Đại Học và Trung Dung

Vietsciences- Phùng Hữu Lan- Lê Anh Minh dịch   20/08/2006
 

Phùng Hữu Lan (1895-1990)  

ĐẠI HỌC


Tử Tư

Hai thiên Đại Học Trung Dung trong Tiểu Đái Lễ Ký có ảnh hưởng rất lớn trong triết học Trung Quốc sau này. Chu Hi (1130-1200) xem Đại Học là của Tăng Tử , còn Vương Bách (1197-1274) xem nó là của Tử Tư (cháu nội Khổng Tử).[1] Đại Học nói: «Đạo của Đại Học là làm sáng thêm cái đức sáng, đổi mới dân chúng, và dừng ở chí thiện. Biết dừng thì sẽ định, định rồi sẽ tĩnh, tĩnh rồi sẽ an, an rồi sẽ suy nghĩ, suy nghĩ rồi sẽ đắc. Vật có gốc ngọn, việc có đầu cuối, biết thứ tự trước sau thì gần với đạo. Người xưa muốn làm sáng thêm đức sáng của mọi người thì phải trị quốc (làm cho nước bình yên) trước. Muốn trị quốc thì phải tề gia (chỉnh đốn gia đạo) trước. Muốn tề gia thì phải tu thân (sửa mình) trước. Muốn tu thân thì phải chính tâm (làm cho tâm đúng đắn) trước. Muốn chính tâm thì phải thành ý (làm cho ý chí trở nên thành thực) trước. Muốn thành ý thì phải trí tri (biết tới chốn) trước. Trí tri ở cách vật (phân tích suy xét sự vật). Vật cách thì tri chí. Tri chí thì ý thành. Ý thành thì tâm chính. Tâm chính thì thân tu. Thân tu thì gia tề. Gia tề thì quốc trị. Quốc trị thì thiên hạ bình. Từ thiên tử cho đến dân chúng, tất cả đều lấy tu thân làm gốc. Gốc loạn mà ngọn trị thì không hề có. Cái dầy dặn mà xem mỏng manh, cái mỏng manh mà xem dầy dặn thì chưa hề có. Đó gọi là biết gốc, là biết tới nơi tới chốn.»[2]

Đoạn trên đây là ý tứ chủ yếu của Đại Học, vốn gọi là tam cương lĩnhbát điều mục của Đại Học. Tam cương lĩnh là: minh đức, tân dân, chỉ ư chí thiện. Bát điều mục là: cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Ý nghĩa đoạn văn trên nói chung là rất minh bạch, không cần phải giải thích. Có điều, trí tri cách vật thì ở sau không nói rõ, khiến các học giả đời sau giải thích rất khác nhau. Đấy là điểm tranh luận chủ yếu giữa phái Trình-Chu (Trình Di, Chu Hi) và phái Lục-Vương (Lục Cửu Uyên, Vương Dương Minh) giữa đời Tống đời Minh, bởi lẽ họ có sự giải thích khác nhau đối với trí tri cách vật. Bốn chữ này rất quan trọng trong triết học Trung Quốc, nên không thể không giải thích. Nhưng muốn giải thích nó, thì các học giả về sau ai là người giải thích đúng với nguyên ý của Đại Học? Tuân Tử là đại sư của Nho gia cuối thời Chiến Quốc, đa số Nho gia đời sau đều xuất thân từ môn phái này. Tuân Tử lại nói nhiều đến lễ, nên nhiều thiên trong Đại Đái Tiểu Đái Lễ Ký cũng đa phần dựa trên quan điểm của Tuân Tử mà nói về lễ. Xét mấy chỗ lý luận ở các tiết trên của chương này thì có thể thấy điều đó. Nói về giáo dục thì Đại Đái Lễ Ký chép thẳng thiên Khuyến Học trong Tuân Tử; còn thiên Học Ký trong Tiểu Đái Lễ Ký cũng là lập lại quan điểm của Tuân Tử về giáo dục. Rõ ràng học thuyết của Tuân Tử có ảnh hưởng rất lớn vào đời Tần và đời Hán; lớn hơn nhiều so với mức độ mà học giả đời sau tưởng tượng. 

 
Tuân Tử

Thiên Học Ký chép: «Hệ thống giáo dục thời xưa như sau: lớp học ở gia đình gọi là thục , trường làng gọi là tường , trường huyện gọi là tự , trường tại kinh đô gọi là học . Mỗi năm đều có tuyển sinh vào trường tại kinh đô. Cứ mỗi hai năm thì có một kỳ khảo sát. Năm thứ nhất, xét xem học sinh có đọc hiểu và giải thích được kinh điển không. Năm thứ ba, xét xem học sinh có chú tâm học hành và hoà đồng với tập thể không. Năm thứ năm, xét xem học sinh có học rộng thêm và thân cận với thầy không. Năm thứ bảy, xét xem học sinh thảo luận điều đã học và kết bạn thế nào; đó gọi là tiểu thành (thành tựu nhỏ). Năm thứ chín, học sinh đã hiểu biết các môn học khác nhau và đạt được vốn tri thức khá rồi, có thể đứng vững vàng mà không thối chí; đó gọi là đại thành (thành tựu lớn). Sau đó, học vấn của họ đủ để giáo hoá dân chúng và thay đổi hủ tục, khiến cho người ở gần vui dạ khâm phục, còn người ở xa thì hâm mộ hoài mong. Đó là cái đạo của đại học vậy.»[3]

«Có thể đứng vững vàng mà không thối chí» (cường lập nhi bất phản )  chính là ý «đi mãi mà không trở lại khởi đầu, tức là chuyển hoá» (trường thiên nhi bất phản kỳ sơ tắc hoá hĩ ) được nói trong thiên Bất Cẩu của Tuân Tử. Học Ký xem cái đạo của đại học là khiến học sinh «hiểu biết các môn học khác nhau và đạt được vốn tri thức khá rồi, có thể đứng vững vàng mà không thối chí, [...] học vấn của họ đủ để giáo hoá dân chúng và thay đổi hủ tục, khiến cho người ở gần vui dạ khâm phục, còn người ở xa thì hâm mộ hoài mong». Đại Học thì xem cái đạo của đại học là «cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ». Ý tứ chính yếu của cả hai thì tương đồng. Cái gọi là «đạo của đại học» (đại học chi đạo ) được nói trong Đại Học cũng chính là lấy quan điểm của Tuân Tử mà giải thích.

Thiên Giải Tế của Tuân Tử nói: «Cái nhận biết là tính người, cái có thể được nhận biết là lý của sự vật. Nếu ta lấy nhân tính (có thể nhận biết) để cầu cái lý sự vật (có thể được nhận biết) mà không có gì trở ngại, thì tàn đời hết kiếp cũng không biết hết. Dù ta đã thông suốt lý lẽ sự vật đến muôn vạn cũng không đủ để bao quát hết sự biến đổi của vạn vật. Rốt cuộc ta với kẻ ngu cũng như nhau. Dù ta học tới già và tới lúc con ta trưởng thành thì ta với kẻ ngu cũng như nhau; không biết lỗi lầm, tức là kẻ mê vọng. Cho nên người đi học phải biết dừng. Nhưng dừng ở đâu? Đáp: dừng ở chỗ chí túc (rất đầy đủ). Cái gì gọi là chí túc? Đáp: đó là đức của thánh nhân.»[4]

Đại Học cũng dạy rằng người học phải biết dừng. Dừng ở đâu? Tuân Tử nói dừng ở chỗ chí túc (rất đầy đủ), còn Đại Học nói dừng ở chỗ chí thiện (rất tốt lành). Ý nghĩa của chúng như nhau. Đại Học chép: «Kinh Thi nói: “Kinh đô vuông ngàn dặm là nơi dân dừng lại ở.” Kinh Thi lại nói: “Chim vàng hót ríu rít, đến đậu ở gò đất.” Khổng Tử nói: “Khi dừng thì biết dừng ở chỗ phải dừng. Lẽ nào người lại chẳng bằng chim sao?” Kinh Thi nói: “Văn Vương sâu sắc thay, luôn làm sáng đạo đức của mình, và kính cẩn ở chỗ mình dừng lại.” Khi ngài làm vua thì dừng ở nhân ái; khi làm bề tôi thì dừng ở tôn kính; khi làm con thì dừng ở hiếu; khi làm cha thì dừng ở hiền từ; khi giao thiệp với người trong nước thì dừng ở thành tín»[5]

Tuân Tử xem bậc thánh là người có đức rất đầy đủ (chí túc), và nói: «Thánh nhân là người làm trọn hết mọi bổn phận con người.» (Thánh dã giả, tận luân giả dã ). Ý nghĩa «làm vua thì dừng ở nhân ái, làm bề tôi thì dừng ở tôn kính, làm con thì dừng ở hiếu, làm cha thì dừng ở hiền từ, giao thiệp với người trong nước thì dừng ở thành tín»Đại Học nói tức là làm trọn vẹn hết mọi bổn phận con người vậy.

Hễ con người biết dừng, ắt sẽ hướng đến một mục đích nhất định mà tiến hành. Lòng không lông bông trôi nổi thì định; hễ định thì sẽ tĩnh; hễ tĩnh thì sẽ yên; hễ yên thì sẽ suy tư; hễ suy tư thì sẽ đạt mục đích.

Mạnh Tử nói: «Người ta luôn nói: “Thiên hạ, nước, nhà.” Gốc của thiên hạ là nước; gốc của nước là nhà; gốc của nhà là cá nhân.»[6]

Như vậy, cá nhân là gốc của gia đình, quốc gia, xã hội. Đại Học nói: «Người xưa muốn làm sáng thêm đức sáng của mọi người thì phải trị quốc (làm cho nước bình yên) trước. Muốn trị quốc thì phải tề gia (chỉnh đốn gia đạo) trước. Muốn tề gia thì phải tu thân (sửa mình) trước.» Có lẽ câu ấy dựa theo ý của Mạnh Tử. Tuy nhiên Tuân Tử cũng nói: «Xin hỏi làm việc nước thế nào? Đáp: Ta nghe nói tu thân chứ chưa hề nghe nói làm việc nước. Vua là khuôn mẫu, dân là cái đổ vào khuôn. Khuôn mẫu mà đúng thì cái đổ vào khuôn sẽ đúng. Vua là cái mâm, dân là nước; mâm hình tròn nên nước có hình tròn. Vua là cái chậu, chậu hình vuông nên nước có hình vuông. Vua thích bắn cung thì bầy tôi cũng bắt chước làm theo. Sở Trang Vương thích eo nhỏ, nên triều đình có người phải đói [vì nhịn ăn để có eo nhỏ]. Cho nên nói: Ta nghe nói tu thân chứ chưa hề nghe nói làm việc nước.»[7]

Vua là khuôn mẫu của một nước, cho nên hễ vua tu thân thì người cả nước và thiên hạ đều phải tu thân, thế là nước yên và thiên hạ thái bình. Đại Học nói: «Nghiêu Thuấn lấy nhân ái lãnh đạo thiên hạ mà dân theo. Kiệt Trụ lấy hung bạo lãnh đạo thiên hạ mà dân theo. Khi lệnh vua trái với sở thích của vua, thì dân không theo lệnh ấy. Cho nên quân tử đòi hỏi điều tốt ở mình rồi mới đòi hỏi điều tốt ở người; chừng nào mình không lỗi thì mới trách người. Bản thân mình vô đạo mà đi dạy người đạo đức, xưa nay chưa hề có. Cho nên việc trị nước vốn ở tề gia. Kinh Thi nói: “Cây đào yểu điệu, lá nó sum xuê; gái kia về nhà chồng, ăn ở đúng đắn với người trong nhà.” [Quân tử] ăn ở đúng đắn với người trong nhà, sau mới dạy được dân trong nước. Kinh Thi nói: “Anh ra anh, em ra em.” [Quân tử] ăn ở anh ra anh em ra em, sau mới dạy được dân trong nước. Kinh Thi nói: “Vua mà ăn ở không lỗi lầm thì mới khiến dân bốn phương ngay chính.” Quân tử hễ đúng đắn trong quan hệ cha-con, anh-em, thì dân mới bắt chước.»[8]

Bởi thế, tu thân là gốc của tề gia, trị quốc, và bình thiên hạ. Hơn nữa, việc trị nước là lấy người trị người. Lấy người trị người để không xa khuôn mẫu. Đấy là lời của Trung Dung. Tương tự, Tuân Tử nói: «Thánh nhân lấy bản thân để đo lường sự vật; cho nên lấy bản thân để đo lường người khác, lấy tình cảm của mình để đo lường tình cảm của người.» Lại nói: «Cây thước vuông (ê-ke) 5 tấc làm chuẩn mực cho cả thiên hạ.»[9] Hễ ai đã trau dồi đạo đức (tu thân) ắt sẽ biết «lấy bản thân để đo lường người khác, lấy tình cảm của mình để đo lường tình cảm của người» và trở thành cây thước vuông làm chuẩn mực cho thiên hạ. Đại Học nói: «Nói “làm thiên hạ thái bình là do ở trị yên nước” (bình thiên hạ tại trị kỳ quốc) có nghĩa là khi vua kính trọng người già thì dân trở nên hiếu, kính trọng anh thì dân trở nên đễ, thương xót người cô quả thì dân không bội bạc. Cho nên quân tử có đạo hiệt củ (suy ta ra người). Đạo hiệt củ có nghĩa là: hễ mình ghét điều gì ở bậc trưởng thượng thì chớ làm điều đó cho kẻ dưới; hễ mình ghét điều gì ở kẻ dưới thì chớ làm điều đó cho bậc trưởng thượng; hễ mình ghét điều gì ở người trước thì chớ làm điều đó cho người sau; hễ mình ghét điều gì ở người sau thì chớ làm điều đó cho người trước; hễ mình ghét điều gì ở người bên mặt thì chớ làm điều đó cho người bên trái; hễ mình ghét điều gì ở người bên trái thì chớ làm điều đó cho người bên mặt.»[10]

Đạo hiệt củ tức là «lấy cây thước vuông 5 tấc làm chuẩn mực cho cả thiên hạ».

Muốn tu thân thì trước phải chính tâm (làm cho tâm chính trực), bởi vì bậc thánh thì phải biết Đạo, mà tâm có «hư, nhất, tĩnh» (trống rỗng, tinh nhất, yên tĩnh) thì mới có thể biết Đạo. Tuân Tử nói: «Cho nên nhân tâm ví như nước trong chậu. Đặt chậu ngay ngắn và không động vào nó thì cặn cáu lắng xuống và phần nước ở trên thì trong trẻo, đủ để soi mặt mày râu ria được. Một cơn gió nhẹ thoảng qua, cặn cáu đáy chậu bị động, phần nước trong trẻo ở trên bị loạn, khiến ta không thể soi được hình ảnh đích thực của mình. Tâm ta cũng như thế. Cho nên nếu tâm được dẫn dắt bằng đạo lý và được nuôi dưỡng bằng sự trong sạch thì chẳng có gì khuynh đảo được nó. Có thế, tâm xác định được đúng sai và giải quyết được điều nghi ngờ.»[11]

Đại Học nói: «Nói “tu sửa bản thân là do ở làm cho tâm chính trực” (tu thân tại chính kỳ tâm) có nghĩa là hễ giận dữ thì tâm không chính. Hễ sợ hãi thì tâm không chính. Hễ ham khoái lạc thì tâm không chính. Hễ lo buồn thì tâm không chính.»[12]

Tâm có những trạng thái đó khác nào một cơn gió nhẹ thoảng qua làm cặn cáu ở đáy chậu bị động, phần nước trong trẻo ở trên bị loạn, khiến ta không thể soi được hình ảnh đích thực của mình. Nếu tâm như nước trong cái chậu được đặt ngay ngắn và không bị tác động thì nó sẽ xác định được đúng sai và giải quyết được điều nghi ngờ.

Tuân Tử nói tiếp: «Nếu tâm bị việc nhỏ nhặt dẫn đi, thì sự chính trực bị thay đổi và nội tâm bị chao đảo, như vậy sẽ ta không thể giải quyết được các việc thông thường. Cho nên người thích viết chữ thì nhiều nhưng chỉ có Thương Hiệt là truyền lại, đó là do tâm chuyên nhất vậy; người thích lúa má thì nhiều nhưng chỉ có Hậu Tắc là truyền lại, đó là do chuyên nhất vậy; người thích âm nhạc thì nhiều nhưng chỉ có Quỳ là truyền lại, đó là do chuyên nhất vậy; người thích điều nghĩa thì nhiều nhưng chỉ có Thuấn là truyền lại, đó là do chuyên nhất vậy. Thùy chế tạo cây cung, Phù Du chế tạo mũi tên, còn Nghệ giỏi bắn cung. Hề Trọng chế tạo xe, Đỗ nghĩ cách mắc ngựa vào xe, còn Tạo Phụ giỏi đánh xe. Từ xưa đến nay, chưa từng có ai ôm đồm mà giỏi cả.»[13]

Tức là nếu tâm không chuyên nhất thì tâm sẽ loạn và bất chính. Đại Học nói: «Tâm loạn thì ta nhìn không thấy, nghe không được ăn không ngon.»[14] Đó là cái lỗi do tâm không chuyên nhất. Muốn không vướng phải lỗi đó, đối với một sự vật, ta phải thành thực tìm cầu nó. Đại Học nói: «Khang Cáo nói: “Hãy giống như bảo vệ đứa trẻ sơ sinh.” Lấy lòng thành thực mà cầu sự vật, tuy không trúng, nhưng sai không xa. Chưa từng có kẻ học nuôi con rồi mới lấy chồng.»[15] Tấm lòng mẹ hiền bảo vệ đứa con còn đỏ hỏn là một thí dụ cụ thể về sự thành tâm vậy. Đại Học nói: «Nói “làm thành thực cái ý của mình” (thành kỳ ý) có nghĩa là không tự lừa mình. Như ghét mùi thối, thích sắc đẹp, đó gọi là khiêm tốn với chính mình. Cho nên quân tử phải thận trọng khi ở một mình. Tiểu nhân khi nhàn rỗi thì làm việc quấy, chuyện gì cũng dám làm. Khi gặp người khác thì kẻ tiểu nhân che giấu cái ác của nó và vờ tỏ ra lương thiện. Nhưng quân tử nhìn thấu gan phổi nó, dù nó che giấu cũng vô ích. Đó là vì hễ trong lòng thành thực thì sự thành thực hiện ra mặt. Cho nên quân tử phải thận trọng khi ở một mình. Tăng Tử nói: “Mười mắt nhìn vào, mười tay trỏ vào. Nghiêm trọng thay!” Giàu có thấm mát nhà cửa, đạo đức thấm mát bản thân, tâm quảng đại thì cốt cách quang minh chính đại. Cho nên quân tử phải làm thành thực cái ý của mình.»[16]

Con người thấy mùi thối thì ghét, là thành thực ghét; thấy sắc đẹp thì thích, là thành thực thích. Đó là một thí dụ cụ thể về sự thành thực vậy. Đại Học nói «trong lòng thành thực thì sự thành thực hiện ra mặt» (thành ư trung hình ư ngoại) và «thận trọng khi ở một mình» (thận độc), đều giống với ý của Tuân Tử. Nhưng cái gọi là «một mình» (độc) thì Tuân Tử gọi là «chuyên nhất». Đối với một sự vật, hễ ta chân thực cầu nó, thì tự ta có thể chuyên nhất mà cầu nó. Tuy nhiên, Đại Học khi nói «quân tử thận kỳ độc» là ngụ ý nội tâm và ngoại diện phải nhất trí với nhau, đó là một khác biệt nhỏ với ý của Tuân Tử.

Tâm của chúng ta phải có sự thành thực tìm cầu thì tâm mới không loạn và sẽ trở nên chính trực, tức là «biết dừng thì sẽ định» (tri chỉ nhi hậu hữu định), v.v... Đó là lý do tại sao «kẻ muốn cho tâm chính trực thì trước phải làm thành thực cái ý của mình» (dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý). Cái thành ý đó là do biết dừng (tri chỉ) mà có. Cho nên «muốn thành ý thì phải trí tri (biết tới chốn) trước». «Vật có gốc ngọn, việc có đầu cuối, biết thứ tự trước sau thì gần với đạo.» Biết tới chốn (trí tri) tức là biết điều ấy. Cho nên nói: «Từ thiên tử cho đến dân chúng, tất cả đều lấy tu thân làm gốc. Gốc loạn mà ngọn trị thì không hề có. Cái dầy dặn mà xem mỏng manh, cái mỏng manh mà xem dầy dặn thì chưa hề có. Đó gọi là biết gốc, là biết tới nơi tới chốn.»[17] Biết gốc (tri bản) tức là biết tới chốn. Biết tu thân là gốc, mà lại chuyên nhất và thành thực tu thân, tức là «biết tới chốn thì ý thành thực». Đại Học lại nói: «Đức là gốc, tiền tài là ngọn. Nếu kẻ cai trị lấy ngoại vật làm gốc và lấy nội tâm làm ngọn, tức là tranh giành với dân và dạy họ cướp đoạt nhau.»[18] Biết đức là gốc mà lại chuyên nhất và thành thực «làm sáng thêm cái đức sáng sẵn có ở thiên hạ» (minh minh đức ư thiên hạ ) cũng tức là «biết tới chốn thì ý thành thực».

Tuy nhiên, nếu ta muốn biết gốc ngọn và đầu cuối của sự vật, thì đối với bất kỳ sự vật gì trước tiên ta phải có một số hiểu biết chính xác về chúng. Nếu không, cái mà ta gọi là gốc (hay đầu) ắt không phải là gốc (hay đầu), cái mà ta gọi là ngọn (hay cuối) ắt không phải là ngọn (hay cuối). Bước khởi đầu mà lầm lẫn thì bước tiếp theo sau cũng lầm lẫn luôn. Tuân Tử nói: «Hễ quan sát sự vật mà mà hồ nghi và trong lòng không yên định, thì ta không nhận rõ ngoại vật. Hễ tư tưởng ta không rõ ràng thì ta không thể xác định đúng sai. Đi trong tối tăm thì thấy tảng đá là cọp nằm; thấy đám cây mới trồng là bọn người đang đứng. Đó là mù mịt tối tăm che lấp sáng suốt của mình. Kẻ say rượu đi qua cái mương rộng trăm bước tưởng là cái rãnh rộng nửa bước; rồi cúi người đi qua cổng thành vì tưởng nó là cái cửa nhỏ ở khuê phòng. Đó là rượu làm loạn tinh thần của hắn. Che bớt mắt mà nhìn thì thấy một thành hai, bịt tai lại thì âm thanh nhỏ nghe ra tiếng ù ù. Đó là tư thế làm loạn giác quan. Cho nên trên núi nhìn xuống thấy con trâu thành con dê, nhưng ai tìm dê thì không đi xuống dắt nó đi. Đó là độ xa che lấp độ lớn. Từ chân núi nhìn lên thấy cây cao mười thước như thể đũa ăn cơm, nhưng ai cần đũa chắc không lên núi mà bẻ. Đó là độ cao che lấp độ dài. Nước bị động thì ảnh phản chiếu trên mặt nước cũng dao động, người ta soi bóng trên mặt nước sẽ không biết mình đẹp hay xấu. Đó là tình trạng của nước làm rối loạn. Kẻ mù ngước mặt nhìn trời thì không thấy tinh tú, nhưng người ta không căn cứ vào đó để xác định là có tinh tú hay không. Đấy là cái mù che lấp người mù. Ai theo tình trạng bị che lấp đó mà xác định sự vật, đó là kẻ ngu nhất trên đời. Sự xác định sự vật của kẻ ngu ấy là lấy nghi ngờ giải quyết nghi ngờ, như thế sự phán đoán ắt phải sai. Nếu sai, sao tránh khỏi lỗi lầm?»[19]

Nếu quan sát sự vật mà bị che lấp thì ta sẽ không có hiểu biết chính xác về sự vật đó. Cho nên sự hiểu biết tới nơi tới chốn là nhờ ở phân tích suy xét sự vật (trí tri tại cách vật ). Quảng Nhã (Thích Hỗ) giảng «cách» là tới (cách giả chí dã ), tức là nhìn xuyên thấu hiện tượng của vật để thấy bản lai diện mục của nó, thấy chân tướng của nó. Nếu không, «lấy nghi ngờ giải quyết nghi ngờ, như thế sự phán đoán ắt phải sai». Nhưng muốn thấy chân tướng sự vật thì trước tiên ta chớ để cho tâm bất định. Bởi vì trí tri cách vật đều là hoạt động của tâm, cho nên chúng có quan hệ nhân quả với chính tâm.

TRUNG DUNG

Thiên Trung Dung trong Tiểu Đái Lễ Ký tương truyền là sáng tác của Tử Tư, cháu nội của Khổng Tử. Cho nên thiên Khổng Tử Thế Gia trong Sử Ký nói: «Tử Tư viết Trung Dung.» Thiên Phi Thập Nhị Tử trong Tuân Tử xem Tử Tư và Mạnh Tử là một phái. Ngoài ra, những nghĩa lý được nói trong Trung Dung Mạnh Tử thì tương đồng. Như vậy Trung Dung có lẽ do Tử Tư viết. Tuy nhiên, trong Trung Dung có câu: «Nay trong thiên hạ các xe có trục bánh xe dài bằng nhau, chữ viết thống nhất một kiểu, đức hạnh theo cùng một thứ luân lý.» (Kim thiên hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn, hạnh đồng luân ).  Đó là bối cảnh Trung Quốc sau khi thống nhất ở đời Tần và đời Hán. Trong Trung Dung còn có câu: «[Quả đất] chở núi Hoa và núi Nhạc mà không thấy nặng.» (Tải Hoa Nhạc nhi bất trọng ).  Dường như đó không phải là câu nói của người nước Lỗ.[20] Ngoài ra trong Trung Dung còn có các khái niệm tính , mệnh , thành , minh được giảng rõ ràng hơn trong Mạnh Tử, dường như đây là học thuyết của Mạnh Tử được phát huy thêm. Do đó Trung Dung là sáng tác của phái Mạnh Tử sống vào đời Tần và đời Hán. Vương Bách (1194-1270) nói: «Trung Dung là sáng tác của Tử Tư. [...] Theo ngu ý, văn cú không mạch lạc. Ngày nọ tôi đọc Tây Hán Nghệ Văn Chí thấy chép: Trung Dung Thuyết có hai thiên. [...] Lòng bỗng nghi ngờ, rồi biết thời của Ban Cố ban đầu có hai thiên; hợp lại gây lộn xộn, phải chăng do bàn tay của Tiểu Đái?»[21] Lại nói: «Nay tác giả lấy Trung Dung làm nhan đề của thiên, mà ta không thấy hai chữ Trung Dung ở đầu chương, là tại sao? Chương một nói: Đạo không phải là cái đạo nào khác, không phải là cái đạo có thể rời xa được; đó là đạo Trung Dung vậy. [...] Nhưng chương hai bỗng nói “quân tử Trung Dung”, vậy là không phù hợp chương một, e rằng nó không phải là văn chương của Tử Tư. Sự không mạch lạc này chắc là có nguyên nhân.»[22]

Vương Bách đề xuất hai vấn đề, có thể nói là rất hiểu biết; tiếc rằng đối với đáp án cho vấn đề thứ nhất, ông lấy đoạn sau của Trung Dung phân thành một thiên đặt tên là «Thành Minh» rất vô căn cứ. Còn vấn đề thứ hai, ông lại bắt bẻ từ ngữ. Tuy nhiên, những đề xuất của ông đã gợi mở không ít cho chúng ta. Đọc kỹ nghĩa lý của Trung Dung, ta thấy đoạn đầu (từ «Thiên mệnh chi vị tính» đến «Thiên địa vi yên, vạn vật dục yên») và đoạn cuối (từ «Tại hạ vị bất hoạch hồ thượng» đến « thanh vô xú, chí hĩ») phần lớn nói về quan hệ giữa con người với vũ trụ, dường như đó là khuynh hướng của chủ nghĩa thần bí trong triết học Mạnh Tử được phát huy thêm. Còn văn thể của nó đại khái là loại văn nghị luận. Đoạn giữa (từ «Trọng Ni viết: Quân tử Trung Dung» đến «Đạo tiền định tắc bất cùng») phần lớn nói về nhân sự, dường như đó là học thuyết của Khổng Tử được phát huy thêm. Còn văn thể của nó đại khái là loại văn đối thoại. Từ điểm khác biệt ấy mà suy ra, dường như đoạn giữa mới là bản Trung Dung gốc do Tử Tư viết, tức bản 23 thiên của Tử Tư được liệt kê nơi phần Nho gia trong Hán Thư Nghệ Văn Chí.[23] Còn đoạn đầu và đoạn cuối là do Nho gia đời sau thêm vào, tức hai thiên Trung Dung Thuyết được liệt kê nơi phần 13 quyển sách Lễ trong Hán Thư Nghệ Văn Chí. Câu «Kim thiên hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn, hạnh đồng luân» nằm ở đoạn sau, càng cho ta thấy rõ điều ấy. Tác giả của Trung Dung Thuyết đặt tên sách như vậy, ắt là Nho gia thuộc môn phái Tử Tư, nhưng nội dung lại phát huy học thuyết của Mạnh Tử, nên tác giả ắt là Nho gia thuộc môn phái Mạnh Tử. Bởi vì hai phái này vốn gần gũi nhau, nên thiên Phi Thập Nhị Tử trong Tuân Tử mới gộp thành một phái.

Bây giờ tôi luận đoạn giữa của Trung Dung trước. Trung Dung nói: «Trọng Ni (tức Khổng Tử) nói: Quân tử giữ được Trung Dung, tiểu nhân thì trái lại. Quân tử giữ được Trung Dung nên giữ được sự trung chính tuỳ theo thời. Còn tiểu nhân không giữ được Trung Dung nên việc gì cũng dám làm, chẳng sợ ai cả.»[24]

Hai khái niệm «Trung» và «Dung» là của Khổng Tử (chương Ung Dã của Luận Ngữ có đề cập chúng). Trung Dung lại nói đến «Thời Trung» (trung chính tuỳ theo thời), mà cái Trung trong mọi sự việc của con người thì Aristotle xem là tương đối chứ không tuyệt đối. Ông cho rằng tình cảm và hành vi của con người được bộc lộ khác nhau tuỳ theo thời gian, nơi chốn, và đối tượng tiếp nhận. Cho nên khó mà xác định thế nào mới là Trung.[25] Trung Dung nói Thời Trung thì ý cũng thế.

Mạnh Tử chú trọng chữ Thời, nên nói:

– «Ai không đáng là vua thì không phụng sự, ai không đáng là dân thì không sai khiến. Đời bình thì ra làm quan, đời loạn thì đi ẩn, đó là Bá Di. Phụng sự kẻ không đáng là vua, sai khiến kẻ không đáng là dân; đời bình cũng ra làm quan, đời loạn cũng ra làm quan, đó là Y Doãn. Lúc có thể làm quan thì làm quan, lúc có thể dừng [việc quan] thì dừng, lúc có thể [làm quan] lâu thì lâu, lúc có thể [làm quan] mau thì mau, đó là Khổng Tử.»[26]

– «Bá Di có đức thanh khiết của thánh nhân. Y Doãn có tinh thần trách nhiệm của thánh nhân. Liễu Hạ Huệ có sự ôn hoà của thánh nhân. Khổng Tử có đức tuỳ thời của thánh nhân.»[27]

– «Tử Mạc chấp trung (giữ trung chính), chấp trung thì gần với Đạo. Nhưng chấp trung mà không quyền biến (tức không tuỳ thời mà ứng biến) thì khác gì cố chấp. Ta vốn ghét kẻ cố chấp, và xem hắn là kẻ hại Đạo, vì bo bo lấy một mặt mà vất bỏ trăm mặt khác.»[28]

Mạnh Tử lấy «đức tuỳ thời của thánh nhân» mà khen Khổng Tử. Ngược lại, Bá Di, Y Doãn, Liễu Hạ Huệ đều chỉ có một quy tắc không đổi về việc xuất xử (ra làm quan hay ở ẩn). Luận Ngữ nói: «Có những người, ta có thể đứng chung với họ nhưng chưa thể cùng họ quyền biến.»[29] Đó là thói chấp nhất (hay cố chấp) vậy. Nếu chỉ nói Trung mà không nói Thời, tức là chấp trung mà không biết quyền biến, khác nào chấp nhất. Chấp nhất mà xem là Trung, tức là bo bo lấy một mặt mà vất bỏ trăm mặt khác.

Trung Dung nói: «Khổng Tử nói: “Đạo không xa người. Khi người làm cho Đạo xa mình, thì nó không thể xem là Đạo được nữa.” Kinh Thi nói: “Khi đẽo cán búa, chớ xa cán búa mẫu.” Ta cầm cán búa này để đẽo một cán búa khác, nhưng nhìn hai cán búa thì ta thấy chúng khác xa nhau. Cho nên quân tử lấy người trị người, thì phải cải tạo họ cho thật tốt mới thôi. Cứ giữ Trung (trung thực, hết lòng) và Thứ (tức nguyên tắc hiệt củ) thì sẽ không xa Đạo. Điều gì mình không muốn người ta làm cho mình thì mình chớ làm cho họ. Đạo của người quân tử có bốn điều, thế mà ta chưa được một: Lấy cái mà ta cầu ở con ta, đem ra phụng sự cha ta; ta chưa làm được. Lấy cái mà ta cầu ở bề tôi ta, đem ra phụng sự vua ta; ta chưa làm được. Lấy cái mà ta cầu ở em ta, đem ra phụng sự anh ta; ta chưa làm được. Đối với bạn bè, phải ra tay giúp trước; ta chưa làm được. Quân tử thực hành đức bình thường (dung đức ) và cẩn trọng lời nói bình thường (dung ngôn ). Nếu có gì sơ sót, thì không dám bỏ qua; nếu có gì dư thừa, thì không dám cho là trọn vẹn. Lời nói đi với hành động, hành động đi với lời nói. Quân tử lẽ nào không chăm chăm vào nó?»[30]

Ở đây phát huy đạo Trung Thứ của Khổng Tử. Đạo Trung Thứ tức là suy bụng ta ra bụng người. Đó là lý do tại sao quân tử lấy người trị người, còn phần mình thì không xa lìa khuôn mẫu. Đạo Trung Thứ giản dị như thế, nên gọi là Dung vậy.[31]

Trung Dung nói: «Đạo trong thiên hạ có năm quan hệ (ngũ luân); để thực hành thì có ba đức (tam đức). Năm quan hệ (ngũ luân) trong thiên hạ là: vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn bè. Ba đức trong thiên hạ là: trí , nhân , dũng . Đem ba đức ra thi hành cho ngũ luân, tuy ba đức nhưng coi như một. Về ngũ luân, có người sinh ra đời thì đã biết; có người phải học mới biết; có người gặp nguy khốn mới biết. Tuy nhiên kết quả của sự hiểu biết ấy là một. Có người thi hành đạo ngũ luân rất tự nhiên; có người thi hành nó dễ dàng; có người phải cố gắng lắm mới thi hành được. Tuy nhiên sự thành công của họ thì như nhau. Khổng Tử nói: Kẻ hiếu học thì gần đức trí. Kẻ cố gắng hành đạo thì gần đức nhân. Kẻ biết xấu hổ thì gần đức dũng. Biết ba cái ấy thì sẽ biết tu sửa bản thân. Biết tu thân thì sẽ biết quản lý con người. Biết quản lý con người thì sẽ biết trị thiên hạ và quốc gia.»[32]

Đó cũng chính là học thuyết của Khổng Tử được phát huy thêm, khiến cho ngũ luân (năm mối quan hệ) trở thành Đạo phổ biến của thiên hạ, và khiến tam đức (trí, nhân, dũng; tức là thành tựu của sự tu thân) trở thành Đức phổ biến của thiên hạ. Lấy tam đức mà thực hành ngũ luân, tức là có thể tu thân và trị người.

Trên đây tôi lấy đoạn giữa của Trung Dung mà bình luận. Còn đoạn đầu và đoạn cuối của nó chính là sự thuyết minh có hệ thống về chủ nghĩa phản công lợi trong triết học Mạnh Tử kết hợp với khuynh hướng chủ nghĩa thần bí. Trung Dung nói: «Thiên mệnh (mệnh trời) gọi là Tính. Theo Tính gọi là Đạo. Tu Đạo gọi là Giáo.»[33]

Đại Đái Lễ Ký chép: «Cái được phân ra từ Đạo gọi là Mệnh. Cái thành hình ở mỗi một sự vật gọi là Tính. Cái biến hoá qua Âm Dương và phát ra thành hình gọi là sinh. Cái biến hoá đến cùng tận gọi là tử.»[34]

Trung Dung gọi là Thiên (trời) thì Đại Đái Lễ Ký (Bản Mệnh) gọi là Đạo. «Cái được phân ra từ Đạo gọi là Mệnh. Cái thành hình ở mỗi một sự vật gọi là Tính.» Quan hệ giữa Thiên và Tính theo Nho gia tương đồng với quan hệ giữa Đạo và Đức theo Đạo gia. Thiên chứa nguyên lý đạo đức của vũ trụ, còn Tính là cái mà Thiên «mệnh» (ban cho)[35] người; nói cách khác, tức Tính là cái mà người nhận lãnh được phân ra từ Thiên. Khổng Tử một mặt chú trọng sự biểu lộ chân thực của tính tình cá nhân; mặt khác, ông chủ trương phải lấy lễ tiết chế tình cảm. Trung Dung một mặt cũng chủ trương «suất Tính» (noi theo Tính); một mặt lại chủ trương lấy «Giáo» (giáo hoá) để tu sửa Tính. Trung Dung nói: «Vui, giận, buồn, sướng chưa phát lộ ra thì gọi là Trung; phát ra mà có chừng mực thì gọi là Hòa.»[36] Vui, giận, buồn, sướng đều là những tình cảm tự nhiên, tất phải phát lộ ra. Nhưng ta phải lấy «Giáo» (giáo hoá) để tu sửa chúng, để cho sự phát lộ ấy không thái quá cũng không bất cập, tức là có chừng mực.

Triết học của Mặc gia khác với triết học của Nho gia. Nho gia thì «làm cho ý nghĩa trở nên chính đáng mà không mưu lợi; làm rõ Đạo mà không kể công»[37] nhưng Mặc Tử chuyên chú trọng lợi và công. Theo Nho gia, người không kể đến công và lợi thì cho rằng ý nghĩa và giá trị của hành vi chúng ta nằm ngay ở tự thân hành vi ấy chứ không ở bên ngoài nó. Trung Dung ủng hộ thái độ nhân sinh ấy bằng một căn cứ siêu hình: «Kinh Thi nói: “Mệnh Trời sâu kín và chẳng ngừng nghỉ!” Ý nói Trời sở dĩ như thế mới là Trời. [Kinh Thi lại nói:] “Ôi! Không hiển lộ! Đức của Văn Vương thuần.” Ý nói Văn Vương sở dĩ là Văn Vương vì đức của ngài thuần và chẳng ngừng nghỉ.»[38]

Trung Dung lại nói: «Cho nên bậc chí thành thì không ngừng nghỉ. Không ngừng nghỉ thì lâu dài. Lâu dài thì tự thể hiện. Tự thể hiện thì đi xa. Đi xa thì rộng và dày. Rộng dày thì cao minh. Rộng dày thì chở được mọi vật. Cao minh thì che chở được mọi vật. Đi xa thì thành tựu mọi vật. Rộng dày thì phối hợp với đất. Cao minh thì phối hợp với Trời. Đi xa không biên giới. Như vậy, không hiện ra mà sáng. Không hành động mà biến đổi. Vô vi mà thành tựu. Đạo của Trời đất có thể tóm lại một lời: Trời và đất cùng tạo ra vạn vật, sự sáng tạo ấy không thể đo lường nổi. Đạo của Trời đất thì rộng, dày, cao vời, sáng sủa, đi xa, lâu dài.»[39]

Trời (Thiên) hoạt động không ngừng, không vì riêng ai mà làm. Quân tử lấy Trời làm phép tắc, cho nên cũng phải tự lực tự cường không ngừng nghỉ, không vì riêng ai mà làm.

Tôi đã nói trong triết học của Mạnh Tử có khuynh hướng chủ nghĩa thần bí. Trung Dung càng phát triển thêm khuynh hướng ấy, cho rằng «cái đạo hợp nhất trong và ngoài» (hợp nội ngoại chi đạo ) là cảnh giới tối cao trong sự tu dưỡng của con người. Trong cảnh giới ấy, tuy sự sống vẫn hoạt động và sự vật vẫn tiếp tục, nhưng không còn nữa sự phân biệt giữa trong với ngoài, giữa ta với người. Cái mà Trung Dung gọi là Thành dường như ám chỉ cảnh giới đó. Trời (Thiên) vốn là Thành, vì Trời vốn không phân biệt trong với ngoài. Trung Dung nói: «Thành là đạo của Trời; đạt được Thành là đạo của người. [...] Từ Thành mà trở nên Minh (sáng suốt) gọi là Tính; từ Minh mà trở nên Thành gọi là Giáo (giáo hoá). Hễ Thành thì sẽ Minh, hễ Minh thì sẽ Thành.»[40]

Thành là đạo Trời và con người phải dùng đến «giáo» (giáo hoá) để «tự minh» (tự soi sáng, giác ngộ) và rồi đạt tới Thành. Vì thế nói Thành là đạo của người. Trung Dung nói: «Thành là khởi đầu và kết thúc của vạn vật. Không có Thành thì không có vạn vật. Do đó, quân tử xem Thành là quý. Thành không chỉ là hoàn thiện bản thân, mà còn phải hoàn thiện vạn vật. Hoàn thiện bản thân là nhân ái; hoàn thiện vạn vật là trí. Nhân và trí là hai đức của Tính. Có hai đức ấy tức là hợp nhất ngoài và trong. Cho nên quân tử luôn thi hành đúng nghi thức.»[41]

Trung Dung xem «hoàn thiện bản thân và vạn vật» là «đạo hợp nhất ngoài và trong»; giống như Schopenhauer nói «sự nghiệp nhân ái» (ái chi sự nghiệp ) vượt trên «nguyên lý cá tính» (principium individutionis). Thành là đức của Tính. Giáo không thể lấy bất cứ gì ở bên ngoài để thêm vào Tính, mà nó chỉ trợ giúp Tính phát triển trọn vẹn thôi. Trung Dung nói: «Trong thiên hạ, hễ ai chí thành thì mới có thể phát triển cùng tận Tính của mình. Phát triển cùng tận Tính của mình thì mới có thể phát triển cùng tận Tính của người. Phát triển cùng tận Tính của người thì mới có thể phát triển cùng tận Tính của mọi vật. Phát triển cùng tận Tính của mọi vật thì mới có thể trợ giúp sự hoá dục của Trời đất. Có thể trợ giúp sự hoá dục của Trời đất thì có thể phối hợp với Trời đất.»[42]

Cái Tính của người và vật đều là một phần của Trời, nên ai có thể phát triển cùng tận Tính của mình thì sẽ có thể phát triển cùng tận Tính của mọi người và mọi vật. Người chí thành là người không còn phân biệt ngoài với trong, không còn thấy người với ta, tức là đạt cảnh giới ta với vạn vật là một thể. Đã hoà làm một thể với vạn vật tức là có thể trợ giúp sự hoá dục của Trời đất và phối hợp với Trời đất. Hạng người như thế có đức của thánh nhân, nếu ngồi ở địa vị thiên tử ắt sẽ có thể «nghị luận về lễ, lập ra các định chế, khảo sát văn chương» (nghị lễ, chế độ, khảo văn) được.

Trung Dung nói: «Cho nên đạo của quân tử [ở cương vị cai trị] gốc ở bản thân rồi thể hiện nơi thứ dân. Xét các định chế của Tam Vương (Vũ, Thang, Văn) thì thấy các định chế của mình không sai lầm. Sự kiến lập các định chế ấy không trái ngược với Trời đất. Trước quỷ thần, mình không có gì nghi ngại. Dù thánh nhân của trăm đời sau cũng không ngờ vực mình. Trước quỷ thần, mình không có gì nghi ngại: đó là mình biết Trời. Dù thánh nhân của trăm đời sau cũng không ngờ vực mình: đó là mình biết người. Cho nên, cử động của quân tử trở thành gương đạo đức cho muôn đời, sự thi hành trở thành khuôn phép cho muôn đời, lời nói trở thành quy tắc cho muôn đời. Người ở xa hoài mong; kẻ ở gần không chán ghét. Kinh Thi nói: “Ở đây không ai ghét, ở kia không ai đố kỵ; ngày đêm luôn như thế, thì mãi mãi được tiếng khen.” Nếu quân tử không cư xử được như thế, làm sao sớm được thiên hạ khen?»[43]

Khi bậc quân tử như thế ngồi trên ngai vàng, hẳn sẽ trị thiên hạ bằng ảnh hưởng của mình. Trong tình hình đó, thế giới sẽ: «Vạn vật nuôi dưỡng nhau mà không làm hại nhau. Mọi nguyên tắc cùng thi hành mà không trái ngược nhau. Đức nhỏ như sông chảy. Đức lớn đôn hậu biến hoá. Trời đất do đó mà lớn lao vậy.»[44]

Cứ theo đó thì thấy phần lớn của Trung Dung là tư tưởng Mạnh Tử, còn phần lớn của Đại Học là tư tưởng Tuân Tử. Hai thiên Trung Dung Đại Học có thế lực rất lớn trong triết học Trung Quốc. Và chẳng phải ngẫu nhiên mà trong thời Chiến Quốc hai thiên ấy đại biểu cho hai phái lớn của Nho gia do Mạnh Tử và Tuân Tử dẫn đầu.

 

Lê Anh Minh dịch và phụ chú

Nguồn: Phùng Hữu Lan , Trung Quốc Triết Học Sử , Hương Cảng 1956. Trích dịch hai tiết 7 và 8 của chương 14 (Nho gia đời Tần và đời Hán) trong thiên thứ nhất. Phụ chú của người dịch ghi là LAM chú.

 

CHÚ THÍCH:

[1] LAM chú: Tử Tư 子 思 (483-402 TCN) tức Khổng Cấp 孔 伋 , cháu nội Khổng Tử. Sử Ký (Khổng Tử Thế Gia) chép: «Khổng Tử sinh ra Lý , tự là Bá Ngư 伯 魚 . Bá Ngư sinh ra Cấp , tự là Tử Tư 子 思 .» Tương truyền Tử Tư là học trò của Tăng Sâm 僧 參 và là thầy của Lỗ Mục [Mậu] Công 魯 繆 公 . Đời Bắc Tống, vua Huy Tông 徽 宗 truy phong Tử Tư là Cân Thuỷ Hầu 沂 水 侯 ; đời Nguyên, vua Văn Tông 文 宗 truy phong Tử Tư là Thuật Thánh Công 述 聖 公 , đời sau gọi ngài là Thuật Thánh 述 聖 .

[2] «Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện. Tri chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng an, an nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc. Vật hữu bản mạt, sự hữu chung thuỷ, tri sở tiên hậu, tắc cận đạo hĩ. Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật. Vật cách nhi hậu tri chí. Tri chí nhi hậu ý thành. Ý thành nhi hậu tâm chính. Tâm chính nhi hậu thân tu. Thân tu nhi hậu gia tề. Gia tề nhi hậu quốc trị. Quốc trị nhi hậu thiên hạ bình. Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản. Kỳ bản loạn nhi mạt trị giả phủ hĩ. Kỳ sở hậu giả bạc, nhi kỳ sở bạc giả hậu, vị chi hữu dã. Thử vị tri bản, thử vị tri chi chí dã.» 大 學 之 道 , 在 明 明 德 , 在 親 ( ) , 在 止 於 至 善 . 知 止 而 後 有 定 , 定 而 後 能 安 , 安 而 後 能 慮 , 慮 而 後 能 得 . 物 有 本 末 , 事 有 終 始 , 所 先 後 , 則 近 道 矣 . 古 之 欲 明 明 德 於天 下 者 , 先 治 其 國 . 欲 治 其 國 者 , 先 齊 其 家 . 欲 齊 其 家 者 , 先 修 其 身 . 欲 修 其 身 者 , 先 正 其 心 . 欲 正 其 心 者 , 先 誠 其 意 . 欲 誠 其 意 者 , 先 致 其 知 . 致 知 在 格 物 . 物 格 而 後 知 至 . 知 至 而 後 意 誠 . 意 誠 而 後 心 正 . 心 正 而 後 身 修 . 身 修 而 後 家 齊 . 家 齊 而 後 國 治 . 國 治 而 後 天 下 平 . 自 天 子 至 於 庶 人 , 壹 是 皆 以 修 身 為 本 . 其 本 亂 而 末 治 者 否 矣 . 其 所 厚 者 薄 , 而 其 所 薄 者 厚 , 未 之 有 也 , 此 謂 知 本 , 此謂 知 之 至 也 .

[3] Lễ Ký (Học Ký): «Cổ chi giáo giả, gia hữu thục, đảng hữu tường, thuật hữu tự, quốc hữu học. Tỷ niên nhập học, trung niên khảo hiệu. Nhất niên thị ly kinh biện chí, tam niên thị kính nghiệp lạc quần. Ngũ niên thị bác tập thân sư. Thất niên thị luận học thủ hữu, vị chi tiểu thành. Cửu niên tri loại thông đạt, cường lập nhi bất phản, vị chi đại thành. Phù nhiên hậu túc dĩ hoá dân dịch tục, cận giả duyệt phục, nhi viễn giả hoài chi, thử đại học chi đạo dã.» 古 之 教 者 , 家 有 塾 , 黨 有 庠 , 術 有 序 , 國 有 學 . 比 年 入 學 , 中 年 考 校 . 一 年 視 離 經 辨 志 . 三 年 視 敬 業 樂 群 . 五 年 視 博 習 親 師 . 七 年 視 論 學 取 友 , 謂 之 小 成 . 九 年 知 類 通 達 , 強 立 入 不 反 , 謂 之 大 成 . 夫 然 後 足 以 化 民 易 俗 , 近 者 悅 服 而 遠 者 懷 之 , 此 大 學 之 道 也 .

[4] Tuân Tử (Giải Tế): «Phàm dĩ tri, nhân chi tính dã. Khả dĩ tri, vật chi lý dã. Dĩ khả dĩ tri nhân chi tính, cầu khả dĩ tri vật chi lý, nhi vô sở nghi chỉ chi, tắc một thế cùng niên, bất năng biến dã. Kỳ sở dĩ quán lý yên tuy ức vạn, dĩ bất túc dĩ tiếp vạn vật chi biến. Dữ ngu giả nhược nhất. Học, lão thân trưởng tử, nhi dữ ngu giả nhược nhất, do bất tri thác, phù thị chi vị vọng nhân. Cố học dã giả, cố học chỉ chi dã. Ô hồ chỉ chi? Viết: chỉ ư chí túc. Hạt vị chí túc? Viết: thánh dã.» 凡 以 知 , 人 之 性 也 . 可 以 知 , 物 之理 也 . 以 可 以 知 人 之 性 , 求 可 以 知 物之 理 , 而 無 所 疑 止 之 , 則 沒 世 窮 年 不能 遍 也 . 其 所 以 貫 理 焉 雖 億 萬 , 已 不足以 浹 萬 物 之 變 . 與 愚 者 若 一 . , 老 身 長 子 , 而 與 愚 者 若 一 , 猶 不 知 錯 , 夫 是 之 謂 妄 人 . 故 學 也 者 , 固 學 止 之 也 . 惡 乎 止 之 ? 曰 止 於 至 足 . 曷 謂 至 足 ? 曰 聖 也 .

[5] Lễ Ký (Đại Học): «Thi vân: “Bang kỳ thiên lý, duy dân sở chỉ.” Thi vân: “Mân man hoàng điểu, chỉ ư khâu ngung.” Tử viết: “Ư chỉ tri kỳ sở chỉ, khả dĩ nhân nhi bất như điểu hồ?” Thi vân: “Mục mục Văn Vương, ư tập hi kính chỉ.” Vi nhân quân chỉ ư nhân. Vi nhân thần chỉ ư kính. Vi nhân tử chỉ ư hiếu. Vi nhân phụ chỉ ư từ. Dữ quốc nhân giao chỉ ư tín.» 詩 云 : 邦 畿 千 里 , 惟 民 所 止 . 詩 云 : 緡 蠻 黃鳥 , 止 於 丘 隅 . 子 曰 : 於 止 知 其 所 止 , 可 以 人 而 不 如 鳥 乎? 詩 云 : 穆 穆 文 王 , 於 緝 熙敬 止 . 為 人 君 止 於 仁 . 為 人 臣 止 於 敬 . 為 人 子 止 於 孝 . 為 人 父 止 於 慈 . 與 國 人 交 止 於 信 .

[6] Mạnh Tử - Ly Lâu (thượng): «Nhân hữu hằng ngôn, giai viết: “Thiên hạ quốc gia.” Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân.» 人 有 恆 言 , 皆 曰 : 天 下 國 家 . 天 下 之本 在 國 , 國 之 本 在 家 , 家 之 本 在 身 .

[7] Tuân Tử (Quân Đạo): «Thỉnh vấn vi quốc? Viết: văn tu thân, vị thường văn vi quốc dã. Quân giả, nghi dã; dân giả cảnh dã, nghi chính nhi cảnh chính. Quân giả, bàn dã; dân giả thuỷ dã, bàn viên nhi thuỷ viên. Quân giả vu dã, vu phương nhi thuỷ phương. Quân xạ tắc thần quyết. Sở Trang Vương hiếu tế yêu, cố triều hữu ngạ nhân. Cố viết: Văn tu thân, vị thường văn vi quốc dã.» 請 問 為 國 ? : 聞 修 身 , 未 嘗 聞 為 國也 . 君 者 儀 也 ; 民 者 景 也 . 儀 正 而 景 正 . 君 者 槃 也 ; 民 者 水 也 , 槃 圓 而 水 圓 . 君 者 盂 也 , 盂 方 而 水 方 . 君 射 則 臣 決 . 楚 莊 王 好 細 腰 , 故 朝 有 餓 人 . 故 曰 : 聞 修身 , 未 嘗 聞 為 國 也 . – LAM chú: Bản chữ Hán của Phùng Hữu Lan chép thiếu «dân giả cảnh dã» «dân giả thuỷ dã», tôi đã bổ sung.

[8] Lễ Ký (Đại Học): «Nghiêu Thuấn suất thiên hạ dĩ nhân, nhi dân tòng chi. Kiệt Trụ suất thiên hạ dĩ bạo, nhi dân tòng chi. Kỳ sở lệnh phản kỳ sở hiếu, nhi dân bất tòng. Thị cố quân tử hữu chư kỷ nhi hậu cầu chư nhân, vô chư kỷ nhi hậu phi chư nhân. Sở tàng hồ thân bất thứ, nhi năng dụ chư nhân giả, vị chi hữu dã. Cố trị quốc tại tề kỳ gia. Thi vân: “Đào chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn, chi tử vu quy, nghi kỳ gia nhân.” Nghi kỳ gia nhân, nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân. Thi vân: “Nghi huynh nghi đệ.” Nghi huynh nghi đệ, nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân. Thi vân: “Kỳ nghi bất thắc, chính thị tứ quốc.” Kỳ vi phụ tử huynh đệ túc pháp, nhi hậu dân pháp chi dã.» 堯 舜 率 天 下 以 仁而 人 從 之. 桀 紂 率 天 下 以 暴 而 民 從 之. 其 所 令 反 其 所 好 而 民 不 從. 是 故 君 子 有 諸 己 而 後 求 諸人 , 無 諸 己 而 後 非 諸 人. 所 藏 乎 身 不 恕 而 能 喻 諸 人 者 , 未 之 有 也 . 故 治 國 在齊 其 家 . 詩 云 : 桃 之 夭 夭 , 其 葉 蓁 蓁 , 之 子 于 歸 , 宜其 家 人 . 宜 其 家 人 而 後 可 以 教 國 人 . 詩 云 : 宜 兄 宜 弟 . 宜 兄 宜弟 而 後 可 以 教 國 人. 詩 云 : 其 儀 不 忒 正是 四 國 . 其 為 父 子 兄 弟 足 法 而 後 民 法 之 也 .

[9] Tuân Tử (Phi Tướng): «Thánh nhân giả, dĩ kỷ đạc giả dã. Cố dĩ nhân đạc nhân, dĩ tình đạc tình.» 聖 人 者 以 己 度 者也 . 故 以 人 度 人 , 以 情 度 情 . – Tuân Tử (Bất Cẩu): «Ngũ thốn chi củ, tận thiên hạ chi phương dã.» 五 寸 之 矩 , 盡 天 下 之 方 也 .

[10] Lễ Ký (Đại Học): «Sở vị bình thiên hạ tại trị kỳ quốc giả, thượng lão lão nhi dân hưng hiếu, thượng trưởng trưởng nhi dân hưng đễ, thượng tuất cô nhi dân bất bội. Thị dĩ quân tử hữu hiệt củ chi đạo dã. Sở ố ư thượng, vô dĩ sử hạ, sở ố ư hạ, vô dĩ sự thượng; sở ố ư tiền, vô dĩ tiên hậu, sở ố ư hậu, vô dĩ tòng tiền; sở ố ư hữu, vô dĩ giao ư tả, sở ố ư tả, vô dĩ giao ư hữu; thử chi vị hiệt củ chi đạo.» 所 謂 平 天 下 在 治其 國 者 , 上 老 老 而 民 興 孝 , 上 長 長 而 民 興 弟 , 上 恤 孤 而 民 不 倍 . 是 以 君 子 有 絜 矩 之 道 也 . 所 惡 於 上 毋 以 使 下 , 所 惡 於 下 毋 以 事 上 ;所 惡 於 前 , 毋 以 先 後 , 所 惡 於 後 , 毋 以 從 前 ; 所惡 於 右 , 毋 以 交 於 左 , 所 惡 於 左 , 毋 以 交 於 右 ; 此 之 謂 絜 矩 之 道 .– LAM chú: Hiệt là đo lường, củ là cây thước vuông (ê-ke), hiểu rộng là chuẩn mực hay phép tắc đo lường. Đạo hiệt củ (hay nguyên tắc hiệt củ) có thể tóm gọn bằng câu nói: «Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.» 己 所 不 欲 勿 施 於人 (Cái gì mình không muốn kẻ khác gây cho mình thì mình đừng làm điều đó cho họ.) [Luận Ngữ - Vệ Linh Công]

[11] Tuân Tử (Giải Tế): «Cố nhân tâm thí như bàn thuỷ, chính thác nhi vật động, tắc trạm trọc tại hạ, nhi thanh minh tại thượng, tắc túc dĩ kiến tu mi nhi sát lý hĩ. Vi phong quá chi, trạm trọc động hồ hạ, thanh minh loạn ư thượng, tắc bất khả dĩ đắc đại hình chi chính dã. Tâm diệc như thị hĩ. Cố đạo chi dĩ lý, dưỡng chi dĩ thanh, vật mạc chi khuynh, tắc túc dĩ định thị phi quyết hiềm nghi hĩ.» 故 人 心 譬 如 槃 水 , 正 錯 而 勿 動 , 則 湛 濁 在 下 , 而 清 明 在 上 , 則 足 以 見 鬚 眉 而 察 理 矣 . 微 風 過 之 , 湛 濁 動 乎 下 , 清 明 亂 於 上 , 則 不 可 以 得 大 形 之 正 也 . 心 亦 如 是 矣 . 故 導 之 以 理 , 養 之 以 清 , 物 莫 之 傾 , 則足 以 定 是 非 決 嫌 疑 矣 .

[12] Lễ Ký (Đại Học): «Sở vị tu thân tại chính kỳ tâm giả, tâm hữu sở phẫn chí, tắc bất đắc kỳ chính. Hữu sở khủng cụ, tắc bất đắc kỳ chính. Hữu sở hiếu lạc, tắc bất đắc kỳ chính. Hữu sở ưu hoạn, tắc bất đắc kỳ chính.» 所 謂 修 身 在 正 其 心 者 , 心 有 所 忿 懥 , 則 不 得 其 正 . 有 所 恐 懼 , 則 不 得 其 正 . 有 所 好 樂 , 則 不 得 其 正 . 有 所 憂 患 , 則 不 得 其 正 .

[13] Tuân Tử (Giải Tế): «Tiểu vật dẫn chi, tắc kỳ chính ngoại dịch, kỳ tâm nội khuynh, tắc bất túc dĩ quyết thứ lý hĩ. Cố hiếu thư giả chúng hĩ, nhi Thương Hiệt độc truyền giả, nhất dã; hiếu giá giả chúng hĩ, nhi Hậu Tắc độc truyền giả, nhất dã. Hiếu nhạc giả chúng hĩ, nhi Quỳ độc truyền giả, nhất dã; hiếu nghĩa giả chúng hĩ, nhi Thuấn độc truyền giả, nhất dã. Thùy tác cung, Phù Du tác thỉ, nhi Nghệ tinh ư xạ. Hề Trọng tác xa thặng, Đỗ tác thặng mã, nhi Tạo Phụ tinh ư ngự. Tự cổ cập kim, vị thường hữu lưỡng nhi năng tinh giả dã.» 小 物 引 之 , 則 其 正 外 易 , 其 心 內 傾 , 則 不 足 以 決 庶 理矣 . 故 好 書 者 眾 矣 而 倉 頡 獨 傳 者 , 壹 也 ; 好 稼 者 眾 矣 , 而 后 稷 獨 傳 者 , 壹 也 . 好樂 者 眾 矣 , 而 夔 獨 傳 者, 壹 也 ;好 義 者 眾 矣 , 而 舜 獨 傳 者 , 壹 也 . 倕作 弓 , 浮 游 作 矢 , 而 羿 精 於 射 . 奚 仲 作 車 乘 , 杜 作 乘 馬 , 而 造 父 精 於 御 . 自 古 及 今 , 未 嘗 有 兩 而 能 精 者 也 .

[14] Lễ Ký (Đại Học): «Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.» 心 不 在 焉 , 視 而 不 見 , 聽 而 不 聞 , 食而 不 知 其 味 .

[15] Lễ Ký (Đại Học): «Khang Cáo viết: “Như bảo xích tử.” Tâm thành cầu chi, tuy bất trúng, bất viễn hĩ. Vị hữu học dưỡng tử nhi hậu giá giả dã.» 康 誥 曰 :如 保 赤 子 . 心 誠 求 之 , 雖不 中 , 不 遠 矣 . 未 有 學 養 子 而 後 嫁 者 .

[16] Lễ Ký (Đại Học): «Sở vị thành kỳ ý giả, vô tự khi dã. Như ố ác xú, như hiếu hảo sắc, thử chi vị tự khiêm. Cố quân tử tất thận kỳ độc dã. Tiểu nhân nhàn cư vi bất thiện, vô sở bất chí, kiến quân tử nhi hậu yếm nhiên, yểm kỳ bất thiện nhi trứ kỳ thiện, nhân chi thị kỷ như kiến kỳ phế can nhiên, tắc hà ích hĩ. Thử vị thành ư trung, hình ư ngoại. Cố quân tử tất thận kỳ độc dã. Tăng Tử viết: “Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ, kỳ nghiêm hồ!” Phú nhuận ốc, đức nhuận thân, tâm quảng thể bàn. Cố quân tử tất thành kỳ ý.» 所 謂 誠 其 意 者 , 毋 自 欺 也 . 如 惡 惡 臭 , 好 好 色 , 此 之 謂 自 謙 . 故 君 子 必 慎 其 獨 也 , 小 人 閒 居為 不 善 , 無 所 不 至 , 見 君 子 而 後 厭 然 , 揜 其 不 善 而 著 其 善 , 人 之 視 己 , 如 見 其 肺 肝 然 , 則 何 益 矣 . 此 謂 誠 於 中 , 形 於 外 . 故 君 子 必 慎 其 獨 也 . 曾 子 曰 : 十 目 所 視 , 十 手所 指 , 其 嚴 乎 . 富 潤 屋 , 德 潤 身 , 心 廣 體 胖 . 故 君 子 必 誠 其 意 .

[17] Phùng Hữu Lan chú: Hai nhà Nho đời Tống là Xa Ngọc Phong 車 玉 峰 (sống khoảng 1274 CN) và Vương Bách 王 柏 (1197-1274) cho rằng đoạn văn này nhằm giải thích bốn chữ «trí tri cách vật» 致 知 格 物 . Xem Lỗ Trai Tập 魯 齋 集 , quyển 2.

[18] Lễ Ký (Đại Học): «Đức giả bản dã, tài giả mạt dã. Ngoại bản nội mạt, tranh dân thi đoạt.» 德 者 本 也 , 財 者 末 也 . 外 本 內 末 , 民 施 奪 .

[19] Tuân Tử (Giải Tế): «Phàm quan vật hữu nghi, trung tâm bất định, tắc ngoại vật bất thanh. Ngô lự bất thanh, vị khả định nhiên phủ dã. Minh minh nhi hành giả, kiến tẩm thạch dĩ vi phục hổ dã, kiến thực lâm dĩ vi hậu (lập) nhân dã. Minh minh tế kỳ minh dã. Tuý giả việt bách bộ chi câu, dĩ vi khuể bộ chi quái dã; phủ nhi xuất thành môn, dĩ vi tiểu chi khuê dã; tửu loạn kỳ thần dã. Yếm mục nhi thị giả, thị nhất vi lưỡng; yểm nhĩ nhi thính giả, thính mạc mạc nhi dĩ vi hung hung thế loạn kỳ quan dã. Cố tòng sơn thượng vọng ngưu giả nhược dương, nhi cầu dương giả bất hạ khiên dã; viễn tế kỳ đại dã. Tòng sơn hạ vọng mộc giả, thập nhẫn chi mộc nhược trợ, nhi cầu trợ giả bất thượng chiết dã; cao tế kỳ trường dã. Thuỷ động nhi cảnh dao, nhân bất dĩ định mỹ ố; thuỷ thế huyền dã. Cổ giả ngưỡng thị nhi bất kiến tinh, nhân bất dĩ định hữu vô; dụng tinh hoặc dã. Hữu nhân yên, dĩ thử thời định vật, tắc thế chi ngu giả dã. Bỉ ngu giả chi định vật, dĩ nghi quyết nghi, quyết tất bất đương. Phù cẩu bất đương, an năng vô quá hồ?» 凡 觀 物 有 疑 , 中 心 不 定 , 則 外 物 不 清 . 吾 慮 不 清 , 未 可 定 然 否 也 . 冥 冥 而 行 者 , 見 寢 石 以 為 伏 虎 也 , 見 植 人 以 為 後 ( ) 人 也 . 冥 冥 蔽 其 明 也. 醉 者 越 百 步 之 溝 , 以 為 蹞 步 之 澮 也 ; 俯 而 出 城 門 , 以 為 小 之 閨 也 ; 酒 亂 其 神 也 . 厭 目 而 視 者 , 視 一 為 兩 ; 掩 耳 而 聽 者 , 聽 漠 漠 而 以 為 胸 胸; 勢 亂 其 官 也 . 故 從 山 上 望 牛 者 若 羊 , 而 求 羊 者 不 下 牽 也 ; 遠 蔽 其 大 也. 從 山 下 望 木 者 , 十 仞 之 木 若 箸 , 而 求 箸 者 不 上 折 也 ; 高 蔽 其 長 也. 水 動 而 景 搖 , 人 不 以 定 美 惡 ; 水 勢 玄 也. 瞽 者 仰 視 而 不 見 星 , 人 不 以 定 有 無 ; 用 精 惑 也 . 有 人 焉 , 以 此 時 定 物 , 則世 之 愚 者 也 . 彼 愚 者 之 定 物 , 以 疑 決疑 , 決 必 不 當 . 夫 苟 不 當 , 安 能 無 過 乎 ?– Phùng Hữu Lan chú: Học giả Du Việt 俞 樾 nghi ngờ chữ hậu (trong «kiến thực lâm dĩ vi hậu nhân dã») vốn là chữ lập trong nguyên bản.

[20] LAM chú: Chỗ này Derk Bodde vừa dịch vừa giảng: «This is a reference to the sacred mountain of Hua Shan in Shensi, whereas it would be natural to expect such a man as Tzu Ssu, who was a native of the state of Lu (occupying what is now Shantung), to refer in such a case to Shantung's sacred mountain, T'ai Shan.» (Đây liên hệ đến núi thiêng Hoa Sơn ở Thiểm Tây, trong khi người ta mong rằng lẽ ra một người như Tử Tư vốn là dân nước Lỗ [nay là Sơn Đông] sẽ liên hệ đến núi thiêng Thái Sơn ở Sơn Đông). Từ điển Từ Hải ở mục từ Hoa Nhạc, cũng trích dẫn câu «Tải Hoa Nhạc nhi bất trọng» và giải thích Hoa Nhạc là hai ngọn núi Hoa Sơn và Nhạc Sơn cùng ở Thiểm Tây.

[21] Vương Bách 王 柏 , Cổ Trung Dung Bạt 古 中 庸 跋 ; trong Lỗ Trai Tập, quyển 5, trang 16-17.

[22] Vương Bách 王 柏 , Trung Dung Luận 中 庸 論 ; trong Lỗ Trai Tập, quyển 2, trang 11-12.

[23] Phùng Hữu Lan chú: Đây cũng chỉ là nói đại khái, kỳ thực ở đoạn giữa hẳn có sự thêm thắt của hậu nhân, nhưng đại bộ phận có lẽ là sáng tác của Tử Tư.– LAM chú: Trong Hán Thư Nghệ Văn Chí, phần Nho gia chỉ ghi là: «Tử Tư nhị thập tam thiên. Danh Cấp, Khổng Tử tôn, vi Lỗ Mục [Mậu] Công sư.» 子 思 二 十 三 篇 . 名 伋 孔 子 孫 , 為 魯 繆 公 師 (23 thiên của Tử Tư. [Tử Tư] tên là Cấp, cháu Khổng Tử và là thầy của Lỗ Mục [Mậu] Công).

[24] Lễ Ký (Trung Dung): «Trọng Ni viết: Quân tử Trung Dung; tiểu nhân phản Trung Dung. Quân tử chi Trung Dung dã, quân tử nhi thời trung; tiểu nhân chi phản Trung Dung dã, tiểu nhân nhi vô kỵ đạn dã.» 仲 尼 曰 : 君 子 中 庸 ; 小 人 反 中 庸 . 君 子 之 中 庸 也 , 君 子 而 時 中 小 人 之 中 庸 也 , 小 人 而 無 忌 憚 也 .

[25] Aristotle, Ethics (Luân Lý Học), quyển 2, chương 5.

[26] Mạnh Tử - Công Tôn Sửu (thượng): «Phi kỳ quân bất sự. Phi kỳ dân bất sử, trị tắc tiến, loạn tắc thoái, Bá Di dã. Hà sự phi quân, hà sử phi dân, trị diệc tiến, loạn diệc tiến, Y Doãn dã. Khả dĩ sĩ tắc sĩ, khả dĩ chỉ tắc chỉ, khả dĩ cửu tắc cửu, khả dĩ tốc tắc tốc, Khổng Tử dã.» 非 其 君 不 事 . 非 其 民 不 使 , 治 則 進 , 亂 則 退 , 伯 夷 也 . 何 事 非 君 , 何 使非 民 , 治 亦 進 , 亂 亦 進 , 伊 尹 也 . 可 以 仕 則 仕 , 以 止 則 止 , 可 以 久 則 久 , 可 以 速 則 速 , 孔 子 也 .

[27] Mạnh Tử - Vạn Chương (hạ): «Bá Di, thánh chi thanh giả dã. Y Doãn, thánh chi nhiệm giả dã. Liễu Hạ Huệ, thánh chi hoà giả dã. Khổng Tử, thánh chi thời giả dã.» 伯 夷 聖 之 清 者 也 . 伊 尹 聖 之 任 者 也 . 柳 下 惠 聖 之 和 者 也 . 孔 子 聖 之 時 者 也 .

[28] Mạnh Tử - Tận Tâm (thượng): «Tử Mạc chấp trung, chấp trung vi cận chi, chấp trung vô quyền, do chấp nhất dã. Sở ố chấp nhất giả, vi kỳ tặc đạo dã, cử nhất nhi phế bách dã.» 子 莫 執 中 , 執 中 為 近 之 , 執 中 無 權 , 猶 執 一 也 . 所 惡 執 一 者 , 為 其 賊 道 也 , 舉 一 而 廢 百 也 .

[29] Luận Ngữ - Tử Hãn: «Khả dữ lập, vị khả dữ quyền.» 可 與 立 未 可 與 權 .

[30] Lễ Ký (Trung Dung): «Tử viết: “Đạo bất viễn nhân. Nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo.” Thi vân: “Phạt kha phạt kha, kỳ tắc bất viễn.” Chấp kha dĩ phạt kha, nghễ nhị thị chi, du dĩ vi viễn. Cố quân tử dĩ nhân trị nhân, cải nhi chỉ. Trung thứ vi đạo bất viễn. Thi chư kỷ nhi bất nguyện, diệc vật thi ư nhân. Quân tử chi đạo tứ; Khâu vị năng nhất yên. Sở cầu hồ tử dĩ sự phụ, vị năng dã. Sở cầu hồ thần dĩ sự quân, vị năng dã. Sở cầu hồ đệ dĩ sự huynh, vị năng dã. Sở cầu hồ bằng hữu, tiên thi chi, vị năng dã. Dung đức chi hành, dung ngôn chi cẩn, hữu sở bất túc; bất cảm bất miễn; hữu dư, bất cảm tận. Ngôn cố hành, hành cố ngôn, quân tử hồ bất tháo tháo nhĩ?» 子 曰 : 道 不 遠 人. 人 之 為 道 而 遠 人, 不 可 以 為 道 . 詩 云 : 伐 柯 伐 柯, 其 則 不 遠 . 執 柯 以 伐 柯, 睨 而 視 之. 猶 以 為 遠. 故 君 子 以 人 治 人 , 改 而 止. 忠 怒 違 道 不 遠 . 施 諸 己 而 不 愿, 亦 勿 施 於 人. 君 子 之 道 四 , 丘 未 能 一 焉: 所 求 乎 子 , 以 事 父 , 未 能 也 ; 所 求 乎臣, 以 事 君, 未 能 也; 所 求 乎 弟 , 以 事 兄, 未 能 ; 所 求 乎 朋 友 , 先 施 之 未 能 也. 庸 德 之 行 , 庸 言 之 謹 ; 有 所 不 足 , 不 敢 不 勉 ; , 不 感 盡 . 言 顧 行 , 行 顧 言. 君 子 胡 不 慥 慥 爾 .

[31] Phùng Hữu Lan chú: Trung và Thứ đều chủ yếu lấy bụng ta suy ra bụng người, cho nên nói Trung cũng là ngụ ý Thứ và ngược lại. «Lấy cái mà ta cầu ở con ta, đem ra phụng sự cha ta», v.v... đó chỉ là nói tới Trung. Đại Học nói đạo Hiệt Củ và «điều gì mình ghét ở người trên thì chớ thi hành điều ấy cho người dưới», v.v... đó chỉ là nói tới Thứ. Hợp hai khái niệm ấy lại, mới là đạo Trung Thứ.– LAM chú: Chúng ta cần phân biệt từ ngữ, chữ Trung (trong Trung Dung 中 庸 ) khác với chữ Trung (trong Trung Thứ 忠 恕 ). Chữ Trung được Chu Hi giảng ở đầu sách Trung Dung là: «Trình Tử nói: Không thiên lệch bên này hay bên kia thì gọi là Trung; không dời đổi thì gọi là Dung.» (Tử Trình Tử viết: Bất thiên chi vị Trung; bất dịch chi vị Dung 子 程 子 曰: 不 偏 之 謂 中 ; 不 易 之 謂 庸 ). Còn chữ Trung nguyên nghĩa là: chân thành, trung thành, tận tâm, thành tâm, toàn tâm toàn ý; thí dụ trong câu «Mưu tính công việc cho người có hết lòng hay không?» (Vi nhân mưu nhi bất trung hồ? 為 人 謀 而 不 忠 乎 ) [Luận Ngữ - Học Nhi]. Cái ý nghĩa theo luân lý ấy về sau chuyển sang ý nghĩa chính trị là «trung quân» 忠 君 (trung thành với vua). Từ đời Tần và Hán về sau, Trung và Hiếu trở thành tiêu chuẩn đạo đức rất quan trọng trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, cứ nhắm mắt trung thành với vua, đó gọi là «ngu trung» 愚 忠 , mà ngay cả Khổng Tử và Mạnh Tử cũng chê. Khi Tử Cống nói với Khổng Tử rằng: «Quản Trọng không đáng gọi là nhân bởi vì khi công tử Củ bị Hoàn Công giết mà Quản Trọng là bầy tôi của công tử Củ lại không chết theo, ấy vậy lại còn làm Tể Tướng theo giúp Tề Hoàn Công nữa.» Khổng Tử trả lời: «Quản Trọng theo giúp Tề Hoàn Công nên nghiệp bá, nhờ vậy mà thiên hạ từ loạn đổi sang trị. Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc tóc và vắt vạt áo bên trái như giới man di. Há vì tấm lòng trung quân nhỏ hẹp tầm thường mà đi treo cổ bên lạch suối sao?» (Luận Ngữ - Hiến Vấn). Còn Mạnh Tử nói: «Vua xem bầy tôi như tay chân thì bầy tôi xem vua như tâm phúc, vua xem bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi xem vua như người thường, vua xem bầy tôi như đất cỏ thì bầy tôi xem vua như kẻ thù.» (Ly Lâu [hạ]).

