Thế nào là người trí
thức? Ai là trí thức? Các câu hỏi trên chỉ thực sự sáng tỏ khi ta ngừng
trộn lẫn hai danh từ, tuy gần gũi song lại thuộc về hai hệ vấn đề khác
nhau: «người học thức» và «người trí thức».
Bàn về sự xuất hiện của khái niệm «trí thức»
trong bối cảnh lịch sử của nó đòi hỏi một bài viết khá dài, bao gồm vừa sự
trình bày một cuộc tranh luận lý thuyết, vừa sự tường thuật những diễn
biến quan trọng trong hơn 10 năm, vừa sự giới thiệu các nhân vật mấu chốt
của một giai đoạn lịch sử nước ngoài. Vì các quy chiếu về tác phẩm trong phần chú thích đều
phải thu gọn, xin vui lòng sử dụng song song phần Thư Mục.
__________________________________
Hệ quy chiếu của từ «người học thức» hay
người có học là «cái học», và cái học này thì khác nhau, tùy nơi, tùy thời
- về nội dung, về phong cách, về công dụng... Cái học của ta hồi đầu thế
kỷ 19 chẳng hạn là học làm «chính nhân quân tử» của Nho gia, thứ học thuật
đã dẫn dân tộc vào vòng nô lệ, trong khi cái học của Phương Tây là học làm
chủ thiên nhiên, thứ học thuật đã đưa các nước Âu Mỹ lên làm ông chủ của
cả thế giới, và ngày nay đang có khuynh hướng trở thành chuẩn mực toàn
cầu. Hệ quy chiếu của khái niệm «người trí thức», nhìn xa là triết lý
Khai Sáng – thứ triết lý
«hãy dám biết, dám sử dụng khả năng
hiểu biết của chính mình»
để
phê phán tất cả ở Kant -, nhìn gần là các
vụ án Dreyfus năm 1894 và vụ xử Zola năm 1898 ở Pháp - bởi vì chính vào
thời điểm ấy, nơi đây
, mà
«intellectuels» đã xuất hiện như một
thuật ngữ với ý nghĩa
«người trí thức» ta hiểu ngày nay, khi một
dúm người đã «dám biết» rằng người ta đang chà đạp lên
chân lý và
công lý vì cố tình xử oan một kẻ vô tội, và đã «dám đứng dậy» nhân
danh chính những giá trị nhân bản ấy - nhân bản theo nghĩa là nếu không có
chúng, ta không còn là con người - để bênh vực, dù chỉ một cá nhân, chống
lại cả một hệ thống quyền lực (nhà nước, quân đội, một phần nhà thờ và dư
luận), bất chấp mọi nguy hiểm và ngay cả cái chết có thể đang treo lủng
lẳng trên đầu!
Đấy là điểm khác nhau giữa hai hệ quy
chiếu, giữa một từ thông thường (xã hội nào cũng có người học thức, theo
nghĩa là được đào tạo trên cơ sở hệ thống học thuật đương tồn) và một khái
niệm xã hội học (chức năng phê phán
tồn tại trong mọi xã hội, nhưng có chăng loại người
có đủ bản lĩnh và ý chí để đứng ra nhận lãnh nghĩa vụ phê phán đó trong
mọi xã hội?). Nếu «người học thức» đồng nghĩa với «người trí thức», thì kẻ
có nhiều bằng cấp nhất hay có bằng cấp cao nhất (giả định có sự tương ứng
thực sự giữa bằng cấp với vốn học hay trình độ thực học) sẽ đương nhiên là
nhà trí thức lớn nhất, và có lẽ vấn đề «thế nào là người trí thức? và ai
là người trí thức?» cũng không bao giờ cần đặt ra, và sẽ không trở đi trở
lại vào những
«thời điểm chuyển mình» của đất nước như ta thường
chứng kiến. Nhưng ai trong chúng ta lại không cảm nhận sâu sắc rằng vấn đề
trí thức thực chất không đơn giản như vậy? Bàn về người trí thức, nhất là
người trí thức Việt Nam, mà không phân biệt trên nguyên tắc và ngay từ đầu
hai thực thể không hoàn toàn trùng hợp trên, dễ đưa đến những ngộ nhận
hoặc bi đát, hoặc tiếu lâm, có khi cả hai – khi qua dòng lịch sử dân tộc,
cả nhà nho thời xưa lẫn chuyên gia Tây học ngày nay, hoặc đều hoàn toàn có
khả năng và thực sự đã từng làm «người trí thức», hoặc chưa hề có đủ bản
lĩnh và tư cách để được xem là «người trí thức» theo nghĩa hiện đại. Bi
đát như khi người ta đánh giá giới
«trí thức Việt Nam» là những kẻ
«học lóm»,
«thích làm quan»,
«phò chính thống»
. Tiếu lâm như khi người ta liều lĩnh lập thuyết,
định nghĩa trí thức là kẻ
«có khuynh hướng muốn biết»!
Học thức? Trí thức? Hai thực thể hay một?
Chính quyền nào cũng ra công chiêu dụ kẻ có học phục vụ cho hắn, bởi vì
nhà nước nào cũng cần loại người có «tư bản ký hiệu», mặt chữ hay con số.
Nhưng chính quyền nào mà không bị cám dỗ bỏ tù vài anh trí thức, bởi vì có
nhà nước nào lại không sợ bị phê phán, nhất là phê phán đúng? Để thấy rõ
sự nhập nhằng chữ nghĩa này hơn, hãy trở lại với cuộc phân thân, không
phải trên những trang giấy phân tích của Immanuel Kant, mà trên xương thịt
đau đớn của một xã hội giằng co giữa sự thật và dối trá, giữa lẽ phải và
sự sai trái, giữa Dr Jekyll và Mr Hyde (Mr Hyde nhìn từ đỉnh cao của quyền
thế, tất nhiên): xã hội Pháp vào buổi giao thời giữa hai thế kỷ 19 - 20,
trong cơn quằn quại đau đẻ của một loại người mới, qua một bi hài kịch có
đủ cả nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,... và đầy hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, sầu,
bi,... với nhiều chìm nổi, đảo lộn còn hấp dẫn hơn khối phim gián điệp của
Hollywood. Quý độc giả có thể theo dõi cặn kẽ các trang sử trên trong phần
sự kiện (bài II), trước khi trở lại với phần ý tưởng dưới đây.
*
Từ ngày hôm trước, tin rằng sẽ không có một
phiên xử chân thật và công chính, Emile Zola* đã cật lực làm việc trên bản
thảo một bức thư ngỏ gửi tổng thống Félix Faure. Thay vì đưa cho Eugène
Fasquelle phát hành như hai thư trước, lần này ông mang đến giao cho toà
soạn nhật báo
Bình Minh (L’Aurore), vì muốn
nhân cơ hội này buộc tội song song loại báo chí hạ cấp. Hoàn toàn bị chinh
phục bởi giọng văn dõng dạc của tác giả, ông chủ bút Georges Clemenceau*
đề nghị dùng điệp khúc
«tôi buộc tội» ở phần cuối thư làm tựa bài,
và tổ chức một đợt phát hành đặc biệt (300000 ngàn số, với một đội ngũ trẻ
rao bán trên khắp đường phố Paris).
Ngày 13-1-1898, Tôi Buộc Tội
ra mắt độc giả trên suốt trang nhất. Ngày «vĩ đại nhất của Vụ Án»
theo tập ký ức của Léon Blum, cái ngày đã trả lại sức sống và hăng say cho
cuộc vận động vào đúng lúc tuyệt vọng nhất, và đảo ngược hoàn toàn tình
thế. Ở đây, Zola nhận định: «Chỉ ngày hôm nay vụ án mới bắt đầu, bởi vì
chỉ từ hôm nay mới có hai lập trường rõ ràng: một bên, những kẻ có tội
không muốn bị ánh sáng chân lý soi rọi đến; bên kia, những người yêu
chuộng công lý lại sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình để chân lý soi sáng
tất cả». Trước khi dấn thân: «Đưa ra những lời buộc tội này, đâu
phải tôi không biết rằng tôi đã vi phạm các điều 30 và 31 của luật báo chí
được ban hành ngày 29-7-1881, nhằm trừng trị loại tội phỉ báng, nhưng tôi
đã liều thân một cách cố ý» ... «Và hành động mà tôi hoàn tất ở đây hôm
nay chỉ là một phương tiện cách mạng để thúc đẩy cho chân lý và công lý
bùng nổ sớm hơn». Bằng sự thách thức chính quyền: «Lời phản đối
nóng bỏng của tôi chỉ là tiếng thét của tâm hồn. Hãy dám đưa tôi ra trước
tòa đại hình, và dám để cho cuộc điều tra diễn ra giữa thanh thiên bạch
nhật! Tôi chờ»
.
Emile Zola không phải là quân nhân, nếu muốn
truy tố thì phải xử ông công khai trước một tòa án dân sự, và nơi đây, vụ
xử kín Dreyfus của nền công lý chui sẽ phải chường mặt ra trước vành móng
ngựa của công luận, trước hội thẩm đoàn của công dân Pháp. Trong khi chờ
đợi, từ nay mọi người đều biết rằng vụ xử Dreyfus đã không diễn ra một
cách minh bạch, là bất hợp pháp. Đấy là kế hoạch, là thách thức của tác
giả Tôi Buộc Tội.
Quả bom chữ tức tốc gây chấn động trong dư
luận. Nhà báo Octave Mirbeau phát biểu trên tờ Bình Luận: «Bơi
ngược dòng những thành kiến nóng bỏng, đơn thân đòi hỏi sự thật và công lý
trước một đám đông tru tréo, tôi nghĩ đấy là hành động can đảm hiếm có
nhất, cao đẹp nhất mà một người có thể thực hiện»
, trong khi Léon Blum đánh giá Tôi Buộc Tội
là «kiệt tác». Tuy nhiên, vào thời điểm đó, bài viết là
đối tượng của nhiều đả kích hơn là tán thưởng. Tổng Hội Sinh Viên
Paris phổ biến tức thì một thư ngỏ gửi tác giả: «Chúng tôi đặt quân đội
trên mọi nghi ngờ, vì quân đội là biểu hiện cao quý nhất của tổ quốc, và
các vị thống lĩnh quân đội là những người bảo vệ danh dự quốc gia»
.
Ngày 15-1-1898, kiến nghị đầu tiên đòi xét
lại vụ xử đại úy Dreyfus ra mắt trên báo dưới tựa đề Kháng Nghị :
nó chỉ gồm vỏn vẹn có một câu: «Chúng tôi ký tên dưới đây, phản đối sự
vi phạm các hình thức pháp lý trong vụ án năm 1894, và phản đối những bí
ẩn bao quanh phiên xử Esterházy, kiên quyết đòi hỏi phải xét lại vụ án»
.
Ngày hôm đó và liên tiếp trong nhiều ngày sau, số người đồng ý ký tên dưới
kháng nghị trên Bình Minh và Thế Kỷ (Le Siècle) ngày càng
tăng: ngoài một số văn nghệ sĩ và các nghề tự do, đa số thuộc giáo giới
hay sinh viên đại học (một số thạc sĩ [agrégés], nhưng nhiều nhất
là cấp cử nhân [licenciés] văn chương và khoa học), bên cạnh những
thành phần xã hội khác như thương gia, công nhân, ...
Ngày 23-1, Georges Clémenceau phấn khởi viết
trên
Bình Minh:
«Bao trí thức
đến từ mọi góc trời để cùng
tụ tập không lay chuyển trên một ý tưởng, phải chăng đây là điềm lành?»,
từ
«intellectuels» được viết nghiêng (đánh dấu sự hiếm hoi của cách
dùng như danh từ, và có lẽ đã được vay mượn từ một tác giả đương thời là
Henry Berenger*), còn những người ký kiến nghị vẫn tiếp tục được gọi là
«protestataires». Ngày 1-2, Maurice Barrès* bình luận trong mục
Sổ Tay trên
Nhật Báo (Le Journal) về cái gọi là
«Kháng nghị của trí thức!» (
«Protestation des intellectuels!»,
có cả dấu chấm than):
«Tóm lại, không kể dân Do Thái và Tin
Lành, danh sách gọi là trí thức gồm đa số là bọn ngốc với ngoại kiều, cuối
cùng cũng có được một vài anh Pháp tốt bụng». Anatole France* giải
thích:
«Gọi chúng ta là trí thức, người ta muốn phỉ báng trí tuệ»
. Thế là lời chế nhạo được hân hoan chấp nhận từ đấy
như một nhãn hiệu quý phái. Rồi, với thời gian, dòng chữ phản đối trong
kháng nghị hoá thân một cách bất ngờ và quá đáng thành
«Tuyên ngôn
của người trí thức» (
«Manifeste des intellectuels») trong
ký ức tập thể.
Điều quan trọng là từ nay người trí thức có
mặt - nghĩa là dù muốn dù không cũng trở thành đối tượng phải định nghĩa,
đánh giá.
.Đối với viện sĩ Maurice Barrès, đây là
«loại cá nhân
tự thuyết phục mình rằng nền tảng xã hội phải được đặt trên luận lý học,
không biết rằng nó có thể được xây dựng trên nhiều tất yếu chẳng những có
trước mà có thể còn rất xa lạ với trí tuệ cá nhân» và tất nhiên là hắn
chỉ đáng bị chê bai:
«Tất cả các nhà quý tộc của tư duy này cố tình phô
trương là họ không suy nghĩ như số đông hèn hạ» ...
«Các vị ấy
không còn cảm thấy đồng thuận một cách tự phát với nhóm tự nhiên (đồng
bào)
của mình nữa»;hay còn tệ hơn, phỉ nhổ không nhân nhượng:
«Những tên ngu ngốc đáng thương, chúng tự cảm thấy xấu hổ khi phải suy
nghĩ như người Pháp bình thường! Bọn mạo xưng trí thức này là cặn bã tự
nhiên của xã hội trong cố gắng tạo cho mình một thành phần ưu tú... Những
thiên tài đẻ non, những đầu óc nhiễm độc mà tờ Bình Minh ra
sức gom góp đó chỉ đáng được hưởng lòng thương hại độ lượng của chúng ta,
giống như bầy lợn Ấn Độ mà các vị trưởng phòng thí nghiệm Pasteur truyền
cho bệnh dại. Hẳn là những con vật khốn nạn này phải bị giết đi, hay chí
ít cũng phải bị nhốt chặt trong các chuồng thật chắc, nhưng đứng trên bình
diện triết học mà nói, thật là bất công nếu ta chửi rủa chúng. Tình trạng
bi thảm của chúng là điều kiện không thể thiếu cho sự tiến bộ khoa học.
Con chó bị mổ lấy mất bộ óc đã có những đóng góp đáng kể cho ngành tâm
sinh lý học đầy hứa hẹn»
.
Tuy nhiên, định nghĩa phỉ báng xuất sắc nhất
trong năm chỉ xuất hiện như quà Giáng Sinh trên tờ
Miền Đông Cộng Hoà,
không
ký tên:
«Thuộc giống có xương sống, loài có vú, đi hai chân như anh với
tôi, trí thức xuất hiện trên hành tinh của ta khoảng cuối năm
ân huệ 1897. Thường con vật này sống
bằng thịt người, nó nhậu tướng tá như con khác đớp các thầy dòng. Với tính
háu ăn quái lạ, thay vì rễ cây thiến đối với nó đã trở thành nhạt nhẽo, nó
tự làm bít tết thịt thượng cấp, miếng ngon (cao) nhất với nước chấm
Picquart, chứ sao! Đạo của nó: thường là tín đồ Do Thái hay Tin Lành, hiếm
khi là Cơ Đốc. Thần tượng của nó: một tên Do Thái ba chân đã bị tống cho
Quỷ. Loại ký sinh này thường đến từ các Đại Học, nó đặc biệt thích văn
chương, khoa học, ngay cả y khoa. Phát triển tự sinh, chúng sà xuống nước
Pháp như giặc châu chấu, chúng không phá hoại mùa màng mà tấn công vào các
định chế»
.
*
Vấn đề nằm ở chỗ đó: «giặc trí thức» tấn
công vào các định chế! Và đánh ngay vào cái thiết chế quan trọng nhất
trong bối cảnh chiến tranh đang đe dọa: quân đội với bộ máy quân pháp,
trong khi tình thế không thể nào rõ ràng hơn, như bộ trưởng Bộ Chiến Tranh
Jean-Baptiste Billot đã phát biểu ngày 18-11-1896: «Tòa án chiến tranh,
trong cấu tạo bình thường và sau một cuộc hội thẩm cũng bình thường, đã
nhất trí phán quyết [Dreyfus có tội] trong sự hiểu biết đầu đuôi
ngọn nguồn. Hội đồng xét duyệt cũng đã nhất trí bác bỏ đơn khiếu nại của
kẻ bị kết án. Như thế là việc đã xử, và không ai còn được phép trở lui lại
phiên xử nữa»
.Do
đó, đòi xét lại vụ án là điều chắc chắn không thể chấp nhận được: không ai
được phép đánh giá một giả định còn đáng nghi ngờ tương đương với «uy
quyền của việc đã xử»; cũng không ai được phép nâng cá nhân của một
nghi can lên ngang tầm với loại định chế quốc gia thiết yếu như quân đội.
Đấy là quan điểm của bộ máy nhà nước.
Trong xã hội công dân, loại đòi hỏi vô lý
nói trên cũng bị xem là biểu hiện của chứng tự đại hoang tưởng. Trong
Ý Nghĩa Quốc Gia,
Ernest Judet ghi lại lời phản
kháng của một nhân vật đại học:
«May mắn thay, khá nhiều người trong chúng tôi còn là người Pháp chân
chính, và chúng tôi tin tưởng ở tổ quốc. Chúng tôi không thiết làm người
trí thức; đối với chúng tôi, làm người thông minh thôi cũng đã quá đủ» ...
«Trí thức hay thông minh, đấy chính là sự phân biệt, hỡi ôi! một sự đối
lập đáng ghi nhớ». Đối với viện
sĩ Ferdinand Brunetière *: «Chỉ
mỗi sự kiện là mới đây người ta vừa tạo ra từ Trí Thức này để chỉ loại
người sống trong các phòng thí nghiệm và thư viện như một đẳng cấp quý
phái, chỉ sự kiện đó thôi cũng đủ để tố cáo một trong những lệch lạc lố
bịch nhất của thời đại chúng ta, tôi muốn nói cái kỳ vọng nâng các nhà
văn, nhà khoa học, giáo sư, nhà ngữ học lên cấp siêu nhân. Khả năng trí
thức, mà tất nhiên là tôi không hề xem thường, chỉ có giá trị tương đối.
Đối với tôi, trên bình diện xã hội, tôi đánh giá mức tôi luyện của ý chí,
sức mạnh của cá tính, sự chắc chắn trong phán xét và kinh nghiệm thực tiễn
cao hơn. Vì thế, tôi không ngần ngại đặt nhà nông hay thương gia này,
trong số những người tôi quen biết, trên cả nhà sinh học hay toán học kia
mà tôi không muốn nêu tên» ...
«Tôi không thấy với danh nghĩa gì một giáo sư tiếng Tây Tạng có thể cai
trị người khác, hay vì lý lẽ gì một kiến thức dù là độc nhất vô nhị về
chất kinin hay xinconin lại có thể tạo ra cái quyền bắt thiên hạ phải kính
trọng và tuân lệnh» ... «Lá thư Tôi Buộc Tội của Zola là cả một lâu
đài của sự ngu ngốc, ngạo mạn và khiếm nhã. Đối với tôi, việc tiểu thuyết
gia này chĩa bút vào vấn đề quân pháp cũng láo lếu và lố lăng chẳng kém
chi chuyện một đại úy hiến binh chĩa dùi cui vào vấn đề ngữ pháp hay âm
luật
.
Dreyfus có tội, đơn giản vì tòa án chiến
tranh đã xử hắn có tội, thế nên khi đòi xét lại bản án, mấy ông «trí thức»
này chỉ «tự cho mình cái quyền mà họ không có» để «lý sự càn một
cách đầy uy tín về những việc nằm ngoài khả năng của các vị; và, rốt cục,
họ chỉ làm được mỗi việc là gây bối rối, đánh lạc hướng, và làm dư luận
cực kỳ hoang mang. Bởi vì các vị biết những điều chúng ta không biết,
chúng ta đâm ra tin tưởng cả những điều mà họ không biết. Rồi tự nói tự
nghe mãi thành tự tin, các vị ấy áp đặt được cả thói quen tự tin của họ
lên chúng ta»... «Nào phương pháp khoa học, nào tinh hoa của sự thông
minh, nào tôn trọng sự thật; thực ra, tất cả những từ ngữ vĩ đại này chỉ
được dùng để che đậy cao vọng của Chủ nghĩa cá nhân, và cái Chủ nghĩa cá
nhân này, dù nói đi nói lại bao lần cũng không đủ, chính là căn bệnh trầm
kha của thời đại»
.
Ngày 19-1-1898,
Tuyên
Ngôn Vô Sản củanhóm dân biểu thuộc cánh xã hội ở Hạ Viện ra đời:
«Vụ Dreyfus đã trở thành đấu trường rào kín của hai địch thủ tư sản:
bọn cơ hội và bọn tăng lữ. Chúng đồng ý với nhau giam giữ nhân dân trong
điều kiện giám hộ, đè bẹp các công đoàn, nhằm kéo dài bằng mọi cách chế độ
tư bản. Nhưng chúng gây hấn với nhau để chia chác quyền lợi xã hội, tranh
giành quyền khai thác nền Cộng Hòa và bóc lột nhân dân, y hệt như các thị
tộc mọi rợ vẫn thỏa thuận với nhau để cướp bóc, rồi sau đó quay ra tranh
chiến chung quanh chiến lợi phẩm» ...
«Hỡi người vô sản, đừng đầu
quân vào bất cứ phe đảng nào trong cuộc nội chiến này của giai cấp tư sản»
.
Ngay ngày hôm sau, Clémenceau bình luận trên tờ
Bình Minh:
«Các
nhà xã hội chủ nghĩa vừa đưa ra một tuyên ngôn trong đó có đủ thứ hết, trừ
lời kêu gọi công lý và sự đoàn kết vượt lên trên mọi tập hợp chính trị
nhất thời giữa con người với nhau. Khi quyền con người của một cá nhân bị
xúc phạm, sự xúc phạm đó đe dọa nhân quyền của tất cả mọi người»,
trong khi Charles Péguy đánh giá nó
«còn thâm hiểm hơn cả lời tuyên bố
của một bộ trưởng chính phủ»
.
Sự can thiệp này không ngăn
cản tác giả bản tuyên ngôn «vô sản» sản xuất tiếp một kiến nghị đầy khẩu
hiệu:
«Những người
ký tên dưới đây: Tuy không quan tâm đến các nhân vật liên hệ trong vụ
Dreyfus-Esterházy, phản đối sự vi phạm những hình thức pháp lý trong phiên
xử năm 1894, cũng như những sắp đặt mù mờ, ám muội chung quanh chuyện ô
nhục về các tòa án chiến tranh; Căm thù phản đối chủ nghĩa quân phiệt, sự
bất công, nhu nhược, hèn nhát của những kẻ mệnh danh là đại diện cho nền
công lý dân sự và quân sự, cũng như của các giáo phái. Đả đảo bọn áo mão
pháp quan; đả đảo bọn kê-pi, gươm kiếm; đả đảo bọn áo dòng, que nước phép;
đả đảo bộ ba ác hại, tai ương của nhân loại! Trong cuộc khủng hoảng hiện
nay, chúng tôi chống tất cả mọi xâm phạm vào tự do, nhân quyền và công lý.
Đả đảo chủ nghĩa tư bản và sự bóc lột. Đả đảo thói xử kín! Đả đảo bọn sĩ
quan và thầy dòng! Quốc tế các dân tộc muôn năm!»
Nước Pháp bị chia đôi, nhưng đường phân
thủy ở đây không phải là sự đối lập giữa tả với hữu như thường lệ: phe tả
(xã hội chủ nghĩa) và cực tả (vô chính phủ) đã chọn đứng ngoài cuộc như đã
thấy qua
Tuyên Ngôn Vô Sản
và
nghị quyết đấu tranh giai cấp.
Cũng không phải chỉ là đường ranh chủng tộc - thân Do Thái hay bài Do Thái
-, dù sau này triết gia Hannah Arendt đã xem vụ án Dreyfus như khởi điểm
trên con đường dẫn đến chủ nghĩa bài Do Thái hiện đại mà biểu hiện là chế
độ phát xít Đức. Có một cái gì cao, rộng, sâu hơn trong hệ quy chiếu đương
thời của cả hai phía: một bên, quyền lợi quốc gia, truyền thống và văn hoá
Pháp ở «đảng thông minh»; bên kia, những giá trị nhân bản phổ quát của
triết lý Khai Sáng và triết lý Nhân Quyền ở «đảng trí thức».
Trong Thư Gửi Tuổi Trẻ,
Emile Zola kêu gọi giới trẻ và sinh viên xuống đường biểu tình chống
Scheurer-Kestner* (xem bài II): «Hãy trả lời: "Chúng
tôi đi về phía nhân loại, phía chân lý, phía công lý"»
- chân lý và công lý ở đây hiểu như những giá trị phổ quát, tất nhiên phải
được áp dụng cho tất cả mọi người. Và khi ra tòa, trước khi giao việc biện
hộ cho luật sư, nhà văn còn đọc Tuyên Bố Trước Hội
Thẩm Đoàn (Déclaration au jury) như sau: «Tất cả đều có
vẻ chống tôi, Thượng và Hạ Viện, Chính phủ, Quân đội, những tờ báo nhiều
độc giả và phần công luận bị chúng đầu độc. Trong khi tôi chỉ có vỏn vẹn
một ý nghĩ, một lý tưởng [phổ quát] về chân lý và công lý.
Nhưng tôi hoàn toàn an tâm, tôi sẽ thắng ... Tôi không muốn đất
nước tôi sống trong dối trá, trong bất công. Người ta có thể đánh gục tôi
tại đây. Một ngày kia, đất nước này sẽ cám ơn tôi đã cứu danh dự cho nước
Pháp»
.
Đối với
Maurice Barrès, nhà tư tưởng của «đảng
thông minh và khả năng», bọn lý
thuyết gia ở Đại Học - «đám siêu
hình gia lổn nhổn» – «đãlý luận một cách trừu tượng, bất chấp những đòi
hỏi của "chủ nghĩa tương đối",
nghĩa là yêu cầu phán xét tất cả "trong
tương quan với nước Pháp"» ...
«Say đắm trong một thứ chủ
nghĩa Kant bệnh hoạn, họ nhắc đi nhắc lại ... : "Tôi
phải luôn luôn hành động sao cho chính bản thân tôi có thể mong mỏi rằng
hành động của mình được dùng như quy luật phổ quát".
Không đâu, thưa quý vị, hãy để loại từ ngữ vĩ đại, vĩnh cửu, và phổ quát
đó qua một bên, và bởi vì quý vị là người Pháp, hãy lo hành động sao cho
phù hợp với quyền lợi của nước Pháp, ngay từ bây giờ»
.
Charles Maurras cũng chẩn bệnh
tương tự:«Đúng là chủ nghĩa Kant
và thứ đại học phê phán đã được dùng như chất xi-măng để cấu kết bọn trí
thức lại với nhau», tạo cơ hội
cho Barrès khuyên răn: «Phải canh chừng Đại Học. Nó góp tay vào việc
tàn phá những nguyên lý của nước Pháp, hủy não chúng ta; dưới danh
nghĩa
chuyển hoá chúng ta thành công dân của nhân loại, nó đánh ta bật rễ khỏi
đất tổ, đồng thời đánh văng cả lý tưởng quốc gia» .
Chân lý phổ quát ư? Đối với Maurice Barrès :
«Ở mặt trừu tượng, người ta có thể chủ trương luận điểm này hay luận
điểm kia, người ta có thể tùy theo tâm ý mình, ca ngợi hay
dè bỉu quân đội, quân pháp, cuộc đấu
tranh chủng tộc. Nhưng ở đây không có chỗ cho tâm ý, vì
cược đặt [cụ thể] là nước
Pháp, và tất cả những vấn đề trên phải được xem xét dựa trên quyền lợi của
nước Pháp». Nói cách khác: «chỉ có những sự thật của nước Pháp»,
và đó là: một, đối với Charles Maurras chẳng hạn, quốc gia Pháp đang bị đe
dọa bởi «liên hiệp tứ bang» (Do Thái, Tin Lành, Hội Tam Điểm
, và bọn ngoại kiều), do đó, cần được cấu trúc lại
chung quanh 2 định chế vững chắc nhất là quân đội và nhà thờ Cơ Đốc giáo –
vì vậy, Barrès khẳng định: «Không được phàn nàn về chủ nghĩa bài Do
Thái trong thời thế này, khi ai cũng nhận thấy rằng thế lực khổng lồ của
dân Do Thái đang đe dọa "khuynh đảo" nhà
nước Pháp»; và hai, cũng theo Barrès: «Dreyfus hoàn toàn có khả
năng phản bội, điều này tôi kết luận từ sắc tộc của hắn»!
Một quan điểm được
chiến
hữu Edouard Drumont hưởng ứng tức thì: phản bội là «số mạng của hạng
người này, và vận rủa trên sắc tộc này,
tất cả đều là tiền định»
Công lý phổ quát ư? Theo Maurice Barrès,
«chỉ có công lý trong cùng một sắc tộc, trong khi Dreyfus là đại diện của
một sắc tộc khác», do đó, nhất thiết phải xử tội hắn «theo đạo lý
của người Pháp và theo nền công lý của nước Pháp». Mặt khác, «không
thể hủy bỏ quyền tài phán quân sự, bởi vì nhiều lỗi lầm nhỏ và nhẹ ở
thường dân sẽ có những hậu quả vô cùng to lớn, nặng nề khi do quân nhân vi
phạm»
. Đặt lại «uy quyền của việc đã xử» bởi một
toà án chiến tranh, vô hình trung, là đánh vào quân đội. Đối với viện sĩ
Ferdinand Brunetière, bổn phận công dân đầu tiên là phải bênh vực quân
đội: một mặt bởi vì, đúng như «bản năng của quần chúng đã cảm nhận,
trong vụ xử tai tiếng đáng buồn này, bất chấp mọi ngụy biện, quân đội của
nước Pháp, ngày nay cũng như hôm qua, chính là nước Pháp»; mặt khác,
quân đội còn là một bảo đảm cho nền dân chủ, vì «nếu không có quân đội,
chính nền dân chủ cũng có nguy cơ tiêu vong». Và tất nhiên, viện sĩ
Jules Lemaître chỉ có thể hoàn toàn đồng ý: «Hồn ta không phân biệt với
hồn Quân đội. Quân đội chính là tổ quốc tập trung lại và trỗi dậy để bảo
tồn sự trường cửu của mình. Đấy có thể là phần cao quý nhất của tổ quốc
nhìn qua hầu hết các vị tướng lĩnh, và toàn thể đất nước lần lượt nhìn qua
từng quân nhân»
Thật ra, càng phát biểu các nhà tư tuởng của
«đảng thông minh và khả năng» càng phơi bày những luận điểm dễ phản
bác. Chủ nghĩa toàn nhân loại không chỉ xuất phát từ triết lý Khai
Sáng mang quốc tịch Đức với Immanuel Kant, nó còn hiển hiện trong
bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân
Pháp năm 1789. «Thật đáng buồn, đáng lo cho thế kỷ 20 đang khai mở! Một
trăm năm sau tuyên ngôn nhân quyền, một trăm năm sau hành động bao dung và
giải phóng cao quý nhất, người ta lại trở về các cuộc chiến tranh tôn
giáo, về cái ghê tởm và ngu xuẩn nhất trong các thứ cuồng tín»
, với học thuyết về «liên hiệp tứ bang» của
Maurras, với chủ nghĩa bài Do Thái mù quáng của tập đoàn Barrès,
Déroulède, Guérin....
Chân lý đặc thù của nước Pháp ư? Đó là
«Luật pháp đã cúi đầu trước gươm
kiếm», nói như Clémenceau.Và thật
là dễ dàng cho Zola vẽ lại cảnh tượng mà nước Pháp đã và còn đang phơi bày
trước mắt thế giới từ ba năm nay: «một Quốc Hội vì sợ mất nhiệm kỳ nên
không biết dùng nó như thế nào nữa, một chính phủ run rẩy mỗi giờ mỗi phút
sợ bị lật đổ, sau khi đã bỏ rơi đất nước vào tay bọn phản động và kẻ đầu
độc dư luận, bây giờ phải làm thêm những nhượng bộ tai hại nhất, ngỏ hầu
làm chủ được tình thế thêm vài ngày» ... «Mà đã hết đâu, điều nghiêm trọng
và đau đớn nhất là người ta đã để cho cả nước bị đầu độc bởi loại báo chí
hạ cấp, bị nó nhồi sọ một cách vô liêm sỉ nào dối trá, phỉ báng, nào bôi
bẩn, lăng mạ đến mức phát điên. Chủ nghĩa bài Do Thái chỉ là sự khai thác
thô bạo thù hận tổ tông để thức tỉnh nhiệt tình tôn giáo nơi một dân tộc
không còn đủ lòng tin để đến nhà thờ. Chủ nghĩa quốc gia cũng chỉ là sự
khai thác thô bạo tương tự tình yêu nước cao quý, thứ chiến thuật chính
trị ghê tởm có thể dẫn thẳng đến nội chiến, ngày nào người ta có thể
thuyết phục nửa này của quốc gia rằng nửa kia đã phản bội, đã bán đứng
nước Pháp cho ngoại bang, chỉ vì nó có những suy nghĩ khác»
.
Công lý đặc thù của nước Pháp ư? Thử nghĩ
đến tình cảnh này của nước Pháp và đối chiếu với các quốc gia văn minh
khác: «Một toà án chiến tranh thứ nhất đã lầm lẫn kết án kẻ vô tội, vì
không biết đủ luật và vụng về khi xét xử. Một toà án chiến tranh thứ hai
tha bổng kẻ có tội, do đã có thể bị lừa lần nữa bởi một mưu toan dối trá
và gian lận vào loại vô liêm sỉ nhất. Nhưng một toà án chiến tranh thứ ba
còn dám chối bỏ cả điều đã hiển nhiên như ban ngày và lại kết án kẻ vô tội
lần nữa, khi mọi sự đã sáng tỏ, khi được toà án tối cao của quốc gia đặt
vào tay nhiệm vụ vinh quang là sửa đổi ngộ phán. Đấy là điều vô phương cứu
chữa, tội ác lớn nhất đã bị vi phạm. Xưa, Jésus cũng chỉ bị kết án có một
lần! Thà để tất cả sụp đổ, để nước Pháp làm mồi cho loạn phe đảng, để tổ
quốc bốc cháy tan hoang trong tro gạch, để ngay chính quân đội mất danh
dự, còn hơn là thú nhận rằng chiến hữu có thể lầm lạc, tướng lĩnh có thể
là kẻ dối trá và gian lận. Tư tưởng phải bị đóng đinh, gươm kiếm phải tiếp
tục làm vua chúa»
Danh dự của tổ quốc và của quân đội ư?
Charles Péguy trả lời:
«Chúng tôi nói, chỉ một bất công, một tội ác,
một chuyện phi pháp thôi - nhất là khi nó đã được chính thức ghi nhận rồi
xác nhận lại -, một sự phỉ nhổ vào công lý và luật pháp - nhất là
khi nó đã được chấp nhận một cách phổ quát, hợp pháp, và dễ dãi trên cả
nước -, chỉ một tội ác, một bội ước, một điều ô uế như thế thôi là đủ để
làm mất danh dự, để lăng nhục một dân tộc»
. Emile Zola giả định:
«Ví thử cuộc chiến tranh
giữa Pháp với Đức xảy ra nay mai, nước Pháp sẽ bị đặt ngay dưới một đe dọa
kinh khủng: trước cả khi phát súng đầu của trận đánh đầu tiên nổ ra, Đức
quốc công bố tập hồ sơ về Esterházy; tôi nói rằng chưa đánh chúng ta đã là
kẻ chiến bại trước mắt thế giới mà không tự vệ nổi. Cả quân đội ta đã bị
thương tổn nặng trong sự kính trọng và tin tưởng cần phải có đối với cấp
lãnh đạo, ba tòa án chiến tranh của ta bị xác nhận là bất công và hiểm ác,
tất cả cuộc phiêu lưu quái quỷ này phơi bày sự đồi trụy của chúng ta giữa
thanh thiên bạch nhật, và tổ quốc sụp đổ, chúng ta chỉ còn là đất nước của
những kẻ dối trá và gian lận». Trước mắt, một nước Pháp văn minh đang
sửa soạn đón tiếp cả thế giới trong cuộc
Triển Lãm Quốc Tế nhằm kỷ
niệm 100 năm cuộc cách mạng 1789, nhà văn hỏi:
«chúng ta sẽ ăn mừng nền
kỹ nghệ, khoa học, mỹ thuật quốc gia, sẽ trưng bày những thành tựu của ta
trong suốt thế kỷ, liệu chúng ta có dám trưng bày nền công lý quốc gia
chăng?», khi ở đất nước này
«kẻ vô tội bị kết án hai lần, chân lý
bị vùi dập, công lý bị ám sát»?
.
Phát biểu những điều đơn giản trên là rơi
vào chủ nghĩa cá nhân ư? Nhà xã hội học Emile Durkheim trả lời: Thật ra,
«để kết án dễ dàng chủ nghĩa cá nhân, người ta đã trộn lẫn nó với chủ
nghĩa vị lợi hẹp hòi và với chủ nghĩa ích kỷ vị lợi ở Spencer và các nhà
kinh tế» ... Chủ nghĩa cá nhân
«chính là một tôn giáo trong đó con
người vừa là tín đồ, vừa là Thượng Đế»; nói là tôn giáo cá nhân
chủ
nghĩa
, «bởi vì nó lấy con người làm đối tượng, và con người chính là
một cá nhân theo định nghĩa» ...
«Chưa ở đâu quyền cá nhân được khẳng định với nhiều nghị lực hơn, bởi vì
cá nhân ở đây được nâng lên hàng chí thánh». Và nếu cá nhân
«có
quyền nhận hưởng sự tôn kính tôn giáo đó, chính là vì nó mang trong lòng
cái gì đó của cả nhân loại. Chính nhân loại mới là đáng tôn kính và thiêng
liêng; song tính nhân loại lại không hiện hữu toàn bộ trong một đơn vị mà
được phân bố rộng khắp nơi mỗi cá nhân» ... «Rốt cuộc, chủ nghĩa cá
nhân hiểu như trên chính là sự vinh danh, không phải cái thằng tôi này mà
là cá nhân nói chung. Động cơ của nó không phải là chủ nghĩa ích kỷ mà là
cảm tình với tất cả những gì là con người, một lòng trắc ẩn rộng lớn hơn
trước mọi nỗi đau đớn, mọi nỗi thống khổ của người đời, một nhu cầu xoa
dịu hay khắc phục chúng nồng nhiệt hơn, một khao khát công lý lớn hơn»
.
Vâng, đúng là
«giáo điều đầu tiên của
sự tôn thờ con người này là tính tự chủ của lý trí, và nghi thức đầu tiên
của nó là sự tự do suy xét» ...
«Vâng, đúng là chủ nghĩa cá nhân
thường đi đôi với một thứ thuyết chủ trí nào đó, bởi vì tự do tư duy chính
là quyền tự do đầu tiên» ...
Nhưng «điều nó đòi hỏi cho mỗi người
là quyền hiểu biết những gì có thể biết một cách chính đáng; chứ nó
không mảy may xác lập một thứ quyền không có khả năng nào đó tôi không
hiểu nổi» ... Vì thế, khi người ta đòi hỏi một số người phải tuân theo
một ý kiến không phải của họ, thì cũng
«phải biện minh cho bắt buộc
phải tuân hành đòi hỏi trên của họ, trong trường hợp đặc biệt này, bằng
cách chứng minh cho họ thấy rằng họ không có khả năng. Ngược lại, nếu đấy
là một trong những vấn đề thuộc phạm vi của khả năng xét đoán thường tình,
một đòi hỏi từ nhiệm tương tự là hoàn toàn trái với lẽ phải, và do đó, với
điều phải làm» ... « Như vậy, nếu trong thời gian gần đây, một số văn nghệ
sĩ và nhất là các nhà khoa học nghĩ rằng họ phải từ chối tán đồng một phán
quyết mà tính hợp pháp có vẻ đáng nghi ngờ, ... thì đấy không phải là họ
tự ban cho mình đặc quyền nào tôi không biết như một thứ quyền kiểm soát
tối cao trên việc đã xử. Đấy chỉ là, với tư cách con người, họ muốn thực
thi tất cả quyền làm người, và giữ cho mình một vấn đề chỉ tùy thuộc lý
trí mà thôi»
.
*
Thế nào là người trí
thức? Nhìn qua loại tư tưởng và giá trị biểu hiện trong cuộc tranh đấu
điển hình của những người bị hay được gọi là
«đảng trí thức»
nói trên, và nhìn qua phong cách của bản thân con người tiêu biểu nhất là
Emile Zola, chúng ta có thể phác hoạ một mẫu hình lý tưởng về
«người trí thức»,
đối chiếu với những kẻ chắc chắn là cũng thuộc về thành phần có học, song
lại không chia sẻ các tư tưởng và giá trị ấy trong
«đảng thông minh và khả năng».
Trước hết,
có thể định nghĩa «người trí thức» là kẻ làm giao diện giữa nhân
loại với đất nước của anh ta. Một mặt, trí thức là kẻ phải nhân danh con
người, nhân danh lương tri, để du nhập, bảo vệ và truyền bá những giá trị
phổ quát cao quý nhất của loài người (chân lý, công lý, nhân quyền, tự do,
bình đẳng), ngay trên quê hương và ngay trong lòng truyền thống văn hoá
của mình, đối lập với chánh quyền của mình khi cần. Mặt khác, cũngchính
anh ta là kẻ phải nhân danh con người, nhân danh lương tri, để phổ biến và
bênh vực các giá trị đặc thù cùng với những quyền lợi chính đáng nhất của
dân tộc và quốc gia mình (độc lập, tự do, bình đẳng, an ninh, đối với láng
giềng), nếu cần trước toàn thể thế giới.
Nhận diện những giá trị
phổ quát hay đặc thù nói trên, ở mức độ cuộc sống cụ thể hàng ngày, không
phải là điều khó khăn đến mức phải là chuyên gia mới làm nổi. Vấn đề trí
thức, như vậy, không phải chỉ là biết – do đó, trí thức không nhất thiết
phải là người lao động bằng trí óc-, mà thực sự là phát biểu và hành động
– song điều này lại đòi hỏi một tấm lòng - lòng trắc ẩn để trăn trở, lòng
can đảm để hành động như ở Emile Zola.
«Tôi bị ám ảnh, không tài nào ngủ được nữa. Phải tự giải toả thôi. Tôi cảm
thấy hèn nhát nếu cứ giữ im lặng»
.
Rồi nhà văn dấn thân tìm cách giải oan cho Alfred Dreyfus, người ông không
hề quen biết, chưa từng gặp. Với một cái giá phải trả khổng lồ: bản thân
ông và gia đình bị xúc phạm, giấc mơ bước vào Hàn Lâm Viện tiêu tan, Bắc
Đẩu Bội Tinh bị thu hồi, gia sản bị tịch biên, tự do bị tước đoạt, đến nỗi
phải trốn ra nước ngoài lánh nạn, và cuối cùng có lẽ đã chết không phải do
tai nạn mà bị ám sát.
Người trí thức kiểu đó,
khi thành công, vẫn không tự nhìn thấy tầm vóc của mình.
«Giờ đây, khi cuộc tranh đấu đã kết thúc,
tôi không muốn được hoan nghênh hay tán thưởng, ngay cả khi người ta nghĩ
rằng tôi có thể đã là một trong những bàn tay hữu ích. Tôi chẳng có công
lao gì cả. Ý nghĩa của việc phải làm đẹp quá, người quá! Chính chân lý đã
thắng, đâu thể có kết quả nào khác được. Ngay từ giờ phút đầu, tôi đã biết
chắc như thế và biết chắc rằng tôi sẽ tham gia, sự chắc chắn này làm giảm
bớt mức can đảm người ta gán cho tôi. Tất cả chỉ đơn giản như thế».
Ngược lại, vẫn khắc khoải. «Có điều,
tôi phải nói thêm rằng tai cũng như mắt tôi sẽ rộng mở, mãi mãi. Tôi cũng
hơi giống chị An
chút đỉnh, cứ ngày
đêm âu lo rình đường chân trời xem chuyện gì có thể xảy tới, và xin thú
thực luôn rằng tôi hằng nuôi một hy vọng dai dẵng: nhìn thấy chân lý cũng
như công lý một ngày kia tiến đến, đến thật nhiều, từ bao cánh đồng xa
tít, nơi tương lai đâm chồi nẩy lộc. Và đến giờ tôi vẫn chờ»
.
Nhưng Emile không may
bằng chị Anne. Hai chàng kỵ sĩ về kịp, cứu kịp Alfred với Marianne. Nhưng
Zola không còn đó để trông thấy chân lý và công lý chiến thắng, để chào
mừng Dreyfus và nước Pháp tìm lại được danh dự. Để nhìn thấy Clémenceau
lên cầm quyền thủ tướng, Picquart cầm đầu quân đội. Để nhìn thấy lời tiên
tri «một ngày kia, đất nước này sẽ
cám ơn tôi đã cứu danh dự cho nước Pháp»
trở thành hiện thực khi người ta đưa linh cửu ông vào đền Panthéon.
