiện tác động của môi trường mà có
(vạn pháp duy tâm tạo) Nhưng những điều này lại không phải là thể
tính chân lý của thế giới. Do đó, nếu hoàn toàn dưạ vào hay tin
vào những thấy biết của cảm quan sẽ bị sai lầm (vô ngã – vô chấp).
Phương Pháp Luận -- Khách quan
tuyệt đối:
Trong các nghiên cứu
khoa học thì việc tách rời
những thiên kiến,
hay định kiến ra khỏi các đánh giá hay thực
nghiệm khoa học đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Một lý thuyết
càng khách quan bao nhiêu thì càng đem lại kết
quả dự đóan chính xác bấy
nhiêu. Tuy nhiên, khó mà một nhà nghiên cứu
có thể hoàn toàn tách rời
được các tư tưởng
chủ quan của mình vào trong khoa học.
Thí dụ việc cho rằng vật nặng hơn sẽ rơi nhanh hơn nếu so sánh tốc
độ rơi của hai vật trong cùng 1 thời điểm và cùng độ cao đã phổ
biến từ rất xa xưa. Mãi cho đến khi … Galileo kiểm chứng lại rằng
nó sai.
Trong vật lý cổ điển, việc chấp nhận thời gian phẳng lặng
và độc lập với không gian đã được Newton mặc nhiên dùng trong các
chứng minh của mình và cho đến nay thì hiểu biết này là … không
hoàn toàn chính xác.
Ngay từ khi mới hình thành, các giáo huấn của Phật đã ý thức rõ
ràng về những sai lạc mà con người đã mặc nhiên gán cho thế giới
xung quanh và định kiến cho rằng đó là đặc tính thực của thiên
nhiên.
Trong phần trên chúng ta đã thấy sự phủ nhận của các giáo huấn về
sắc tướng và các cảm quan của cá nhân con người. Bên cạnh, Phật
giáo còn chỉ rõ hơn nưã về sự sai sót này nhằm mụch đích dẫn dắt
tư tưởng con người đến việc nhìn nhận sự vật khách quan hơn (trí
huệ) thông qua việc cho rằng “mọi thứ cảm nghĩ hay suy diễn đều là
sản phẩm tâm lý của con người” (Tam giới duy tâm vạn pháp duy
thức - Duy thức luận).
Từ đó, để hiểu và đạt được chân lí một cách đúng đắn thì việc quan
trọng nhất là tránh tối đa việc dựa vào hay trụ vào bất kì một ý
kiến, tri kiến, hay nhận thức
nào từ các cơ quan thụ cảm mà cho đó là
tuyệt đối (bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng
trụ thinh, hương, vi, xúc, pháp sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm. –Kim Cang kinh)
Như vậy, thế giới quan Phật giáo tiềm chưá một cái nhìn rất tương
đối về các lý thuyết (pháp). Ngoài ra, việc khuyên bảo giáo đồ
trong con đường đi tìm chân lý cũng đã ghi rõ là không được dựa
vào sắc, âm hay các cảm xúc. (nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm
thinh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai – –
Xin hiểu thêm Như Lai ở đây là biểu hiện của chân lý tối thượng
của vạn vật chứ không phải là cá nhân xác
thịt của Phật Thích Ca: “Như Lai
giả, tắc chư Pháp như nghiã” --
Kim Cang Kinh).
Phật giáo còn cho rằng:
Chân lý không từ đâu đến
cũng không đi về đâu; chân lý hiện hữu
không có sự áp đặt từ bên ngoài
(“Như Lai giả, vô sở
tùng lai diệc vô sở
khứ, cố danh Như lai" - Kinh kim
Cang)
Thêm vào đó để tránh cho các tín đồ về sau trở
nên cuồng tín hay mù quáng, Thích Ca còn dạy thêm: Không nên tin vào
một phát biểu nếuchỉ vì đó là lời nói từ một đạo sư tiếng tăm, cũng không
nên nên tin vào điều đó chỉ vì nếu đó là điều mà mọi người đều tin
làmtheo. Mọi phán quyết
đều nên được kiểm chứng bởi chính trí tuệ của mình.
Như vậy phương pháp mà Phật giáo dùng trong các luận lí là
hoàn toàn khách quan
Tiện đây, cũng xin nhắc thêm một phán đoán của Phật: “Trong một bát nước có chưá hàng vạn sinh
linh” Đây đã là một phán đoán về sự tồn tại của thế giới vi sinh
(vi trùng, vi khuẩn,…) mà bằng mắt trần người thời đó khó có thể
kiểm nghiệm lại được. Sự tiên đoán này thì hiển nhiên được khẳng
định từ khi người ta phát minh ra kính hiển vi.
Thay lời kết:
Điểm nổi bật nhất làm cho Phật giáo
đặc sắc so với các tôn giáo khác là việc có nhiều kết luận hay
giáo huấn tương đồng với khoa học và phương pháp luận hiên đại.
Việc phủ nhận đấng sáng thế và việc cho rằng mọi sự việc nếu xảy
ra đều phải tuân theo các qui luật công bằng của thiên nhiên
(nhân quả) đã đưa vị trí của Phật giáo lên ngang hàng với một nền
khoa học chân chính.

Điều đáng gây ngạc nhiên để cho chúng ta và các nhà khoa học tự
đặt câu hỏi và tìm cách trả lời là:
Phật giáo đã ra đời từ hơn
2500 năm trước, khi mà con người chỉ có những công cụ sản xuất thô
sơ. Không có dụng cụ thí nghiệm mà Phật giáo làm thế nào để hoàn
bị được một hệ thống hiểu biết cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá
trị thực dụng của nó?
Để thay cho lời kết luận của phần
này xin trích lại hai câu nói của nhà vật lý học Albert Einstein:
“Nếu
có một tôn giáo nào mà có thể thoả mãn được các đòi hỏi của khoa
học thì nó chính là Phật giáo.”
Bởi Vì
“Phật giáo có những đặc tính mong muốn cho một tôn giáo phổ dụng
của tương lai: Nó vượt quá khả năng thượng đế, tránh khỏi các giáo
điều và các thần linh; nó bao hàm cả bản năng và tinh thần, và nó
dựa trên nhận
thức tôn giáo đòi hỏi mãnh liệt
từ kinh nghiệm
của
vạn vật, từ bản năng
và tinh thần, như là một sự
thống nhất đầy ý
nghiã”
“If
there is any religion that would cope with modern scientific needs
it would be Buddhism.”
"Buddhism has the characteristics of
what would be expected in the cosmic religion for the future: It
trancends a personal God, avoids dogma and theology; it covers
both the natural and the spiritual, and it is based on a religious
sense aspiring from the experience of all things, natural and
spiritual, as a meaningful unity."
—Albert Einstein
Ghi chú :
(*) Sau khi Phật Thích Ca qua đời, thì Tăng đoàn
Phật giáo thời bấy giờ đã trải qua 3 kì kiết Tập nhằm cũng cố và
điều chỉnh các giới luật cũng như hoàn thiện kinh điển. Hầu hết
các kinh điển Phật giáo còn sót lại là có từ 3 tạng kinh của kì
kiết tập thứ 3 này do ngài Mahinda mang từ Ấn Độ sang đão
Sri-Lanka; kinh viết bằng tiếng Phạn (Pali) các kinh điển
này còn lưu giữ nguyên vẹn
Tài liệu Tham
Khảo: