Phùng Hữu Lan
(1895-1990)
ĐẠI HỌC

Tử Tư
|
Hai thiên
Đại Học
và Trung
Dung
trong
Tiểu Đái Lễ
Ký có
ảnh hưởng
rất lớn
trong triết
học Trung
Quốc sau
này. Chu Hi
朱
熹
(1130-1200)
xem Đại
Học là
của Tăng Tử
曾
子
,
còn Vương
Bách
王
柏
(1197-1274)
xem nó là
của Tử Tư
子
思
(cháu
nội Khổng
Tử).
Đại Học
nói:
«Đạo
của Đại Học
là làm sáng
thêm cái đức
sáng, đổi
mới dân
chúng, và
dừng ở chí
thiện. Biết
dừng thì sẽ
định, định
rồi sẽ tĩnh,
tĩnh rồi sẽ
an, an rồi
sẽ suy nghĩ,
suy nghĩ rồi
sẽ đắc. Vật
có gốc ngọn,
việc có đầu
cuối, biết
thứ tự trước
sau thì gần
với đạo.
Người xưa
muốn làm
sáng thêm
đức sáng của
mọi người
thì phải
trị quốc
(làm cho
nước bình
yên) trước.
Muốn trị
quốc thì
phải tề
gia
(chỉnh đốn
gia đạo)
trước. Muốn
tề gia thì
phải tu
thân
(sửa mình)
trước. Muốn
tu thân thì
phải
chính tâm
(làm cho
tâm đúng
đắn) trước.
Muốn chính
tâm thì phải
thành ý
(làm cho ý
chí trở nên
thành thực)
trước. Muốn
thành ý thì
phải trí
tri
(biết tới
chốn) trước.
Trí tri ở
cách vật
(phân tích
suy xét sự
vật). Vật
cách thì tri
chí. Tri chí
thì ý thành.
Ý thành thì
tâm chính.
Tâm chính
thì thân tu.
Thân tu thì
gia tề. Gia
tề thì quốc
trị. Quốc
trị thì
thiên hạ
bình. Từ
thiên tử cho
đến dân
chúng, tất
cả đều lấy
tu thân làm
gốc. Gốc
loạn mà ngọn
trị thì
không hề có.
Cái dầy dặn
mà xem mỏng
manh, cái
mỏng manh mà
xem dầy dặn
thì chưa hề
có. Đó gọi
là biết gốc,
là biết tới
nơi tới
chốn.»
Đoạn trên
đây là ý tứ
chủ yếu của
Đại Học,
vốn gọi là
tam cương
lĩnh và
bát điều
mục của
Đại Học.
Tam cương
lĩnh là:
minh đức,
tân dân, chỉ
ư chí thiện.
Bát điều
mục là:
cách vật,
trí tri,
thành ý,
chính tâm,
tu thân, tề
gia, trị
quốc, bình
thiên hạ.
Ý nghĩa đoạn
văn trên nói
chung là rất
minh bạch,
không cần
phải giải
thích. Có
điều, trí
tri cách vật
致
知
格
物
thì ở sau
không nói
rõ, khiến
các học giả
đời sau giải
thích rất
khác nhau.
Đấy là điểm
tranh luận
chủ yếu giữa
phái
Trình-Chu
(Trình Di,
Chu Hi) và
phái
Lục-Vương
(Lục Cửu
Uyên, Vương
Dương Minh)
giữa đời
Tống đời
Minh, bởi lẽ
họ có sự
giải thích
khác nhau
đối với
trí tri cách
vật. Bốn
chữ này rất
quan trọng
trong triết
học Trung
Quốc, nên
không thể
không giải
thích. Nhưng
muốn giải
thích nó,
thì các học
giả về sau
ai là người
giải thích
đúng với
nguyên ý của
Đại Học?
Tuân Tử
là đại sư
của Nho gia
cuối thời
Chiến Quốc,
đa số Nho
gia đời sau
đều xuất
thân từ môn
phái này.
Tuân Tử lại
nói nhiều
đến lễ, nên
nhiều thiên
trong Đại
Đái và
Tiểu Đái
Lễ Ký
cũng đa phần
dựa trên
quan điểm
của Tuân Tử
mà nói về
lễ. Xét mấy
chỗ lý luận
ở các tiết
trên của
chương này
thì có thể
thấy điều
đó. Nói về
giáo dục thì
Đại Đái
Lễ Ký
chép thẳng
thiên Khuyến
Học trong
Tuân Tử;
còn thiên
Học Ký trong
Tiểu Đái
Lễ Ký
cũng là lập
lại quan
điểm của
Tuân Tử về
giáo dục. Rõ
ràng học
thuyết của
Tuân Tử có
ảnh hưởng
rất lớn vào
đời Tần và
đời Hán; lớn
hơn nhiều so
với mức độ
mà học giả
đời sau
tưởng
tượng.

Tuân Tử |
Thiên Học Ký
chép: «Hệ
thống giáo
dục thời xưa
như sau: lớp
học ở gia
đình gọi là
thục
塾
, trường
làng gọi là
tường
庠
,
trường huyện
gọi là tự
序
,
trường tại
kinh đô gọi
là học
學
.
Mỗi năm đều
có tuyển
sinh vào
trường tại
kinh đô. Cứ
mỗi hai năm
thì có một
kỳ khảo sát.
Năm thứ
nhất, xét
xem học sinh
có đọc hiểu
và giải
thích được
kinh điển
không. Năm
thứ ba, xét
xem học sinh
có chú tâm
học hành và
hoà đồng với
tập thể
không. Năm
thứ năm, xét
xem học sinh
có học rộng
thêm và thân
cận với thầy
không. Năm
thứ bảy, xét
xem học sinh
thảo luận
điều đã học
và kết bạn
thế nào; đó
gọi là
tiểu thành
(thành
tựu nhỏ).
Năm thứ
chín, học
sinh đã hiểu
biết các môn
học khác
nhau và đạt
được vốn tri
thức khá
rồi, có thể
đứng vững
vàng mà
không thối
chí; đó gọi
là đại
thành
(thành tựu
lớn). Sau
đó, học vấn
của họ đủ để
giáo hoá dân
chúng và
thay đổi hủ
tục, khiến
cho người ở
gần vui dạ
khâm phục,
còn người ở
xa thì hâm
mộ hoài
mong. Đó là
cái đạo của
đại học vậy.»
«Có
thể đứng
vững vàng mà
không thối
chí»
(cường lập
nhi bất phản
強
立
而
不
反
)
chính là ý
«đi mãi mà
không trở
lại khởi
đầu, tức là
chuyển hoá»
(trường
thiên nhi
bất phản kỳ
sơ tắc hoá
hĩ
長
遷
而
不
反
其
初
則
化
矣
)
được nói
trong thiên
Bất Cẩu của
Tuân Tử.
Học Ký
xem cái đạo
của đại học
là khiến học
sinh «hiểu
biết các môn
học khác
nhau và đạt
được vốn tri
thức khá
rồi, có thể
đứng vững
vàng mà
không thối
chí, [...]
học vấn của
họ đủ để
giáo hoá dân
chúng và
thay đổi hủ
tục, khiến
cho người ở
gần vui dạ
khâm phục,
còn người ở
xa thì hâm
mộ hoài
mong».
Đại Học
thì xem
cái đạo của
đại học là
«cách vật,
trí tri,
thành ý,
chính tâm,
tu thân, tề
gia, trị
quốc, bình
thiên hạ». Ý
tứ chính yếu
của cả hai
thì tương
đồng. Cái
gọi là «đạo
của đại học»
(đại học chi
đạo
大
學
之
道
)
được nói
trong Đại
Học cũng
chính là lấy
quan điểm
của Tuân Tử
mà giải
thích.
Thiên Giải
Tế của
Tuân Tử
nói: «Cái
nhận biết là
tính người,
cái có thể
được nhận
biết là lý
của sự vật.
Nếu ta lấy
nhân tính
(có thể nhận
biết) để cầu
cái lý sự
vật (có thể
được nhận
biết) mà
không có gì
trở ngại,
thì tàn đời
hết kiếp
cũng không
biết hết. Dù
ta đã thông
suốt lý lẽ
sự vật đến
muôn vạn
cũng không
đủ để bao
quát hết sự
biến đổi của
vạn vật. Rốt
cuộc ta với
kẻ ngu cũng
như nhau. Dù
ta học tới
già và tới
lúc con ta
trưởng thành
thì ta với
kẻ ngu cũng
như nhau;
không biết
lỗi lầm, tức
là kẻ mê
vọng. Cho
nên người đi
học phải
biết dừng.
Nhưng dừng ở
đâu? Đáp:
dừng ở chỗ
chí túc
至
足
(rất đầy
đủ). Cái gì
gọi là
chí túc?
Đáp: đó là
đức của
thánh nhân.»
Đại Học
cũng dạy
rằng người
học phải
biết dừng.
Dừng ở đâu?
Tuân Tử
nói dừng
ở chỗ chí
túc (rất
đầy đủ), còn
Đại Học
nói dừng
ở chỗ chí
thiện
(rất tốt
lành). Ý
nghĩa của
chúng như
nhau. Đại
Học
chép: «Kinh
Thi nói:
“Kinh đô
vuông ngàn
dặm là nơi
dân dừng lại
ở.”
Kinh
Thi lại nói:
“Chim vàng
hót ríu rít,
đến đậu ở gò
đất.” Khổng
Tử nói: “Khi
dừng thì
biết dừng ở
chỗ phải
dừng. Lẽ nào
người lại
chẳng bằng
chim sao?”
Kinh Thi
nói: “Văn
Vương sâu
sắc thay,
luôn làm
sáng đạo đức
của mình, và
kính cẩn ở
chỗ mình
dừng lại.”
Khi ngài làm
vua thì dừng
ở nhân ái;
khi làm bề
tôi thì dừng
ở tôn kính;
khi làm con
thì dừng ở
hiếu; khi
làm cha thì
dừng ở hiền
từ; khi giao
thiệp với
người trong
nước thì
dừng ở thành
tín»
Tuân Tử xem
bậc thánh là
người có đức
rất đầy đủ
(chí túc),
và nói:
«Thánh nhân
là người làm
trọn hết mọi
bổn phận con
người.»
(Thánh dã
giả, tận
luân giả dã
聖
也
者
盡
倫
者
也
).
Ý nghĩa «làm
vua thì dừng
ở nhân ái,
làm bề tôi
thì dừng ở
tôn kính,
làm con thì
dừng ở hiếu,
làm cha thì
dừng ở hiền
từ, giao
thiệp với
người trong
nước thì
dừng ở thành
tín»
mà Đại
Học nói
tức là làm
trọn vẹn hết
mọi bổn phận
con người
vậy.
Hễ con người
biết dừng,
ắt sẽ hướng
đến một mục
đích nhất
định mà tiến
hành. Lòng
không lông
bông trôi
nổi thì
định; hễ
định thì sẽ
tĩnh; hễ
tĩnh thì sẽ
yên; hễ yên
thì sẽ suy
tư; hễ suy
tư thì sẽ
đạt mục
đích.
Mạnh Tử
nói: «Người
ta luôn nói:
“Thiên hạ,
nước, nhà.”
Gốc của
thiên hạ là
nước; gốc
của nước là
nhà; gốc của
nhà là cá
nhân.»
Như vậy, cá
nhân là gốc
của gia
đình, quốc
gia, xã hội.
Đại Học
nói:
«Người
xưa muốn làm
sáng thêm
đức sáng của
mọi người
thì phải
trị quốc
(làm cho
nước bình
yên) trước.
Muốn trị
quốc thì
phải tề
gia
(chỉnh đốn
gia đạo)
trước. Muốn
tề gia thì
phải tu
thân
(sửa mình)
trước.»
Có lẽ câu ấy
dựa theo ý
của Mạnh Tử.
Tuy nhiên
Tuân Tử
cũng nói:
«Xin hỏi làm
việc nước
thế nào?
Đáp: Ta nghe
nói tu thân
chứ chưa hề
nghe nói làm
việc nước.
Vua là khuôn
mẫu, dân là
cái đổ vào
khuôn. Khuôn
mẫu mà đúng
thì cái đổ
vào khuôn sẽ
đúng. Vua là
cái mâm, dân
là nước; mâm
hình tròn
nên nước có
hình tròn.
Vua là cái
chậu, chậu
hình vuông
nên nước có
hình vuông.
Vua thích
bắn cung thì
bầy tôi cũng
bắt chước
làm theo. Sở
Trang Vương
thích eo
nhỏ, nên
triều đình
có người
phải đói [vì
nhịn ăn để
có eo nhỏ].
Cho nên nói:
Ta nghe nói
tu thân chứ
chưa hề nghe
nói làm việc
nước.»
Vua là khuôn
mẫu của một
nước, cho
nên hễ vua
tu thân thì
người cả
nước và
thiên hạ đều
phải tu
thân, thế là
nước yên và
thiên hạ
thái bình.
Đại Học
nói:
«Nghiêu
Thuấn lấy
nhân ái lãnh
đạo thiên hạ
mà dân theo.
Kiệt Trụ lấy
hung bạo
lãnh đạo
thiên hạ mà
dân theo.
Khi lệnh vua
trái với sở
thích của
vua, thì dân
không theo
lệnh ấy. Cho
nên quân tử
đòi hỏi điều
tốt ở mình
rồi mới đòi
hỏi điều tốt
ở người;
chừng nào
mình không
lỗi thì mới
trách người.
Bản thân
mình vô đạo
mà đi dạy
người đạo
đức, xưa nay
chưa hề có.
Cho nên việc
trị nước vốn
ở tề gia.
Kinh Thi
nói: “Cây
đào yểu
điệu, lá nó
sum xuê; gái
kia về nhà
chồng, ăn ở
đúng đắn với
người trong
nhà.” [Quân
tử] ăn ở
đúng đắn với
người trong
nhà, sau mới
dạy được dân
trong nước.
Kinh Thi
nói: “Anh ra
anh, em ra
em.” [Quân
tử] ăn ở anh
ra anh em ra
em, sau mới
dạy được dân
trong nước.
Kinh Thi
nói: “Vua mà
ăn ở không
lỗi lầm thì
mới khiến
dân bốn
phương ngay
chính.” Quân
tử hễ đúng
đắn trong
quan hệ
cha-con,
anh-em, thì
dân mới bắt
chước.»
Bởi thế, tu
thân là gốc
của tề gia,
trị quốc, và
bình thiên
hạ. Hơn nữa,
việc trị
nước là lấy
người trị
người. Lấy
người trị
người để
không xa
khuôn mẫu.
Đấy là lời
của Trung
Dung.
Tương tự,
Tuân Tử
nói: «Thánh
nhân lấy bản
thân để đo
lường sự
vật; cho nên
lấy bản thân
để đo lường
người khác,
lấy tình cảm
của mình để
đo lường
tình cảm của
người.» Lại
nói: «Cây
thước vuông
(ê-ke) 5 tấc
làm chuẩn
mực cho cả
thiên hạ.»
Hễ ai đã
trau dồi đạo
đức (tu
thân) ắt sẽ
biết «lấy
bản thân để
đo lường
người khác,
lấy tình cảm
của mình để
đo lường
tình cảm của
người» và
trở thành
cây thước
vuông làm
chuẩn mực
cho thiên
hạ. Đại
Học nói:
«Nói “làm
thiên hạ
thái bình là
do ở trị yên
nước” (bình
thiên hạ tại
trị kỳ quốc)
có nghĩa là
khi vua kính
trọng người
già thì dân
trở nên
hiếu, kính
trọng anh
thì dân trở
nên đễ,
thương xót
người cô quả
thì dân
không bội
bạc. Cho nên
quân tử có
đạo hiệt
củ (suy
ta ra
người). Đạo
hiệt củ
có nghĩa là:
hễ mình ghét
điều gì ở
bậc trưởng
thượng thì
chớ làm điều
đó cho kẻ
dưới; hễ
mình ghét
điều gì ở kẻ
dưới thì chớ
làm điều đó
cho bậc
trưởng
thượng; hễ
mình ghét
điều gì ở
người trước
thì chớ làm
điều đó cho
người sau;
hễ mình ghét
điều gì ở
người sau
thì chớ làm
điều đó cho
người trước;
hễ mình ghét
điều gì ở
người bên
mặt thì chớ
làm điều đó
cho người
bên trái; hễ
mình ghét
điều gì ở
người bên
trái thì chớ
làm điều đó
cho người
bên mặt.»
Đạo hiệt củ
tức là
«lấy cây
thước vuông
5 tấc làm
chuẩn mực
cho cả thiên
hạ».
Muốn tu thân
thì trước
phải
chính tâm
(làm cho tâm
chính trực),
bởi vì bậc
thánh thì
phải biết
Đạo, mà tâm
có «hư,
nhất, tĩnh»
(trống rỗng,
tinh nhất,
yên tĩnh)
thì mới có
thể biết
Đạo. Tuân
Tử nói:
«Cho
nên nhân tâm
ví như nước
trong chậu.
Đặt chậu
ngay ngắn và
không động
vào nó thì
cặn cáu lắng
xuống và
phần nước ở
trên thì
trong trẻo,
đủ để soi
mặt mày râu
ria được.
Một cơn gió
nhẹ thoảng
qua, cặn cáu
đáy chậu bị
động, phần
nước trong
trẻo ở trên
bị loạn,
khiến ta
không thể
soi được
hình ảnh
đích thực
của mình.
Tâm ta cũng
như thế. Cho
nên nếu tâm
được dẫn dắt
bằng đạo lý
và được nuôi
dưỡng bằng
sự trong
sạch thì
chẳng có gì
khuynh đảo
được nó. Có
thế, tâm xác
định được
đúng sai và
giải quyết
được điều
nghi ngờ.»
Đại Học
nói: «Nói
“tu sửa bản
thân là do ở
làm cho tâm
chính trực”
(tu
thân tại
chính kỳ tâm)
có nghĩa là
hễ
giận dữ thì
tâm không
chính. Hễ sợ
hãi thì tâm
không chính.
Hễ ham khoái
lạc thì tâm
không chính.
Hễ lo buồn
thì tâm
không chính.»
Tâm có những
trạng thái
đó khác nào
một cơn gió
nhẹ thoảng
qua làm cặn
cáu ở đáy
chậu bị
động, phần
nước trong
trẻo ở trên
bị loạn,
khiến ta
không thể
soi được
hình ảnh
đích thực
của mình.
Nếu tâm như
nước trong
cái chậu
được đặt
ngay
ngắn và
không bị tác
động thì nó
sẽ xác định
được đúng
sai và giải
quyết được
điều nghi
ngờ.
Tuân Tử
nói tiếp:
«Nếu tâm bị
việc nhỏ
nhặt dẫn đi,
thì sự chính
trực bị thay
đổi và nội
tâm bị chao
đảo, như vậy
sẽ ta không
thể giải
quyết được
các việc
thông
thường.
Cho
nên người
thích viết
chữ thì
nhiều nhưng
chỉ có
Thương Hiệt
là truyền
lại, đó là
do tâm
chuyên nhất
vậy; người
thích lúa má
thì nhiều
nhưng chỉ có
Hậu Tắc là
truyền lại,
đó là do
chuyên nhất
vậy; người
thích âm
nhạc thì
nhiều nhưng
chỉ có Quỳ
là truyền
lại, đó là
do chuyên
nhất vậy;
người thích
điều nghĩa
thì nhiều
nhưng chỉ có
Thuấn là
truyền lại,
đó là do
chuyên nhất
vậy. Thùy
chế tạo cây
cung, Phù Du
chế tạo mũi
tên, còn
Nghệ giỏi
bắn cung. Hề
Trọng chế
tạo xe, Đỗ
nghĩ cách
mắc ngựa vào
xe, còn Tạo
Phụ giỏi
đánh xe. Từ
xưa đến nay,
chưa từng có
ai ôm đồm mà
giỏi cả.»
Tức là nếu
tâm không
chuyên nhất
thì tâm sẽ
loạn và bất
chính.
Đại Học
nói: «Tâm
loạn thì ta
nhìn không
thấy, nghe
không được
ăn không
ngon.»
Đó là cái
lỗi do tâm
không chuyên
nhất. Muốn
không vướng
phải lỗi đó,
đối với một
sự vật, ta
phải thành
thực tìm cầu
nó. Đại
Học nói:
«Khang
Cáo nói:
“Hãy giống
như bảo vệ
đứa trẻ sơ
sinh.” Lấy
lòng thành
thực mà cầu
sự vật, tuy
không trúng,
nhưng sai
không xa.
Chưa từng có
kẻ học nuôi
con rồi mới
lấy chồng.»
Tấm lòng mẹ
hiền
bảo vệ đứa
con còn đỏ
hỏn là một
thí dụ cụ
thể về sự
thành tâm
vậy.
Đại Học
nói:
«Nói
“làm thành
thực cái ý
của mình”
(thành kỳ ý)
có nghĩa là
không tự lừa
mình. Như
ghét mùi
thối, thích
sắc đẹp, đó
gọi là khiêm
tốn với
chính mình.
Cho nên quân
tử phải thận
trọng khi ở
một mình.
Tiểu nhân
khi nhàn rỗi
thì làm việc
quấy, chuyện
gì cũng dám
làm. Khi gặp
người khác
thì kẻ tiểu
nhân che
giấu cái ác
của nó và vờ
tỏ ra lương
thiện. Nhưng
quân tử nhìn
thấu gan
phổi nó, dù
nó che giấu
cũng vô ích.
Đó là vì hễ
trong lòng
thành thực
thì sự thành
thực hiện ra
mặt. Cho nên
quân tử phải
thận trọng
khi ở một
mình. Tăng
Tử nói:
“Mười mắt
nhìn vào,
mười tay trỏ
vào. Nghiêm
trọng thay!”
Giàu có thấm
mát nhà cửa,
đạo đức thấm
mát bản
thân, tâm
quảng đại
thì cốt cách
quang minh
chính đại.
Cho nên quân
tử phải làm
thành thực
cái ý của
mình.»
Con người
thấy mùi
thối thì
ghét, là
thành thực
ghét; thấy
sắc đẹp thì
thích, là
thành thực
thích. Đó là
một thí dụ
cụ thể về sự
thành thực
vậy.
Đại Học
nói
«trong
lòng
thành thực
thì sự thành
thực hiện ra
mặt»
(thành ư
trung hình ư
ngoại) và
«thận trọng
khi ở một
mình» (thận
độc), đều
giống với ý
của Tuân Tử.
Nhưng cái
gọi là «một
mình» (độc)
thì Tuân Tử
gọi là
«chuyên
nhất». Đối
với một sự
vật, hễ ta
chân thực
cầu nó, thì
tự ta có thể
chuyên nhất
mà cầu nó.
Tuy nhiên,
Đại Học
khi nói
«quân tử
thận kỳ độc»
là ngụ ý nội
tâm và ngoại
diện phải
nhất trí với
nhau, đó là
một khác
biệt nhỏ với
ý của Tuân
Tử.
Tâm của
chúng ta
phải có sự
thành thực
tìm cầu thì
tâm mới
không loạn
và sẽ trở
nên chính
trực, tức là
«biết dừng
thì sẽ định»
(tri chỉ nhi
hậu hữu
định),
v.v... Đó là
lý do tại
sao «kẻ muốn
cho tâm
chính trực
thì trước
phải làm
thành thực
cái ý của
mình» (dục
chính kỳ tâm
giả, tiên
thành kỳ ý).
Cái thành ý
đó là do
biết dừng
(tri chỉ) mà
có. Cho nên
«muốn
thành ý thì
phải trí
tri
(biết tới
chốn) trước».
«Vật
có gốc ngọn,
việc có đầu
cuối, biết
thứ tự trước
sau thì gần
với đạo.» Biết
tới chốn
(trí tri)
tức là biết
điều ấy. Cho
nên nói:
«Từ
thiên tử cho
đến dân
chúng, tất
cả đều lấy
tu thân làm
gốc. Gốc
loạn mà ngọn
trị thì
không hề có.
Cái dầy dặn
mà xem mỏng
manh, cái
mỏng manh mà
xem dầy dặn
thì chưa hề
có. Đó gọi
là biết gốc,
là biết tới
nơi tới
chốn.»
Biết gốc
(tri bản)
tức là
biết tới
chốn. Biết
tu thân là
gốc, mà lại
chuyên nhất
và thành
thực tu
thân, tức là
«biết
tới chốn thì
ý thành
thực».
Đại Học
lại nói:
«Đức là gốc,
tiền tài là
ngọn. Nếu kẻ
cai trị lấy
ngoại vật
làm gốc và
lấy nội tâm
làm ngọn,
tức là tranh
giành với
dân và dạy
họ cướp đoạt
nhau.»
Biết đức là
gốc
mà lại
chuyên nhất
và thành
thực
«làm sáng thêm
cái đức sáng
sẵn có ở
thiên hạ»
(minh minh
đức ư thiên
hạ
明
明
德
於
天
下
) cũng tức
là «biết
tới chốn thì
ý thành
thực».
Tuy nhiên,
nếu ta muốn
biết
gốc ngọn và
đầu cuối của
sự vật, thì
đối với bất
kỳ sự vật gì
trước tiên
ta phải có
một số hiểu
biết chính
xác về
chúng. Nếu
không, cái
mà ta gọi là
gốc (hay
đầu) ắt
không phải
là gốc (hay
đầu), cái mà
ta gọi là
ngọn (hay
cuối) ắt
không phải
là ngọn (hay
cuối). Bước
khởi đầu mà
lầm lẫn thì
bước tiếp
theo sau
cũng lầm lẫn
luôn.
Tuân Tử
nói:
«Hễ
quan sát sự
vật mà mà hồ
nghi và
trong lòng
không yên
định, thì ta
không nhận
rõ ngoại
vật. Hễ tư
tưởng ta
không rõ
ràng thì ta
không thể
xác định
đúng sai. Đi
trong tối
tăm thì thấy
tảng đá là
cọp nằm;
thấy đám cây
mới trồng là
bọn người
đang đứng.
Đó là mù mịt
tối tăm che
lấp sáng
suốt của
mình. Kẻ say
rượu đi qua
cái mương
rộng trăm
bước tưởng
là cái rãnh
rộng nửa
bước; rồi
cúi người đi
qua cổng
thành vì
tưởng nó là
cái cửa nhỏ
ở khuê
phòng. Đó là
rượu làm
loạn tinh
thần của
hắn. Che bớt
mắt mà nhìn
thì thấy một
thành hai,
bịt tai lại
thì âm thanh
nhỏ nghe ra
tiếng ù ù.
Đó là tư thế
làm loạn
giác quan.
Cho nên trên
núi nhìn
xuống thấy
con trâu
thành con
dê, nhưng ai
tìm dê thì
không đi
xuống dắt nó
đi. Đó là độ
xa che lấp
độ lớn. Từ
chân núi
nhìn lên
thấy cây cao
mười thước
như thể đũa
ăn cơm,
nhưng ai cần
đũa chắc
không lên
núi mà bẻ.
Đó là độ cao
che lấp độ
dài. Nước bị
động thì ảnh
phản chiếu
trên mặt
nước cũng
dao động,
người ta soi
bóng trên
mặt nước sẽ
không biết
mình đẹp hay
xấu. Đó là
tình trạng
của nước làm
rối loạn. Kẻ
mù ngước mặt
nhìn trời
thì không
thấy tinh
tú, nhưng
người ta
không căn cứ
vào đó để
xác định là
có tinh tú
hay không.
Đấy là cái
mù che lấp
người mù. Ai
theo tình
trạng bị che
lấp đó mà
xác định sự
vật, đó là
kẻ ngu nhất
trên đời. Sự
xác định sự
vật của kẻ
ngu ấy là
lấy nghi ngờ
giải quyết
nghi ngờ,
như thế sự
phán đoán ắt
phải sai.
Nếu sai, sao
tránh khỏi
lỗi lầm?»
Nếu quan sát
sự vật mà bị
che lấp thì
ta sẽ không
có hiểu biết
chính xác về
sự vật đó.
Cho nên sự
hiểu biết
tới nơi tới
chốn là nhờ
ở phân tích
suy xét sự
vật (trí tri
tại cách vật
致
知
在
格
物
). Quảng
Nhã
(Thích Hỗ)
giảng «cách»
格
là tới (cách
giả chí dã
格
者
至
也
), tức là
nhìn xuyên
thấu hiện
tượng của
vật để thấy
bản lai diện
mục của nó,
thấy chân
tướng của
nó. Nếu
không, «lấy
nghi ngờ
giải quyết
nghi ngờ,
như thế sự
phán đoán ắt
phải sai».
Nhưng muốn
thấy chân
tướng sự vật
thì trước
tiên ta chớ
để cho tâm
bất định.
Bởi vì
trí tri
và cách
vật đều
là hoạt động
của tâm, cho
nên chúng có
quan hệ nhân
quả với
chính tâm.
TRUNG DUNG
Thiên
Trung Dung
trong
Tiểu Đái Lễ
Ký tương
truyền là
sáng tác của
Tử Tư, cháu
nội của
Khổng Tử.
Cho nên
thiên
Khổng Tử Thế
Gia
trong Sử
Ký nói:
«Tử Tư viết
Trung
Dung.»
Thiên Phi
Thập Nhị Tử
trong
Tuân Tử
xem Tử Tư và
Mạnh Tử là
một phái.
Ngoài ra,
những nghĩa
lý được nói
trong
Trung Dung
và
Mạnh Tử
thì tương
đồng. Như
vậy Trung
Dung có
lẽ do Tử Tư
viết. Tuy
nhiên, trong
Trung
Dung có
câu: «Nay
trong thiên
hạ các xe có
trục bánh xe
dài bằng
nhau, chữ
viết thống
nhất một
kiểu, đức
hạnh theo
cùng một thứ
luân lý.» (Kim
thiên hạ, xa
đồng quỹ,
thư đồng
văn, hạnh
đồng luân
今
天
下
車
同
軌
書
同
文
行
同
倫
).
Đó là bối
cảnh Trung
Quốc sau khi
thống nhất ở
đời Tần và
đời Hán.
Trong
Trung Dung
còn có
câu: «[Quả
đất] chở núi
Hoa và núi
Nhạc mà
không thấy
nặng.» (Tải
Hoa Nhạc nhi
bất trọng
載
華
嶽
而
不
重
). Dường
như đó không
phải là câu
nói của
người nước
Lỗ.
Ngoài ra
trong
Trung Dung
còn có
các khái
niệm tính
性
,
mệnh
命
,
thành
誠
,
minh
明
được giảng
rõ ràng hơn
trong
Mạnh Tử,
dường như
đây là học
thuyết của
Mạnh Tử được
phát huy
thêm. Do đó
Trung
Dung là
sáng tác của
phái Mạnh Tử
sống vào đời
Tần và đời
Hán. Vương
Bách
(1194-1270)
nói: «Trung
Dung là
sáng tác của
Tử Tư. [...]
Theo ngu ý,
văn cú không
mạch lạc.
Ngày nọ tôi
đọc Tây
Hán Nghệ Văn
Chí thấy
chép:
Trung Dung
Thuyết
có hai
thiên. [...]
Lòng bỗng
nghi ngờ,
rồi biết
thời của Ban
Cố
ban đầu có
hai thiên;
hợp lại gây
lộn xộn,
phải chăng
do bàn tay
của Tiểu
Đái?»
Lại nói:
«Nay tác giả
lấy Trung
Dung làm
nhan đề của
thiên, mà ta
không thấy
hai chữ
Trung Dung ở
đầu chương,
là tại sao?
Chương một
nói: Đạo
không phải
là cái đạo
nào khác,
không phải
là cái đạo
có thể rời
xa được; đó
là đạo Trung
Dung vậy.
[...] Nhưng
chương hai
bỗng nói
“quân tử
Trung Dung”,
vậy là không
phù hợp
chương một,
e rằng nó
không phải
là văn
chương của
Tử Tư. Sự
không mạch
lạc này chắc
là có nguyên
nhân.»
Vương Bách
đề xuất hai
vấn đề, có
thể nói là
rất hiểu
biết; tiếc
rằng đối với
đáp án cho
vấn đề thứ
nhất, ông
lấy đoạn sau
của Trung
Dung
phân thành
một thiên
đặt tên là
«Thành Minh»
誠
明
rất vô căn
cứ. Còn vấn
đề thứ hai,
ông lại bắt
bẻ từ ngữ.
Tuy
nhiên, những
đề xuất của
ông đã gợi
mở không ít
cho chúng
ta. Đọc kỹ
nghĩa lý của
Trung
Dung, ta
thấy đoạn
đầu (từ «Thiên
mệnh chi vị
tính»
đến «Thiên
địa vi yên,
vạn vật dục
yên») và
đoạn cuối
(từ «Tại
hạ vị bất
hoạch hồ
thượng» đến «Vô
thanh vô xú,
chí hĩ»)
phần lớn nói
về quan hệ
giữa con
người với vũ
trụ, dường
như đó là
khuynh hướng
của chủ
nghĩa thần
bí trong
triết học
Mạnh Tử được
phát huy
thêm. Còn
văn thể của
nó đại khái
là loại văn
nghị luận.
Đoạn giữa
(từ «Trọng
Ni viết:
Quân tử
Trung Dung»
đến «Đạo
tiền định
tắc bất cùng»)
phần lớn nói
về nhân sự,
dường như đó
là học
thuyết của
Khổng Tử
được phát
huy thêm.
Còn văn thể
của nó đại
khái là loại
văn đối
thoại. Từ
điểm khác
biệt ấy mà
suy ra,
dường như
đoạn giữa
mới là bản
Trung
Dung gốc
do Tử Tư
viết, tức
bản 23 thiên
của Tử Tư
được liệt kê
nơi phần Nho
gia trong
Hán Thư Nghệ
Văn Chí.
Còn đoạn đầu
và đoạn cuối
là do Nho
gia đời sau
thêm vào,
tức hai
thiên
Trung Dung
Thuyết
được liệt kê
nơi phần 13
quyển sách
Lễ trong
Hán Thư Nghệ
Văn Chí.
Câu «Kim
thiên hạ, xa
đồng quỹ,
thư đồng
văn, hạnh
đồng luân»
nằm ở đoạn
sau, càng
cho ta thấy
rõ điều ấy.
Tác giả của
Trung
Dung Thuyết
đặt tên
sách như
vậy, ắt là
Nho gia
thuộc môn
phái Tử Tư,
nhưng nội
dung lại
phát huy học
thuyết của
Mạnh Tử, nên
tác giả ắt
là Nho gia
thuộc môn
phái Mạnh
Tử. Bởi vì
hai phái này
vốn gần gũi
nhau, nên
thiên Phi
Thập Nhị Tử
trong
Tuân Tử
mới gộp
thành một
phái.
Bây giờ tôi
luận đoạn
giữa của
Trung Dung
trước.
Trung Dung
nói:
«Trọng Ni
(tức Khổng
Tử) nói:
Quân tử giữ
được Trung
Dung, tiểu
nhân thì
trái lại.
Quân tử
giữ được
Trung
Dung nên giữ
được sự
trung chính
tuỳ theo
thời. Còn
tiểu nhân
không giữ
được Trung
Dung nên
việc gì cũng
dám làm,
chẳng sợ ai
cả.»
Hai khái
niệm «Trung»
中
và «Dung»
庸
là của Khổng
Tử (chương
Ung Dã của
Luận Ngữ
có đề cập
chúng).
Trung Dung
lại nói
đến «Thời
Trung»
時
中
(trung chính
tuỳ theo
thời),
mà cái Trung
trong mọi sự
việc của con
người thì
Aristotle
xem là tương
đối chứ
không tuyệt
đối. Ông cho
rằng tình
cảm và hành
vi của con
người được
bộc lộ khác
nhau tuỳ
theo thời
gian, nơi
chốn, và đối
tượng tiếp
nhận. Cho
nên khó mà
xác định thế
nào mới là
Trung.
Trung
Dung nói
Thời Trung
thì ý cũng
thế.
Mạnh Tử
chú trọng
chữ Thời,
nên nói:
– «Ai
không đáng
là vua thì
không phụng
sự, ai không
đáng là dân
thì không
sai khiến.
Đời bình thì
ra làm quan,
đời loạn thì
đi ẩn, đó là
Bá Di. Phụng
sự kẻ không
đáng là vua,
sai khiến kẻ
không đáng
là dân; đời
bình cũng ra
làm quan,
đời loạn
cũng ra làm
quan, đó là
Y Doãn. Lúc
có thể làm
quan thì làm
quan, lúc có
thể dừng
[việc quan]
thì dừng,
lúc có thể
[làm quan]
lâu thì lâu,
lúc có thể
[làm quan]
mau thì mau,
đó là Khổng
Tử.»
– «Bá
Di có đức
thanh khiết
của thánh
nhân. Y Doãn
có tinh thần
trách nhiệm
của thánh
nhân. Liễu
Hạ Huệ có sự
ôn hoà của
thánh nhân.
Khổng Tử có
đức tuỳ thời
của thánh
nhân.»
– «Tử
Mạc chấp
trung
執
中
(giữ trung
chính), chấp
trung thì
gần với Đạo.
Nhưng chấp
trung mà
không quyền
biến (tức
không tuỳ
thời mà ứng
biến) thì
khác gì cố
chấp. Ta vốn
ghét kẻ cố
chấp, và xem
hắn là kẻ
hại Đạo, vì
bo bo lấy
một mặt mà
vất bỏ trăm
mặt khác.»
Mạnh Tử lấy
«đức
tuỳ thời của
thánh nhân»
mà khen
Khổng Tử.
Ngược lại,
Bá
Di, Y Doãn,
Liễu Hạ Huệ
đều chỉ có
một quy tắc
không đổi về
việc xuất xử
(ra làm quan
hay ở ẩn).
Luận Ngữ
nói:
«Có những
người, ta có
thể đứng
chung với họ
nhưng chưa
thể cùng họ
quyền biến.»
Đó là thói
chấp nhất
(hay cố
chấp) vậy.
Nếu chỉ nói
Trung mà
không nói
Thời, tức là
chấp trung
mà không
biết quyền
biến, khác
nào chấp
nhất. Chấp
nhất mà xem
là Trung,
tức là bo bo
lấy một mặt
mà vất bỏ
trăm mặt
khác.
Trung Dung
nói: «Khổng
Tử nói: “Đạo
không xa
người. Khi
người làm
cho Đạo xa
mình, thì nó
không thể
xem là Đạo
được nữa.”
Kinh Thi
nói:
“Khi đẽo cán
búa, chớ xa
cán búa
mẫu.”Ta
cầm cán búa
này để đẽo
một cán búa
khác, nhưng
nhìn hai cán
búa thì ta
thấy chúng
khác xa
nhau. Cho
nên quân tử
lấy người
trị người,
thì phải cải
tạo họ cho
thật tốt mới
thôi. Cứ giữ
Trung
忠
(trung thực,
hết lòng) và
Thứ
恕
(tức nguyên
tắc hiệt
củ) thì
sẽ không xa
Đạo. Điều gì
mình không
muốn người
ta làm cho
mình thì
mình chớ làm
cho họ. Đạo
của người
quân tử có
bốn điều,
thế mà ta
chưa được
một: Lấy cái
mà ta cầu ở
con ta, đem
ra phụng sự
cha ta; ta
chưa làm
được. Lấy
cái mà ta
cầu ở bề tôi
ta, đem ra
phụng sự vua
ta; ta chưa
làm được.
Lấy cái mà
ta cầu ở em
ta, đem ra
phụng sự anh
ta; ta chưa
làm được.
Đối với bạn
bè, phải ra
tay giúp
trước; ta
chưa làm
được. Quân
tử thực hành
đức bình
thường (dung
đức
庸
德
) và cẩn
trọng lời
nói bình
thường (dung
ngôn
庸
言
). Nếu có gì
sơ sót, thì
không dám bỏ
qua; nếu có
gì dư thừa,
thì không
dám cho là
trọn vẹn.
Lời nói đi
với hành
động, hành
động đi với
lời nói.
Quân tử lẽ
nào không
chăm chăm
vào nó?»
Ở đây phát
huy đạo
Trung Thứ
của Khổng
Tử. Đạo
Trung Thứ
tức là suy
bụng ta ra
bụng người.
Đó là lý do
tại sao quân
tử lấy người
trị người,
còn phần
mình thì
không xa lìa
khuôn mẫu.
Đạo Trung
Thứ giản dị
như thế, nên
gọi là Dung
庸
vậy.
Trung Dung
nói: «Đạo
trong thiên
hạ có năm
quan hệ (ngũ
luân); để
thực hành
thì có ba
đức (tam
đức). Năm
quan hệ (ngũ
luân) trong
thiên hạ là:
vua-tôi,
cha-con,
chồng-vợ,
anh-em, bạn
bè. Ba đức
trong thiên
hạ là: trí
智
, nhân
仁
, dũng
勇
. Đem ba đức
ra thi hành
cho ngũ
luân, tuy ba
đức nhưng
coi như một.
Về ngũ luân,
có người
sinh ra đời
thì đã biết;
có người
phải học mới
biết; có
người gặp
nguy khốn
mới biết.
Tuy nhiên
kết quả của
sự hiểu biết
ấy là một.
Có người thi
hành đạo ngũ
luân rất tự
nhiên; có
người thi
hành nó dễ
dàng; có
người phải
cố gắng lắm
mới thi hành
được. Tuy
nhiên sự
thành công
của họ thì
như nhau.
Khổng Tử
nói: Kẻ hiếu
học thì gần
đức trí. Kẻ
cố gắng hành
đạo thì gần
đức nhân. Kẻ
biết xấu hổ
thì gần đức
dũng. Biết
ba cái ấy
thì sẽ biết
tu sửa bản
thân. Biết
tu thân thì
sẽ biết quản
lý con
người. Biết
quản lý con
người thì sẽ
biết trị
thiên hạ và
quốc gia.»
Đó cũng
chính là học
thuyết của
Khổng Tử
được phát
huy thêm,
khiến cho
ngũ luân
(năm mối
quan hệ) trở
thành Đạo
phổ biến của
thiên hạ, và
khiến tam
đức (trí,
nhân, dũng;
tức là thành
tựu của sự
tu thân) trở
thành Đức
phổ biến của
thiên hạ.
Lấy tam đức
mà thực hành
ngũ luân,
tức là có
thể tu thân
và trị
người.
Trên đây tôi
lấy đoạn
giữa của
Trung Dung
mà bình
luận. Còn
đoạn đầu và
đoạn cuối
của nó chính
là sự thuyết
minh có hệ
thống về chủ
nghĩa phản
công lợi
trong triết
học Mạnh Tử
kết hợp với
khuynh hướng
chủ nghĩa
thần bí.
Trung Dung
nói:
«Thiên mệnh
(mệnh trời)
gọi là Tính.
Theo Tính
gọi là Đạo.
Tu Đạo gọi
là Giáo.»
Đại Đái Lễ
Ký
chép: «Cái
được phân ra
từ Đạo gọi
là Mệnh. Cái
thành hình ở
mỗi một sự
vật gọi là
Tính. Cái
biến hoá qua
Âm Dương và
phát ra
thành hình
gọi là sinh.
Cái biến hoá
đến cùng tận
gọi là tử.»
Trung Dung
gọi là Thiên
(trời) thì
Đại Đái
Lễ Ký
(Bản Mệnh)
gọi là Đạo.
«Cái được
phân ra từ
Đạo gọi là
Mệnh. Cái
thành hình ở
mỗi một sự
vật gọi là
Tính.» Quan
hệ giữa
Thiên và
Tính theo
Nho gia
tương đồng
với quan hệ
giữa Đạo và
Đức theo Đạo
gia. Thiên
chứa nguyên
lý đạo đức
của vũ trụ,
còn Tính là
cái mà Thiên
«mệnh» (ban
cho)
người; nói
cách khác,
tức Tính là
cái mà người
nhận lãnh
được phân ra
từ Thiên.
Khổng Tử một
mặt chú
trọng sự
biểu lộ chân
thực của
tính tình cá
nhân; mặt
khác, ông
chủ trương
phải lấy lễ
tiết chế
tình cảm.
Trung Dung
một mặt
cũng chủ
trương «suất
Tính» (noi
theo Tính);
một mặt lại
chủ trương
lấy «Giáo»
(giáo hoá)
để tu sửa
Tính.
Trung Dung
nói:
«Vui,
giận, buồn,
sướng chưa
phát lộ ra
thì gọi là
Trung; phát
ra mà có
chừng mực
thì gọi là
Hòa.»
Vui, giận,
buồn, sướng
đều là những
tình cảm tự
nhiên, tất
phải phát lộ
ra. Nhưng ta
phải
lấy «Giáo»
(giáo hoá)
để tu sửa
chúng, để
cho sự phát
lộ ấy không
thái quá
cũng không
bất cập, tức
là có chừng
mực.
Triết học
của Mặc gia
khác với
triết học
của Nho gia.
Nho gia thì
«làm cho ý
nghĩa trở
nên chính
đáng mà
không mưu
lợi; làm rõ
Đạo mà không
kể công»
nhưng Mặc Tử
chuyên chú
trọng lợi và
công. Theo
Nho gia,
người không
kể đến công
và lợi thì
cho rằng ý
nghĩa và giá
trị của hành
vi chúng ta
nằm ngay ở
tự thân hành
vi ấy chứ
không ở bên
ngoài nó.
Trung Dung
ủng hộ thái
độ nhân sinh
ấy bằng một
căn cứ siêu
hình: «Kinh
Thi
nói: “Mệnh
Trời sâu kín
và chẳng
ngừng nghỉ!”
Ý nói Trời
sở dĩ như
thế mới là
Trời. [Kinh
Thi lại
nói:] “Ôi!
Không hiển
lộ! Đức của
Văn Vương
thuần.” Ý
nói Văn
Vương sở dĩ
là Văn Vương
vì đức của
ngài thuần
và chẳng
ngừng nghỉ.»
Trung Dung
lại nói:
«Cho
nên bậc chí
thành thì
không ngừng
nghỉ. Không
ngừng nghỉ
thì lâu dài.
Lâu dài thì
tự thể hiện.
Tự thể hiện
thì đi xa.
Đi xa thì
rộng và dày.
Rộng dày thì
cao minh.
Rộng dày thì
chở được mọi
vật. Cao
minh thì che
chở được mọi
vật. Đi xa
thì thành
tựu mọi vật.
Rộng dày thì
phối hợp với
đất. Cao
minh thì
phối hợp với
Trời. Đi xa
không biên
giới. Như
vậy, không
hiện ra mà
sáng. Không
hành động mà
biến đổi. Vô
vi mà thành
tựu. Đạo của
Trời đất có
thể tóm lại
một lời:
Trời và đất
cùng tạo ra
vạn vật, sự
sáng tạo ấy
không thể đo
lường nổi.
Đạo của Trời
đất thì
rộng, dày,
cao vời,
sáng sủa, đi
xa, lâu dài.»
Trời (Thiên)
hoạt động
không ngừng,
không vì
riêng ai mà
làm. Quân tử
lấy Trời làm
phép tắc,
cho nên cũng
phải tự lực
tự cường
không ngừng
nghỉ, không
vì riêng ai
mà làm.
Tôi đã nói
trong triết
học của Mạnh
Tử có khuynh
hướng chủ
nghĩa thần
bí. Trung
Dung
càng phát
triển thêm
khuynh hướng
ấy, cho rằng
«cái đạo hợp
nhất trong
và ngoài»
(hợp nội
ngoại chi
đạo
合
內
外
之
道
) là cảnh
giới tối cao
trong sự tu
dưỡng của
con người.
Trong cảnh
giới ấy, tuy
sự sống vẫn
hoạt động và
sự vật vẫn
tiếp tục,
nhưng không
còn nữa sự
phân biệt
giữa trong
với ngoài,
giữa ta với
người. Cái
mà Trung
Dung gọi
là Thành
誠
dường như ám
chỉ cảnh
giới đó.
Trời (Thiên)
vốn là
Thành, vì
Trời vốn
không phân
biệt trong
với ngoài.
Trung
Dung
nói: «Thành
là đạo của
Trời; đạt
được Thành
là đạo của
người. [...]
Từ Thành mà
trở nên Minh
(sáng suốt)
gọi là Tính;
từ Minh mà
trở nên
Thành gọi là
Giáo (giáo
hoá). Hễ
Thành thì sẽ
Minh, hễ
Minh thì sẽ
Thành.»
Thành là đạo
Trời và con
người phải
dùng đến
«giáo»
教
(giáo hoá)
để «tự minh»
自
明
(tự soi
sáng, giác
ngộ) và rồi
đạt tới
Thành. Vì
thế nói
Thành là đạo
của người.
Trung
Dung
nói: «Thành
là khởi đầu
và kết thúc
của vạn vật.
Không có
Thành thì
không có vạn
vật. Do đó,
quân tử xem
Thành là
quý.Thành
không chỉ là
hoàn thiện
bản thân, mà
còn phải
hoàn thiện
vạn vật.
Hoàn thiện
bản thân là
nhân ái;
hoàn thiện
vạn vật là
trí. Nhân và
trí là hai
đức của
Tính. Có hai
đức ấy tức
là hợp nhất
ngoài và
trong. Cho
nên quân tử
luôn thi
hành đúng
nghi thức.»
Trung Dung
xem «hoàn
thiện bản
thân và vạn
vật»
là «đạo hợp
nhất ngoài
và trong»;
giống như
Schopenhauer
nói «sự
nghiệp nhân
ái» (ái chi
sự nghiệp
愛
之
事
業
)
vượt trên
«nguyên lý
cá tính»
(principium
individutionis).
Thành là
đức của
Tính. Giáo
không thể
lấy bất cứ
gì ở bên
ngoài để
thêm vào
Tính, mà nó
chỉ trợ giúp
Tính phát
triển trọn
vẹn thôi.
Trung Dung
nói:
«Trong
thiên hạ, hễ
ai chí thành
thì mới có
thể phát
triển cùng
tận Tính của
mình. Phát
triển cùng
tận Tính của
mình thì mới
có thể phát
triển cùng
tận Tính của
người. Phát
triển cùng
tận Tính của
người thì
mới có thể
phát triển
cùng tận
Tính của mọi
vật. Phát
triển cùng
tận Tính của
mọi vật thì
mới có thể
trợ giúp sự
hoá dục của
Trời đất. Có
thể trợ giúp
sự hoá dục
của Trời đất
thì có thể
phối hợp với
Trời đất.»
Cái Tính của
người và vật
đều là một
phần của
Trời, nên ai
có thể
phát triển
cùng tận
Tính của
mình thì sẽ
có thể phát
triển cùng
tận Tính của
mọi người và
mọi vật.
Người chí
thành là
người không
còn phân
biệt ngoài
với trong,
không còn
thấy người
với ta, tức
là đạt cảnh
giới ta với
vạn vật là
một thể. Đã
hoà làm một
thể với vạn
vật tức là
có thể trợ
giúp sự hoá
dục của Trời
đất và phối
hợp với Trời
đất. Hạng
người như
thế có đức
của
thánh nhân,
nếu ngồi ở
địa vị thiên
tử ắt sẽ có
thể «nghị
luận về lễ,
lập ra các
định chế,
khảo sát văn
chương»
(nghị lễ,
chế độ, khảo
văn) được.
Trung Dung
nói: «Cho
nên đạo của
quân tử [ở
cương vị cai
trị] gốc ở
bản thân rồi
thể hiện nơi
thứ dân. Xét
các định chế
của Tam
Vương (Vũ,
Thang, Văn)
thì thấy các
định chế của
mình không
sai lầm. Sự
kiến lập các
định chế ấy
không trái
ngược với
Trời đất.
Trước quỷ
thần, mình
không có gì
nghi ngại.
Dù thánh
nhân của
trăm đời sau
cũng không
ngờ vực
mình. Trước
quỷ thần,
mình không
có gì nghi
ngại: đó là
mình biết
Trời. Dù
thánh nhân
của trăm đời
sau cũng
không ngờ
vực mình: đó
là mình biết
người. Cho
nên, cử động
của quân tử
trở thành
gương đạo
đức cho muôn
đời, sự thi
hành trở
thành khuôn
phép cho
muôn đời,
lời nói trở
thành quy
tắc cho muôn
đời. Người ở
xa hoài
mong; kẻ ở
gần không
chán ghét.
Kinh Thi
nói: “Ở
đây không ai
ghét, ở kia
không ai đố
kỵ; ngày đêm
luôn như
thế, thì mãi
mãi được
tiếng khen.”
Nếu quân
tử không cư
xử được như
thế, làm sao
sớm được
thiên hạ
khen?»
Khi bậc quân
tử như thế
ngồi trên
ngai vàng,
hẳn sẽ trị
thiên hạ
bằng ảnh
hưởng của
mình. Trong
tình hình
đó, thế giới
sẽ: «Vạn
vật nuôi
dưỡng nhau
mà không làm
hại nhau.
Mọi nguyên
tắc cùng thi
hành mà
không trái
ngược nhau.
Đức nhỏ như
sông chảy.
Đức lớn đôn
hậu biến
hoá. Trời
đất do đó mà
lớn lao vậy.»
Cứ theo đó
thì thấy
phần lớn của
Trung
Dung là
tư tưởng
Mạnh Tử, còn
phần lớn của
Đại Học
là tư
tưởng Tuân
Tử. Hai
thiên
Trung Dung
và
Đại Học
có thế lực
rất lớn
trong triết
học Trung
Quốc. Và
chẳng phải
ngẫu nhiên
mà trong
thời Chiến
Quốc hai
thiên ấy đại
biểu cho hai
phái lớn của
Nho gia do
Mạnh Tử và
Tuân Tử dẫn
đầu.●
Lê Anh Minh
dịch
và phụ chú
Nguồn:
Phùng Hữu
Lan
馮
友
蘭
,
Trung
Quốc Triết
Học Sử
中
國
哲
學
史
,
Hương Cảng
1956.
Trích dịch
hai tiết 7
và 8 của
chương 14
(Nho
gia đời Tần
và đời Hán)
trong thiên
thứ nhất.
Phụ chú của
người dịch
ghi là LAM
chú.
CHÚ THÍCH:
LAM chú: Tử
Tư
子 思
(483-402
TCN) tức
Khổng Cấp
孔 伋
, cháu nội
Khổng Tử.
Sử Ký
(Khổng Tử
Thế Gia)
chép: «Khổng
Tử sinh ra
Lý
鯉
, tự là Bá
Ngư
伯 魚
. Bá Ngư
sinh ra Cấp
伋
, tự là Tử
Tư
子 思
.» Tương
truyền Tử Tư
là học trò
của Tăng Sâm
僧 參
và là thầy
của Lỗ Mục
[Mậu] Công
魯 繆 公
. Đời Bắc
Tống, vua
Huy Tông
徽 宗
truy phong
Tử Tư là Cân
Thuỷ Hầu
沂 水 侯
; đời
Nguyên, vua
Văn Tông
文 宗
truy phong
Tử Tư là
Thuật Thánh
Công
述 聖 公
, đời sau
gọi
ngài
là Thuật
Thánh
述 聖
.
«Đại
học chi đạo,
tại minh
minh đức,
tại tân dân,
tại chỉ ư
chí thiện.
Tri chỉ nhi
hậu hữu
định, định
nhi hậu năng
tĩnh, tĩnh
nhi hậu năng
an, an nhi
hậu năng lự,
lự nhi hậu
năng đắc.
Vật hữu bản
mạt, sự hữu
chung thuỷ,
tri sở tiên
hậu, tắc cận
đạo hĩ. Cổ
chi dục minh
minh đức ư
thiên hạ
giả, tiên
trị kỳ quốc.
Dục trị kỳ
quốc giả,
tiên tề kỳ
gia. Dục tề
kỳ gia giả,
tiên tu kỳ
thân. Dục tu
kỳ thân giả,
tiên chính
kỳ tâm. Dục
chính kỳ tâm
giả, tiên
thành kỳ ý.
Dục thành kỳ
ý giả, tiên
trí kỳ tri.
Trí tri tại
cách vật.
Vật cách nhi
hậu tri chí.
Tri chí nhi
hậu ý thành.
Ý thành nhi
hậu tâm
chính. Tâm
chính nhi
hậu thân tu.
Thân tu nhi
hậu gia tề.
Gia tề nhi
hậu quốc
trị. Quốc
trị nhi hậu
thiên hạ
bình. Tự
thiên tử dĩ
chí ư thứ
nhân, nhất
thị giai dĩ
tu thân vi
bản. Kỳ bản
loạn nhi mạt
trị giả phủ
hĩ. Kỳ sở
hậu giả bạc,
nhi kỳ sở
bạc giả hậu,
vị chi hữu
dã. Thử vị
tri bản, thử
vị tri chi
chí dã.»
大 學 之 道
,
在 明 明 德
,
在 親 (新
)
民 ,
在 止 於 至 善
.
知 止 而 後 有 定
,
定 而 後 能 安
,
安 而 後 能 慮
,
慮 而 後 能 得
.
物 有 本 末
,
事 有 終 始
,
知
所 先 後
,
則 近 道 矣
.
古 之 欲 明 明 德
於天 下 者
,
先 治 其 國
.
欲 治 其 國 者
,
先 齊 其 家
.
欲 齊 其 家 者
,
先 修 其 身
.
欲 修 其 身 者
,
先 正 其 心
.
欲 正 其 心 者
,
先 誠 其 意
.
欲 誠 其 意 者
,
先 致 其 知
.
致 知 在 格 物
.
物 格 而 後 知 至
.
知 至 而 後 意 誠
.
意 誠 而 後 心 正
.
心 正 而 後 身 修
.
身 修 而 後 家 齊
.
家 齊 而 後 國 治
.
國 治 而 後 天 下
平 .
自 天 子 至 於 庶
人 ,
壹 是 皆 以 修 身
為 本 .
其 本 亂 而 末 治
者 否 矣
.
其 所 厚 者 薄
,
而 其 所 薄 者 厚
,
未 之 有 也
,
此 謂 知 本
,
此謂 知 之 至 也
.
Lễ Ký
(Học Ký): «Cổ
chi giáo
giả, gia hữu
thục, đảng
hữu tường,
thuật hữu
tự, quốc hữu
học. Tỷ niên
nhập học,
trung niên
khảo hiệu.
Nhất niên
thị ly kinh
biện chí,
tam niên thị
kính nghiệp
lạc quần.
Ngũ niên thị
bác tập thân
sư. Thất
niên thị
luận học thủ
hữu, vị chi
tiểu thành.
Cửu niên tri
loại thông
đạt, cường
lập nhi bất
phản, vị chi
đại thành.
Phù nhiên
hậu túc dĩ
hoá dân dịch
tục, cận giả
duyệt phục,
nhi viễn giả
hoài chi,
thử đại học
chi đạo dã.»
古 之 教 者
,
家 有 塾
,
黨 有 庠
,
術 有 序
,
國 有 學
.
比 年 入 學
,
中 年 考 校
.
一 年 視 離 經 辨
志 .
三 年 視 敬 業 樂
群 .
五 年 視 博 習 親
師 .
七 年 視 論 學 取
友 ,
謂 之 小 成
.
九 年 知 類 通 達
,
強 立 入 不 反
,
謂 之 大 成
.
夫 然 後 足 以 化
民 易 俗
,
近 者 悅 服 而 遠
者 懷 之
,
此 大 學 之 道 也
.
Tuân Tử
(Giải Tế):
«Phàm
dĩ tri, nhân
chi tính dã.
Khả dĩ tri,
vật chi lý
dã. Dĩ khả
dĩ tri nhân
chi tính,
cầu khả dĩ
tri vật chi
lý, nhi vô
sở nghi chỉ
chi, tắc một
thế cùng
niên, bất
năng biến
dã. Kỳ sở dĩ
quán lý yên
tuy ức vạn,
dĩ bất túc
dĩ tiếp vạn
vật chi
biến. Dữ ngu
giả nhược
nhất. Học,
lão thân
trưởng tử,
nhi dữ ngu
giả nhược
nhất, do bất
tri thác,
phù thị chi
vị vọng
nhân. Cố học
dã giả, cố
học chỉ chi
dã. Ô hồ chỉ
chi? Viết:
chỉ ư chí
túc. Hạt vị
chí túc?
Viết: thánh
dã.»
凡 以 知
,
人 之 性 也
.
可 以 知
,
物 之理 也
.
以 可 以 知 人 之
性 ,
求 可 以 知 物之 理
,
而 無 所 疑 止 之
,
則 沒 世 窮 年 不能
遍 也 .
其 所 以 貫 理 焉
雖 億 萬
,
已 不足以 浹 萬 物
之 變 .
與 愚 者 若 一
.
學 ,
老 身 長 子
,
而 與 愚 者 若 一
,
猶 不 知 錯
,
夫 是 之 謂 妄 人
.
故 學 也 者
,
固 學 止 之 也
.
惡 乎 止 之
?
曰 止 於 至 足
.
曷 謂 至 足
?
曰 聖 也
.
Lễ Ký
(Đại
Học): «Thi
vân: “Bang
kỳ thiên lý,
duy dân sở
chỉ.” Thi
vân: “Mân
man hoàng
điểu, chỉ ư
khâu ngung.”
Tử viết: “Ư
chỉ tri kỳ
sở chỉ, khả
dĩ nhân nhi
bất như điểu
hồ?” Thi
vân: “Mục
mục Văn
Vương, ư tập
hi kính
chỉ.” Vi
nhân quân
chỉ ư nhân.
Vi nhân thần
chỉ ư kính.
Vi nhân tử
chỉ ư hiếu.
Vi nhân phụ
chỉ ư từ. Dữ
quốc nhân
giao chỉ ư
tín.»
詩 云
:
邦 畿 千 里
,
惟 民 所 止
.
詩 云 :
緡 蠻 黃鳥
,
止 於 丘 隅
.
子 曰 :
於 止 知 其 所 止
,
可 以 人 而 不 如
鳥 乎?
詩 云 :
穆 穆 文 王
,
於 緝 熙敬 止
.
為 人 君 止 於 仁
.
為 人 臣 止 於 敬
.
為 人 子 止 於 孝
.
為 人 父 止 於 慈
.
與 國 人 交 止 於
信
.
Mạnh Tử
- Ly
Lâu
(thượng):
«Nhân
hữu hằng
ngôn, giai
viết: “Thiên
hạ quốc
gia.” Thiên
hạ chi bản
tại quốc,
quốc chi bản
tại gia, gia
chi bản tại
thân.»
人 有 恆 言
,
皆 曰 :
天 下 國 家
.
天 下 之本 在 國
,
國 之 本 在 家
,
家 之 本 在 身
.
Tuân Tử
(Quân Đạo):
«Thỉnh vấn
vi quốc?
Viết: văn tu
thân, vị
thường văn
vi quốc dã.
Quân giả,
nghi dã;
dân giả cảnh
dã, nghi
chính nhi
cảnh chính.
Quân giả,
bàn dã;
dân giả thuỷ
dã, bàn
viên nhi
thuỷ viên.
Quân giả vu
dã, vu
phương nhi
thuỷ phương.
Quân xạ tắc
thần quyết.
Sở Trang
Vương hiếu
tế yêu, cố
triều hữu
ngạ nhân. Cố
viết: Văn tu
thân, vị
thường văn
vi quốc dã.»
請 問 為 國
?曰
:
聞 修 身
,
未 嘗 聞 為 國也
.
君 者 儀 也
;
民 者 景 也
.
儀 正 而 景 正
.
君 者 槃 也
;
民 者 水 也
,
槃 圓 而 水 圓
.
君 者 盂 也
,
盂 方 而 水 方
.
君 射 則 臣 決
.
楚 莊 王 好 細 腰
,
故 朝 有 餓 人
.
故 曰 :
聞 修身
,
未 嘗 聞 為 國 也
.
– LAM chú:
Bản chữ Hán
của Phùng
Hữu Lan chép
thiếu
«dân giả
cảnh dã»
và «dân
giả thuỷ dã»,
tôi đã bổ
sung.
Lễ Ký
(Đại
Học):
«Nghiêu
Thuấn suất
thiên hạ dĩ
nhân, nhi
dân tòng
chi. Kiệt
Trụ suất
thiên hạ dĩ
bạo, nhi dân
tòng chi. Kỳ
sở lệnh phản
kỳ sở hiếu,
nhi dân bất
tòng. Thị cố
quân tử hữu
chư kỷ nhi
hậu cầu chư
nhân, vô chư
kỷ nhi hậu
phi chư
nhân. Sở
tàng hồ thân
bất thứ, nhi
năng dụ chư
nhân giả, vị
chi hữu dã.
Cố trị quốc
tại tề kỳ
gia. Thi
vân: “Đào
chi yêu yêu,
kỳ diệp trăn
trăn, chi tử
vu quy, nghi
kỳ gia
nhân.” Nghi
kỳ gia nhân,
nhi hậu khả
dĩ giáo quốc
nhân. Thi
vân: “Nghi
huynh nghi
đệ.” Nghi
huynh nghi
đệ, nhi hậu
khả dĩ giáo
quốc nhân.
Thi vân: “Kỳ
nghi bất
thắc, chính
thị tứ
quốc.” Kỳ vi
phụ tử huynh
đệ túc pháp,
nhi hậu dân
pháp chi
dã.»
堯 舜 率 天 下 以
仁而 人 從 之.
桀 紂 率 天 下 以
暴 而 民 從 之.
其 所 令 反 其 所
好 而 民 不 從.
是 故 君 子 有 諸
己 而 後 求 諸人
,
無 諸 己 而 後 非
諸 人.
所 藏 乎 身 不 恕
而 能 喻 諸 人 者
,
未 之 有 也
.
故 治 國 在齊 其 家
.
詩 云 :
桃 之 夭 夭
,
其 葉 蓁 蓁
,
之 子 于 歸
,
宜其 家 人
.
宜 其 家 人 而 後
可 以 教 國 人
.
詩 云 :
宜 兄 宜 弟
.
宜 兄 宜弟 而 後 可
以 教 國 人.
詩 云 :
其 儀 不 忒 正是 四
國 .
其 為 父 子 兄 弟
足 法 而 後 民 法
之 也
.
Tuân Tử
(Phi Tướng):
«Thánh nhân
giả, dĩ kỷ
đạc giả dã.
Cố dĩ nhân
đạc nhân, dĩ
tình đạc
tình.»
聖 人 者 以 己 度
者也
.
故 以 人 度 人
,
以 情 度 情
. –
Tuân Tử
(Bất Cẩu):
«Ngũ thốn
chi củ, tận
thiên hạ chi
phương dã.»
五 寸 之 矩
,
盡 天 下 之 方 也
.
Lễ Ký
(Đại Học): «Sở
vị bình
thiên hạ tại
trị kỳ quốc
giả, thượng
lão lão nhi
dân hưng
hiếu, thượng
trưởng
trưởng nhi
dân hưng đễ,
thượng tuất
cô nhi dân
bất bội. Thị
dĩ quân tử
hữu hiệt củ
chi đạo dã.
Sở ố ư
thượng, vô
dĩ sử hạ, sở
ố ư hạ, vô
dĩ sự
thượng; sở ố
ư tiền, vô
dĩ tiên hậu,
sở ố ư hậu,
vô dĩ tòng
tiền; sở ố ư
hữu, vô dĩ
giao ư tả,
sở ố ư tả,
vô dĩ giao ư
hữu; thử chi
vị hiệt củ
chi đạo.»
所 謂 平 天 下 在
治其 國 者
,
上 老 老 而 民 興
孝 ,
上 長 長 而 民 興
弟 ,
上 恤 孤 而 民 不
倍 .
是 以 君 子 有 絜
矩 之 道 也
.
所 惡 於 上 毋 以
使 下 ,
所 惡 於 下 毋 以
事 上 ;所
惡 於 前
,
毋 以 先 後
,
所 惡 於 後
,
毋 以 從 前
;
所惡 於 右
,
毋 以 交 於 左
,
所 惡 於 左
,
毋 以 交 於 右
;
此 之 謂 絜 矩 之
道 .–
LAM chú:
Hiệt là
đo lường,
củ là
cây thước
vuông
(ê-ke), hiểu
rộng là
chuẩn mực
hay phép tắc
đo lường.
Đạo hiệt củ
(hay nguyên
tắc hiệt củ)
có thể tóm
gọn bằng câu
nói: «Kỷ
sở bất dục
vật thi ư
nhân.»
己 所 不 欲 勿 施
於人
(Cái gì mình
không muốn
kẻ khác gây
cho mình thì
mình đừng
làm điều đó
cho họ.)
[Luận
Ngữ - Vệ
Linh Công]
Tuân Tử
(Giải Tế): «Cố
nhân tâm thí
như bàn
thuỷ, chính
thác nhi vật
động, tắc
trạm trọc
tại hạ, nhi
thanh minh
tại thượng,
tắc túc dĩ
kiến tu mi
nhi sát lý
hĩ. Vi phong
quá chi,
trạm trọc
động hồ hạ,
thanh minh
loạn ư
thượng, tắc
bất khả dĩ
đắc đại hình
chi chính
dã. Tâm diệc
như thị hĩ.
Cố đạo chi
dĩ lý, dưỡng
chi dĩ
thanh, vật
mạc chi
khuynh, tắc
túc dĩ định
thị phi
quyết hiềm
nghi hĩ.»
故 人 心 譬 如 槃
水
,
正 錯 而 勿 動
,
則 湛 濁 在 下
,
而 清 明 在 上
,
則 足 以 見 鬚 眉
而 察 理 矣
.
微 風 過 之
,
湛 濁 動 乎 下
,
清 明 亂 於 上
,
則 不 可 以 得 大
形 之 正 也
.
心 亦 如 是 矣
.
故 導 之 以 理
,
養 之 以 清
,
物 莫 之 傾
,
則足 以 定 是 非 決
嫌 疑 矣
.
Lễ Ký
(Đại
Học): «Sở vị
tu thân tại
chính kỳ tâm
giả, tâm hữu
sở phẫn chí,
tắc bất đắc
kỳ chính.
Hữu sở khủng
cụ, tắc bất
đắc kỳ
chính. Hữu
sở hiếu lạc,
tắc bất đắc
kỳ chính.
Hữu sở ưu
hoạn, tắc
bất đắc kỳ
chính.»
所 謂 修 身 在 正
其 心 者
,
心 有 所 忿 懥
,
則 不 得 其 正
.
有 所 恐 懼
,
則 不 得 其 正
.
有 所 好 樂
,
則 不 得 其 正
.
有 所 憂 患
,
則 不 得 其 正
.