Vinh dự thay, oái oăm
thay cho kẻ sĩ, xin lỗi, cho người trí thức đã viết những dòng này gửi
tổng thống Loubet: «Để đền bù thiệt
hại, người ta hứa với chúng tôi công lý của Lịch Sử. Thứ ấy, giống như
thiên đường của đạo Cơ Đốc, người ta dùng nó để giữ chân những kẻ đã khốn
khổ còn bị đánh lừa này trên mặt đất, khi họ bị cái đói siết họng. Cứ chịu
khổ đi các bạn, cứ ăn tiếp miếng bánh khô bánh lạt của bạn đi, cứ ngủ tiếp
trên đất cứng, trong khi những kẻ sung sướng trên trái đất này thì ngủ
trong chăn êm nệm ấm và sống bằng của ngọt. Cũng thế, cứ để bọn gian ác
đứng trên cao đi, còn kẻ công chính như bạn, cứ để bị đẩy xuống hố. Và
người ta còn hứa thêm: khi chúng ta chết hết, chính chúng tôi sẽ được dựng
tượng. Đối với tôi, như thế cũng được, và tôi còn hy vọng rằng sự trả thù
của Lịch Sử sẽ đứng đắn hơn những thú vui ở thiên đường. Tuy nhiên, một
chút công lý trên thế gian này chắc sẽ làm tôi thỏa mãn hơn»
.
Ở thế giới bên kia, có
lẽ ông sẽ thấy gần gũi hơn với những lời khen tặng này của văn hữu và
chiến hữu Anatole France: «Phải nhắc
lại cuộc đấu tranh của Zola cho công lý và sự thật, có thể nào tôi giữ im
lặng về những kẻ đã hăm hở hãm hại một người vô tội, rồi tự cảm thấy hụt
hẫng nếu người đó được cứu thoát, còn tới tấp tấn công nạn nhân với sự
liều lĩnh tuyệt vọng của nỗi sợ hãi? Làm sao có thể đẩy họ ra khỏi tầm mắt
chúng ta, khi tôi phải cho thấy Zola, tay không và yếu đuối, vẫn sừng sững
trước mặt họ? Giữ im lặng trước những dối trá của họ ư? Như thế là ỉm đi
sự ngay thẳng hiên ngang của ông. Giữ im lặng trước những tội ác của họ ư?
Như thế là ỉm đi phẩm hạnh của ông. Giữ im lặng trước sự nhục mạ và những
điều vu khống họ đã ném theo ông ư? Như thế là ỉm đi những tán thưởng và
vinh dự ông nhận được. Giữ im lặng trước nỗi nhục nhã của họ ư? Như thế là
ỉm đi sự vinh quang của ông. Không, tôi phải nói chứ! Hãy thèm muốn được
như người vừa nằm xuống: ông đã vinh danh tổ quốc của ông và thế gian này
bằng một sự nghiệp vĩ đại, một hành động to tát. Hãy thèm muốn được như
người vừa nằm xuống: vận mệnh và con tim của ông đã dành cho ông số phận
lớn lao nhất. Ông là một thời điểm của ý thức làm người»
Phạm Trọng Luật
===========
THƯ MỤC
Boudet, Jacques. Les Mots de
l’histoire: dictionnaire. Paris: Larousse, 1998.
Bredin, Jean-Denis.
Présentation.
Trong: Zola, Emile.
L’Affaire Dreyfus :la vérité en marche.
Paris: Impr. nationale, 1992. Tr. 7-30
Brunetière, Ferdinand.
Après le procès.
Revue des Deux Mondes, 15-3-1898 & Brunetière, Ferdinand.
Après le procès. Paris: Perrin & Cie, 1898.
Charle, Christophe.
Naissance des
«intellectuels»: 1880-1900. Paris: Les Editions de Minuit, 1990.
DITL (Dictionnaire International des Termes
Littéraires, http://www.ditl.info)
Drouin, Michel
.
Dir.
L’Affaire
Dreyfus. Dictionnaire sous la
dir. de Michel Drouin Paris:
Flammarion, 2006.
Durkheim, Emile.
L’Individualisme et les intellectuels
(1898). Trong: Durkheim, Emile.
La Science sociale et l’action.
Paris: PUF, 1987.
Gervereau, Laurent. Dir.
L’affaire
Dreyfus et le tournant du siècle (1894-1910). Sous la dir. de
Laurent Gervereau et Christophe Prochasson.
Paris: BDIC, 1994.
Johnston, William
M.
The Origin of the Term ‘Intellectual’ in French Novels and Essays of the
1890’s.
Journal of European Studies, 4, 1974, tr. 43-56.
Julliard, Jacques. Dir.
Dictionnaire
des intellectuels français.
Sous la dir. de
Jacques Julliard et Michel Winock1 1 1 . Paris : Ed. du Seuil, 1996. Tr.
390
Kant, Immanuel.
Réponse à la
question: qu'est-ce-que les Lumières? Trong:
La Philosophie
de l'histoire (Opuscules), Paris: Denoel-Gonthier,
1972.
Leymarie, Michel. Dir.
L’Histoire des
intellectuels aujourd’hui. Sous la dir. de Michel Leymarie,
Jean-François Sirinelli. Paris : PUF, 2003.
Ory, Pascal & Sirinelli, Jean-François.
Les Intellectuels en France: de l’affaire Dreyfus à nos jours.
Paris: A. Colin, 1986.
Sirinelli, Jean-François.
Intellectuels et passions françaises. Paris: Fayard, 1990.
Winock
1, Michel. Ed.
L’Affaire Dreyfus.Présentation par Michel Winock1 1 1 .
Paris: Ed. du Seuil, 1998.
Winock
2, Michel.
Le Siècle
des intellectuels. Paris: Ed. du Seuil, 1997.
Zola, Emile.
L’Affaire Dreyfus :la
vérité en marche. Présentation de Jean-Denis Bredin. Paris: Impr.
nationale, 1992.
«Thế nào là Khai Sáng? Đó
là sự thoát ly của con người ra khỏi điều kiện vị thành niên của hắn, do
chính hắn tạo ra, để làm người trưởng thành. Vị thành niên là kẻ không
có khả năng tự vận dụng lấy khả năng hiểu biết mà không có sự lãnh đạo
của người khác, điều kiện vị thành niên do chính hắn phải chịu trách
nhiệm, bởi vì căn nguyên của nó không nằm ở sự thiếu hụt khả năng hiểu
biết, mà ở sự thiếu vắng quyết tâm và can đảm sử dụng nó mà không có sự
điều khiển của người khác. Hãy dám biết. Hãy có can đảm tự sử dụng khả
năng hiểu biết của chính mình. Ðó là phương châm của Khai Sáng»
(«Qu'est-ce-que les Lumières? La sortie de l'homme de sa Minorité,
dont il est lui-même responsable. Minorité, c'est-à-dire incapacité de
se servir de son entendement sans la direction d'autrui, minorité dont
il est lui-même responsable, puisque la cause en réside non dans un
défaut de l'entendement, mais dans un manque de décision et de courage
de s'en servir sans la direction d'autrui. Sapere aude! Aie le courage
de te servir de ton propre entendement. Voilà la devise des Lumières»
(Kant, tr. 46). Vì đây là một bài viết nhắm vào đại chúng của Kant, nên
chúng tôi dịch
entendement (
Vernunft) là
«khả năng hiểu
biết» thay vì
«tri năng» hay
«giác tính» như ở các tác
giả khác.