[32] Trung Dung: «Thiên hạ chi đạt đạo ngũ; sở dĩ hành chi giả tam. Viết: quân thần dã, phụ tử dã, phu phụ dã, côn đệ dã, bằng hữu chi giao dã; ngũ giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí, nhân, dũng tam giả; thiên hạ chi đạt đức dã. Sở dĩ hành chi giả nhất dã. Hoặc sinh nhi tri chi; hoặc học nhi tri chi; hoặc khốn nhi tri chi. Cập kỳ tri chi nhất dã. Hoặc an nhi hành chi; hoặc lợi nhi hành chi; hoặc miễn cưỡng nhi hành chi. Cập kỳ thành công nhất dã. Tử viết: Hiếu học cận hồ trí. Lực hành cận hồ nhân. Tri sỉ cận hồ dũng. Tri tư tam giả, tắc tri sở dĩ tu thân. Tri sở dĩ tu thân, tắc tri sở dĩ trị nhân. Tri sở dĩ trị nhân, tắc tri sở dĩ trị thiên hạ quốc gia hĩ.» 天 下 之 達 道 五 , 所 以 行 之 者 三. : 君 臣 , 父 子 也 , 夫 婦 也, 昆 弟 也 , 朋 友 之 交 也 五 者 , 天 下 之 達 道 也 . ( ), , 勇 三 者 , 天 下 之 達 德 也 . 所 以 行 之 者 一 也 . 或 生 而 知 之 ; 或 學 而 知 之 ; 或 困 而 知 之 ; 及 其 知 之 , 一 也 . 或 安 而 行 之 ; 或 利 而 行 之 ; 或 勉 強 而 行 之 ; 及 其 成 功, 一 也 . 子 曰 : 好 學 近 乎 知 . 力 行 近 乎 仁 . 知 恥 近 乎 勇 . 知 斯 三 者 , 則 知 所 以 修 身. 知 所 以 修 身 , 則 知 所 以 治 人 . 知 所 以 治 人 , 則 知 所 以 治 天 下 國 家 矣 .

[33] Lễ Ký (Trung Dung): «Thiên mệnh chi vị tính. Suất tính chi vị đạo. Tu đạo chi vị giáo.» 天 命 之 謂 性 , 率 性 之 謂 道 , 修 道 之 謂 教 .

[34] Đại Đái Lễ Ký (Bản Mệnh): «Phân ư Đạo vị chi Mệnh. Hình ư nhất vị chi Tính. Hoá ư Âm Dương, tượng hình nhi phát, vị chi sinh. Hoá cùng số tận vị chi tử.» 分 於 道 謂 之 命 . 形 於 一 謂 之 性. 化 於 陰 陽 , 象 形 之 發 , 謂 之 生 . 化 窮 數 盡 謂 之 死 .

[35] Derk Bodde chú: Mệnh dùng như danh từ là số mệnh (fate), mệnh lệnh (decree); nhưng ở đây dùng như động từ, nghĩa là «ban cho» (to confer). Có thể giải thích rằng số mệnh của một người là cái mà hắn nhận lãnh từ Trời; nói cách khác, nó là cái mà Trời ban cho hắn.

[36] Lễ Ký (Trung Dung): «Hỉ, nộ, ai, lạc chi vị phát vị chi trung, phát nhi giai trúng tiết vị chi hòa.» , , , 樂 之 未 發, 謂 之 中. 發 而 皆 中 節, 謂 之 和 .

[37] Nguyên văn: «Chính kỳ nghị bất mưu kỳ lợi, minh kỳ đạo bất kế kỳ công.» 正 其 誼 不 謀 其 利 , 明 其 道 不 計 其 功 . – LAM chú: Trong cổ văn, chữ nghị dùng thông với chữ nghĩa (ý nghĩa; điều đúng đắn). Derk Bodde dịch: «The Confucians pursued what was right or appropriate without consideration of any consequent benefit.» (Nho gia theo đuổi cái đúng hay thích đáng mà không kể đến cái lợi về sau).

[38] Lễ Ký (Trung Dung): «Thi vân: “Duy thiên chi mệnh ô mục bất dĩ!” Cái viết: Thiên chi sở dĩ vi Thiên dã: “Ô hô! bất hiển! Văn Vương chi đức chi thuần.” Cái viết: Văn Vương chi sở dĩ vi Văn dã, thuần diệc bất dĩ.» 詩 云 : 惟 天 之 命 , 于 穆 不 已. : 天 之 所 以 為 天 也 . 于 乎 不 顯 , 文 王 之 德 之 純 . 蓋 曰 : 文 王 之 所 以 為 文 也, 純 亦 不 已 .

[39] Lễ Ký (Trung Dung): «Cố chí thành vô tức. Bất tức tắc cửu; cửu tắc trưng; trưng tắc du viễn; du viễn tắc bác hậu; bác hậu tắc cao minh. Bác hậu, sở dĩ tải vật dã; cao minh, sở dĩ phú vật dã; du cửu, sở dĩ thành vật dã. Bác hậu phối địa; cao minh phối thiên; du cửu vô cương. Như thử giả, bất hiện nhi chương; bất động nhi biến; vô vi nhi thành. Thiên địa chi đạo, khả nhất ngôn nhi tận dã: kỳ vi vật bất nhị, tắc kỳ sinh vật bất trắc. Thiên địa chi đạo bác dã, hậu dã, cao dã, minh dã, du dã, cửu dã.» 故 至 誠 無 息 . 不 息 則 久 , 久 則 征 . 征 則 悠 遠 . 悠 遠 , 則 博 厚 . 博 厚 , 則 高 明. 博 厚 , 以 載 物 也 . 高 明 , 所 以 覆 物 也 . 悠 久 , 所 以 成 物 也 . 博 厚 , 配 地. 高 明 , 配 天 . 悠 久 , . 如 此 者 , 不 見 而 章 , 不 動 而 變 , 無 為 而 成 . 天地 之 道, 可 一 言 而 盡 也 . 其 為 物 不 貳 , 則 其 生 物 不 測 . 天 地 之 道 , 博 也 , 厚 也 , 高 也 , 明 也 , 悠 也 , .

[40] Lễ Ký (Trung Dung): «Thành giả, Thiên chi đạo dã, Thành chi giả, nhân chi đạo dã. [...] Tự thành minh, vị chi tính. Tự minh thành, vị chi giáo. Thành tắc minh hĩ. Minh, tắc thành hĩ.» 誠 者 , 天 之 道 也 . 誠 之 者 , 人 之 道 也 [...] 自 誠 明 , 謂 之 性 . 自 明 誠 謂 之 教 . 誠 則 明 矣 . 明 則 誠 矣 .

[41] Lễ Ký (Trung Dung): «Thành giả, vật chi chung thủy, bất thành vô vật. Thị cố quân tử thành chi vi quý. Thành giả, phi tự thành kỷ nhi dĩ dã, sở dĩ thành vật dã. Thành kỷ, nhân dã; thành vật, trí dã; tính chi đức dã, hợp ngoại nội chi đạo dã. Cố thời thố chi nghi dã.» 誠 者 , 物 之 終 始 , 不 誠 無 物. 故 君 子 誠 之 為 貴 . 誠 者 , 非 自 成 己 而 已 也 , 所 以 成 物 也 . 成 己 仁 也 . 成 物 智 也 . 性 之 德 也 , 合 外 內 之 道 也 . 故 時 措 之 宜 也 .

[42] Lễ Ký (Trung Dung): «Duy thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính. Năng tận nhân chi tính, tắc năng tận vật chi tính. Năng tận vật chi tính, tắc khả dĩ tán Thiên địa chi hóa dục. Khả dĩ tán Thiên địa chi hóa dục, tắc khả dĩ dữ Thiên địa tham hĩ.» 唯 天 下 至 誠 為 能 盡 其 性 . 能 盡 其 性 , 則 能 盡 人 之 性 . 能 盡 人 之 性 , 則 能 盡 物 之 性 . 能 盡 物 之 性 , 則 可 以 贊 天 地 之 化 育 . 可 以 贊 天 地 之 化 育 , 則 可 以 與 天 地 參 矣 .

[43] Lễ Ký (Trung Dung): «Cố quân tử chi đạo, bản chư thân, trưng chư thứ dân; khảo chư tam vương, nhi bất mậu; kiến chư thiên địa nhi bất bội; chất chư quỷ thần, nhi vô nghi, Bách thế dĩ sĩ Thánh nhân nhi bất hoặc. Chất chư quỷ thần nhi vô nghi: tri Thiên dã. Bách thế dĩ sĩ Thánh nhân nhi bất hoặc: tri nhân dã. Thị cố quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo; hành nhi thế vi thiên hạ pháp; ngôn nhi thế vi thiên hạ tắc. Viễn chi tắc hữu vọng; cận chi tắc bất yếm. Thi viết: “Tại bỉ vô ố; tại thử vô đố; thứ cơ túc dạ, dĩ vĩnh chung dự.” Quân tử vị hữu bất như thử, nhi tao hữu dự ư thiên hạ giả dã.» 故 君 子 之 道 , 本 諸 身 , 征 諸 庶 民 . 考 諸 三 王 而 不 繆 , 建 諸 天 地 而 不 悖 . 質 諸 鬼 神 而 無 疑 . 百 世 以 俟 聖 人 而 不 感 . 質 鬼 神 而 無 疑 , 知 天 也 . 百 世 以 俟 聖 人 而 不 感 , 知 人 也 . 是 故 君 子 動 而 世 為 天 下 道 , 行 而 世 為 天 下 法 , 言 而 世 為 天 下 則 . 遠 之 , 則 有 望 . 近 之 , 則 不 厭. 詩 曰 : 在 彼 無 惡 , 在 此 無 射. 几 夙 夜 , 以 永 終 譽 . 君 子 未 有 不 如 此 , 而 蚤 有 譽 于 天 下 者 也 .

[44] Lễ Ký (Trung Dung): «Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại. Đạo tịnh hành nhi bất tương bối. Tiểu đức xuyên lưu; đại đức đôn hóa. Thử thiên địa chi sở dĩ vi đại dã.» 萬 物 並 育 而 不 相 害. 道 并 行 而 不 相 背 . 小 德 川 流 . 大 德 敦 化 . 此 天 地 之 所 以 為 大 也 .

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.org  Phùng Hữu Lan viết, Lê Anh Minh dịch