Tuân Tử
(Giải Tế):
«Tiểu
vật dẫn chi,
tắc kỳ chính
ngoại dịch,
kỳ tâm nội
khuynh, tắc
bất túc dĩ
quyết thứ lý
hĩ. Cố hiếu
thư giả
chúng hĩ,
nhi Thương
Hiệt độc
truyền giả,
nhất dã;
hiếu giá giả
chúng hĩ,
nhi Hậu Tắc
độc truyền
giả, nhất
dã. Hiếu
nhạc giả
chúng hĩ,
nhi Quỳ độc
truyền giả,
nhất dã;
hiếu nghĩa
giả chúng
hĩ, nhi
Thuấn độc
truyền giả,
nhất dã.
Thùy tác
cung, Phù Du
tác thỉ, nhi
Nghệ tinh ư
xạ. Hề Trọng
tác xa
thặng, Đỗ
tác thặng
mã, nhi Tạo
Phụ tinh ư
ngự. Tự cổ
cập kim, vị
thường hữu
lưỡng nhi
năng tinh
giả dã.»
小 物 引 之
,
則 其 正 外 易
,
其 心 內 傾
,
則 不 足 以 決 庶
理矣 .
故 好 書 者 眾 矣
而 倉 頡 獨 傳 者
,
壹 也 ;
好 稼 者 眾 矣
,
而 后 稷 獨 傳 者
,
壹 也 .
好樂 者 眾 矣
,
而 夔 獨 傳 者,
壹 也 ;好
義 者 眾 矣
,
而 舜 獨 傳 者
,
壹 也 .
倕作 弓
,
浮 游 作 矢
,
而 羿 精 於 射
.
奚 仲 作 車 乘
,
杜 作 乘 馬
,
而 造 父 精 於 御
.
自 古 及 今
,
未 嘗 有 兩 而 能
精 者 也
.
Lễ Ký
(Đại Học):
«Tâm bất tại
yên, thị nhi
bất kiến,
thính nhi
bất văn,
thực nhi bất
tri kỳ vị.»
心 不 在 焉
,
視 而 不 見
,
聽 而 不 聞
,
食而 不 知 其 味
.
Lễ Ký
(Đại Học):
«Khang Cáo
viết: “Như
bảo xích
tử.” Tâm
thành cầu
chi, tuy bất
trúng, bất
viễn hĩ. Vị
hữu học
dưỡng tử nhi
hậu giá giả
dã.»
康 誥 曰
:如
保 赤 子
.
心 誠 求 之
,
雖不 中
,
不 遠 矣
.
未 有 學 養 子 而
後 嫁 者
也
.
Lễ Ký
(Đại Học):
«Sở vị thành
kỳ ý giả, vô
tự khi dã.
Như ố ác xú,
như hiếu hảo
sắc, thử chi
vị tự khiêm.
Cố quân tử
tất thận kỳ
độc dã. Tiểu
nhân nhàn cư
vi bất
thiện, vô sở
bất chí,
kiến quân tử
nhi hậu yếm
nhiên, yểm
kỳ bất thiện
nhi trứ kỳ
thiện, nhân
chi thị kỷ
như kiến kỳ
phế can
nhiên, tắc
hà ích hĩ.
Thử vị thành
ư trung,
hình ư
ngoại. Cố
quân tử tất
thận kỳ độc
dã. Tăng Tử
viết: “Thập
mục sở thị,
thập thủ sở
chỉ, kỳ
nghiêm hồ!”
Phú nhuận
ốc, đức
nhuận thân,
tâm quảng
thể bàn. Cố
quân tử tất
thành kỳ ý.»
所 謂 誠 其 意 者
,
毋 自 欺 也
.
如 惡 惡 臭
,
如
好 好 色
,
此 之 謂 自 謙
.
故 君 子 必 慎 其
獨 也 ,
小 人 閒 居為 不 善
,
無 所 不 至
,
見 君 子 而 後 厭
然 ,
揜 其 不 善 而 著
其 善 ,
人 之 視 己
,
如 見 其 肺 肝 然
,
則 何 益 矣
.
此 謂 誠 於 中
,
形 於 外
.
故 君 子 必 慎 其
獨 也 .
曾 子 曰
:
十 目 所 視
,
十 手所 指
,
其 嚴 乎
.
富 潤 屋
,
德 潤 身
,
心 廣 體 胖
.
故 君
子 必 誠 其 意
.
Phùng Hữu
Lan chú: Hai
nhà Nho đời
Tống là Xa
Ngọc Phong
車 玉 峰
(sống khoảng
1274 CN) và
Vương Bách
王 柏
(1197-1274)
cho rằng
đoạn văn này
nhằm giải
thích bốn
chữ «trí tri
cách vật»
致 知 格 物
. Xem
Lỗ Trai Tập
魯 齋 集
, quyển 2.
Lễ Ký
(Đại Học):
«Đức giả bản
dã, tài giả
mạt dã.
Ngoại bản
nội mạt,
tranh dân
thi đoạt.»
德 者 本 也
,
財 者 末 也
.
外 本 內 末
,
爭
民 施 奪
.
Tuân Tử
(Giải Tế):
«Phàm
quan vật hữu
nghi, trung
tâm bất
định, tắc
ngoại vật
bất thanh.
Ngô lự bất
thanh, vị
khả định
nhiên phủ
dã. Minh
minh nhi
hành giả,
kiến tẩm
thạch dĩ vi
phục hổ dã,
kiến thực
lâm dĩ vi
hậu (lập)
nhân dã.
Minh minh tế
kỳ minh dã.
Tuý giả việt
bách bộ chi
câu, dĩ vi
khuể bộ chi
quái dã; phủ
nhi xuất
thành môn,
dĩ vi tiểu
chi khuê dã;
tửu loạn kỳ
thần dã. Yếm
mục nhi thị
giả, thị
nhất vi
lưỡng; yểm
nhĩ nhi
thính giả,
thính mạc
mạc nhi dĩ
vi hung hung
thế loạn kỳ
quan dã. Cố
tòng sơn
thượng vọng
ngưu giả
nhược dương,
nhi cầu
dương giả
bất hạ khiên
dã; viễn tế
kỳ đại dã.
Tòng sơn hạ
vọng mộc
giả, thập
nhẫn chi mộc
nhược trợ,
nhi cầu trợ
giả bất
thượng chiết
dã; cao tế
kỳ trường
dã. Thuỷ
động nhi
cảnh dao,
nhân bất dĩ
định mỹ ố;
thuỷ thế
huyền dã. Cổ
giả ngưỡng
thị nhi bất
kiến tinh,
nhân bất dĩ
định hữu vô;
dụng tinh
hoặc dã. Hữu
nhân yên, dĩ
thử thời
định vật,
tắc thế chi
ngu giả dã.
Bỉ ngu giả
chi định
vật, dĩ nghi
quyết nghi,
quyết tất
bất đương.
Phù cẩu bất
đương, an
năng vô quá
hồ?»
凡 觀 物 有 疑
,
中 心 不 定
,
則 外 物 不 清
.
吾 慮 不 清
,
未 可 定 然 否 也
.
冥 冥 而 行 者
,
見 寢 石 以 為 伏
虎 也 ,
見 植 人 以 為 後
(立
)
人 也 .
冥 冥 蔽 其 明 也.
醉 者 越 百 步 之
溝 ,
以 為 蹞 步 之 澮
也 ;
俯 而 出 城 門
,
以 為 小 之 閨 也
;
酒 亂 其 神 也
.
厭 目 而 視 者
,
視 一 為 兩
;
掩 耳 而 聽 者
,
聽 漠 漠 而 以 為
胸 胸;
勢 亂 其 官 也
.
故 從 山 上 望 牛
者 若 羊
,
而 求 羊 者 不 下
牽 也 ;
遠 蔽 其 大 也.
從 山 下 望 木 者
,
十 仞 之 木 若 箸
,
而 求 箸 者 不 上
折 也 ;
高 蔽 其 長 也.
水 動 而 景 搖
,
人 不 以 定 美 惡
;
水 勢 玄 也.
瞽 者 仰 視 而 不
見 星 ,
人 不 以 定 有 無
;
用 精 惑 也
.
有 人 焉
,
以 此 時 定 物
,
則世 之 愚 者 也
.
彼 愚 者 之 定 物
,
以 疑 決疑
,
決 必 不 當
.
夫 苟 不 當
,
安 能 無 過 乎
?– Phùng Hữu
Lan chú: Học
giả Du Việt
俞 樾
nghi ngờ chữ
hậu
後
(trong «kiến
thực lâm dĩ
vi hậu
nhân
dã») vốn là
chữ
lập
立
trong nguyên
bản.
LAM chú: Chỗ
này Derk
Bodde vừa
dịch vừa
giảng:
«This is
a reference
to the
sacred
mountain of
Hua Shan in
Shensi,
whereas it
would be
natural to
expect such
a man as Tzu
Ssu, who was
a native of
the state of
Lu
(occupying
what is now
Shantung),
to refer in
such a case
to
Shantung's
sacred
mountain,
T'ai Shan.»
(Đây liên hệ
đến núi
thiêng Hoa
Sơn ở Thiểm
Tây, trong
khi người ta
mong rằng lẽ
ra một người
như Tử Tư
vốn là dân
nước Lỗ [nay
là Sơn Đông]
sẽ liên hệ
đến núi
thiêng Thái
Sơn ở Sơn
Đông).
Từ
điển Từ
Hải ở
mục từ Hoa
Nhạc, cũng
trích dẫn
câu «Tải
Hoa Nhạc nhi
bất trọng»
và giải
thích Hoa
Nhạc là hai
ngọn núi Hoa
Sơn và Nhạc
Sơn cùng ở
Thiểm Tây.
Vương Bách
王 柏
,
Cổ Trung
Dung Bạt
古 中 庸 跋
; trong
Lỗ Trai Tập,
quyển 5,
trang 16-17.
Vương Bách
王 柏
,
Trung Dung
Luận
中 庸 論
; trong
Lỗ Trai Tập,
quyển 2,
trang 11-12.
Phùng Hữu
Lan chú: Đây
cũng chỉ là
nói đại
khái, kỳ
thực ở đoạn
giữa hẳn có
sự thêm thắt
của hậu
nhân, nhưng
đại bộ phận
có lẽ là
sáng tác của
Tử Tư.– LAM
chú: Trong
Hán Thư
Nghệ Văn Chí,
phần Nho gia
chỉ ghi là:
«Tử Tư nhị
thập tam
thiên. Danh
Cấp, Khổng
Tử tôn, vi
Lỗ Mục [Mậu]
Công sư.»
子 思 二 十 三 篇
.
名 伋 孔 子 孫
,
為 魯 繆 公 師
(23
thiên của Tử
Tư. [Tử Tư]
tên là Cấp,
cháu Khổng
Tử và là
thầy của Lỗ
Mục [Mậu]
Công).
Lễ Ký
(Trung
Dung):
«Trọng Ni
viết: Quân
tử Trung
Dung; tiểu
nhân phản
Trung Dung.
Quân tử chi
Trung Dung
dã, quân tử
nhi thời
trung; tiểu
nhân chi
phản Trung
Dung dã,
tiểu nhân
nhi vô kỵ
đạn dã.»
仲 尼 曰
:
君 子 中 庸
;
小 人 反 中 庸
.
君 子 之 中 庸 也
,
君 子 而 時 中 小
人 之 中 庸 也
,
小 人 而 無 忌 憚
也
.
Aristotle,
Ethics
(Luân Lý
Học),
quyển 2,
chương 5.
Mạnh Tử
- Công Tôn Sửu
(thượng):
«Phi
kỳ quân bất
sự. Phi kỳ
dân bất sử,
trị tắc
tiến, loạn
tắc thoái,
Bá Di dã. Hà
sự phi quân,
hà sử phi
dân, trị
diệc tiến,
loạn diệc
tiến, Y Doãn
dã. Khả dĩ
sĩ tắc sĩ,
khả dĩ chỉ
tắc chỉ, khả
dĩ cửu tắc
cửu, khả dĩ
tốc tắc tốc,
Khổng Tử dã.»
非 其 君 不 事
.
非 其 民 不 使
,
治 則 進
,
亂 則 退
,
伯 夷 也
.
何 事 非 君
,
何 使非 民
,
治 亦 進
,
亂 亦 進
,
伊 尹 也
.
可 以 仕 則 仕
,
可
以 止 則 止
,
可 以 久 則 久
,
可 以 速 則 速
,
孔 子 也
.
Mạnh Tử
- Vạn Chương
(hạ): «Bá
Di, thánh
chi thanh
giả dã. Y
Doãn, thánh
chi nhiệm
giả dã. Liễu
Hạ Huệ,
thánh chi
hoà giả dã.
Khổng Tử,
thánh chi
thời giả dã.»
伯 夷 聖 之 清 者
也
.
伊 尹 聖 之 任 者
也 .
柳 下 惠 聖 之 和
者 也 .
孔 子 聖 之 時 者
也
.
Mạnh Tử
- Tận Tâm
(thượng):
«Tử
Mạc chấp
trung, chấp
trung vi cận
chi, chấp
trung vô
quyền, do
chấp nhất
dã. Sở ố
chấp nhất
giả, vi kỳ
tặc đạo dã,
cử nhất nhi
phế bách
dã.»
子 莫 執 中
,
執 中 為 近 之
,
執 中 無 權
,
猶 執 一 也
.
所 惡 執 一 者
,
為 其 賊 道 也
,
舉 一 而 廢 百 也
.
Luận Ngữ
- Tử
Hãn: «Khả dữ
lập, vị khả
dữ quyền.»
可 與 立 未 可 與
權
.
Lễ Ký
(Trung
Dung): «Tử
viết: “Đạo
bất viễn
nhân. Nhân
chi vi đạo
nhi viễn
nhân, bất
khả dĩ vi
đạo.” Thi
vân: “Phạt
kha phạt
kha, kỳ tắc
bất viễn.”Chấp
kha dĩ phạt
kha, nghễ
nhị thị chi,
du dĩ vi
viễn. Cố
quân tử dĩ
nhân trị
nhân, cải
nhi chỉ.
Trung thứ vi
đạo bất
viễn. Thi
chư kỷ nhi
bất nguyện,
diệc vật thi
ư nhân. Quân
tử chi đạo
tứ; Khâu vị
năng nhất
yên. Sở cầu
hồ tử dĩ sự
phụ, vị năng
dã. Sở cầu
hồ thần dĩ
sự quân, vị
năng dã. Sở
cầu hồ đệ dĩ
sự huynh, vị
năng dã. Sở
cầu hồ bằng
hữu, tiên
thi chi, vị
năng dã.
Dung đức chi
hành, dung
ngôn chi
cẩn, hữu sở
bất túc; bất
cảm bất
miễn; hữu
dư, bất cảm
tận. Ngôn cố
hành, hành
cố ngôn,
quân tử hồ
bất tháo
tháo nhĩ?»
子 曰
:
道 不 遠 人.
人 之 為 道 而 遠
人,
不 可 以 為 道
.
詩 云 :
伐 柯
伐 柯,
其 則 不 遠
.
執 柯 以 伐 柯,
睨 而 視 之.
猶 以 為 遠.
故 君 子 以 人 治
人 ,
改 而 止.
忠 怒 違 道 不 遠
.
施 諸 己 而 不 愿,
亦 勿 施 於 人.
君 子 之 道 四
,
丘 未 能 一 焉:
所 求 乎 子
,
以 事 父
,
未 能 也
;
所 求 乎臣,
以 事 君,
未 能 也;
所 求 乎 弟
,
以 事 兄,
未 能
也;
所 求 乎 朋 友
,
先 施 之 未 能 也.
庸 德 之 行
,
庸 言 之 謹
;
有 所 不 足
,
不 敢 不 勉
;
有
余 ,
不 感 盡
.
言 顧 行
,
行 顧 言.
君 子 胡 不 慥 慥
爾
.
Phùng Hữu
Lan chú:
Trung và Thứ
đều chủ yếu
lấy bụng ta
suy ra bụng
người, cho
nên nói
Trung cũng
là ngụ ý Thứ
và ngược
lại. «Lấy
cái mà ta
cầu ở con
ta, đem ra
phụng sự cha
ta», v.v...
đó chỉ là
nói tới
Trung.
Đại Học
nói đạo Hiệt
Củ và
«điều gì
mình ghét ở
người trên
thì chớ thi
hành điều ấy
cho người
dưới»,
v.v... đó
chỉ là nói
tới Thứ. Hợp
hai khái
niệm ấy lại,
mới là đạo
Trung Thứ.–
LAM chú:
Chúng ta cần
phân biệt từ
ngữ, chữ
Trung
中
(trong Trung
Dung
中 庸
) khác với
chữ
Trung
忠
(trong Trung
Thứ
忠 恕
). Chữ
Trung
中
được Chu Hi
giảng ở đầu
sách
Trung Dung
là:
«Trình Tử
nói: Không
thiên lệch
bên này hay
bên kia thì
gọi là
Trung; không
dời đổi thì
gọi là
Dung.» (Tử
Trình Tử
viết: Bất
thiên chi vị
Trung; bất
dịch chi vị
Dung
子 程 子 曰:
不 偏 之 謂 中
;
不 易 之 謂 庸
).
Còn chữ
Trung
忠
nguyên nghĩa
là: chân
thành, trung
thành, tận
tâm, thành
tâm, toàn
tâm toàn ý;
thí dụ trong
câu «Mưu
tính công
việc cho
người có hết
lòng hay
không?» (Vi
nhân mưu nhi
bất trung
hồ?
為 人 謀 而 不 忠
乎
)
[Luận Ngữ
- Học
Nhi]. Cái ý
nghĩa theo
luân lý ấy
về sau
chuyển sang
ý nghĩa
chính trị là
«trung quân»
忠 君
(trung
thành với
vua). Từ đời
Tần và Hán
về sau,
Trung và
Hiếu trở
thành tiêu
chuẩn đạo
đức rất quan
trọng trong
xã hội phong
kiến. Tuy
nhiên, cứ
nhắm mắt
trung thành
với vua, đó
gọi là «ngu
trung»
愚 忠
, mà ngay cả
Khổng Tử và
Mạnh Tử cũng
chê.
Khi Tử Cống
nói với
Khổng Tử
rằng: «Quản
Trọng không
đáng gọi là
nhân bởi vì
khi công tử
Củ bị Hoàn
Công giết mà
Quản Trọng
là bầy tôi
của công tử
Củ lại không
chết theo,
ấy vậy lại
còn làm Tể
Tướng theo
giúp Tề Hoàn
Công nữa.»
Khổng Tử trả
lời: «Quản
Trọng theo
giúp Tề Hoàn
Công nên
nghiệp bá,
nhờ vậy mà
thiên hạ từ
loạn đổi
sang trị.
Nếu không có
Quản Trọng
thì chúng ta
phải gióc
tóc và vắt
vạt áo bên
trái như
giới man di.
Há vì tấm
lòng trung
quân nhỏ hẹp
tầm thường
mà đi treo
cổ bên lạch
suối sao?» (Luận
Ngữ -
Hiến Vấn).
Còn
Mạnh Tử nói:
«Vua
xem bầy tôi
như tay chân
thì bầy tôi
xem vua như
tâm phúc,
vua xem bầy
tôi như chó
ngựa thì bầy
tôi xem vua
như người
thường, vua
xem bầy tôi
như đất cỏ
thì bầy tôi
xem vua như
kẻ thù.» (Ly
Lâu [hạ]).
Trung
Dung:
«Thiên hạ
chi đạt đạo
ngũ; sở dĩ
hành chi giả
tam. Viết:
quân thần
dã, phụ tử
dã, phu phụ
dã, côn đệ
dã, bằng hữu
chi giao dã;
ngũ giả,
thiên hạ chi
đạt đạo dã.
Trí, nhân,
dũng tam
giả; thiên
hạ chi đạt
đức dã. Sở
dĩ hành chi
giả nhất dã.
Hoặc sinh
nhi tri chi;
hoặc học nhi
tri chi;
hoặc khốn
nhi tri chi.
Cập kỳ tri
chi nhất dã.
Hoặc an nhi
hành chi;
hoặc lợi nhi
hành chi;
hoặc miễn
cưỡng nhi
hành chi.
Cập kỳ thành
công nhất
dã. Tử viết:
Hiếu học cận
hồ trí. Lực
hành cận hồ
nhân. Tri sỉ
cận hồ dũng.
Tri tư tam
giả, tắc tri
sở dĩ tu
thân. Tri sở
dĩ tu thân,
tắc tri sở
dĩ trị nhân.
Tri sở dĩ
trị nhân,
tắc tri sở
dĩ trị thiên
hạ quốc gia
hĩ.»
天 下 之 達 道 五
,
所 以 行 之 者 三.
曰 :
君 臣
也 ,
父 子 也
,
夫 婦 也,
昆 弟 也
,
朋 友 之 交 也 五
者 ,
天 下 之 達 道 也
.
知 (智
),
仁 ,
勇 三 者
,
天 下 之 達 德 也
.
所 以 行 之 者 一
也 .
或 生 而 知 之
;
或 學 而 知 之
;
或 困 而 知 之
;
及 其 知 之
,
一 也 .
或 安 而 行 之
;
或 利
而 行 之
;
或 勉 強 而 行 之
;
及 其 成 功,
一 也 .
子 曰 :
好 學
近 乎 知
.
力 行 近 乎 仁
.
知 恥 近 乎 勇
.
知 斯 三 者
,
則 知 所 以 修 身.
知 所 以 修 身
,
則 知 所 以 治 人
.
知 所 以 治 人
,
則 知 所 以 治 天
下 國 家 矣
.
Lễ Ký
(Trung
Dung):
«Thiên
mệnh chi vị
tính. Suất
tính chi vị
đạo. Tu đạo
chi vị
giáo.»
天 命 之 謂 性
,
率 性 之 謂 道
,
修 道 之 謂 教
.
Đại Đái Lễ
Ký
(Bản Mệnh):
«Phân ư Đạo
vị chi Mệnh.
Hình ư nhất
vị chi Tính.
Hoá ư Âm
Dương, tượng
hình nhi
phát, vị chi
sinh. Hoá
cùng số tận
vị chi tử.»
分 於 道 謂 之 命
.
形 於 一 謂 之 性.
化 於 陰 陽
,
象 形 之 發
,
謂 之 生
.
化 窮
數 盡 謂 之 死
.
Derk Bodde
chú: Mệnh
命
dùng như
danh từ là
số mệnh
(fate), mệnh
lệnh
(decree);
nhưng ở đây
dùng như
động từ,
nghĩa là
«ban cho»
(to confer).
Có thể giải
thích rằng
số mệnh của
một người là
cái mà hắn
nhận lãnh từ
Trời; nói
cách khác,
nó là cái mà
Trời ban cho
hắn.
Lễ Ký
(Trung
Dung):
«Hỉ,
nộ, ai, lạc
chi vị phát
vị chi
trung, phát
nhi giai
trúng tiết
vị chi hòa.»
喜,
怒,
哀,
樂 之 未 發,
謂 之 中.
發 而 皆 中 節,
謂 之 和
.
Nguyên văn:
«Chính kỳ
nghị bất mưu
kỳ lợi, minh
kỳ đạo bất
kế kỳ công.»
正 其 誼 不 謀 其
利
,
明 其 道 不 計 其
功 . –
LAM chú:
Trong cổ
văn, chữ
nghị
誼
dùng thông
với chữ
nghĩa
義
(ý nghĩa;
điều đúng
đắn). Derk
Bodde dịch:
«The
Confucians
pursued what
was right or
appropriate
without
consideration
of any
consequent
benefit.»
(Nho gia
theo đuổi
cái đúng hay
thích đáng
mà không kể
đến cái lợi
về sau).
Lễ Ký
(Trung
Dung): «Thi
vân: “Duy
thiên chi
mệnh ô mục
bất dĩ!” Cái
viết: Thiên
chi sở dĩ vi
Thiên dã: “Ô
hô! bất
hiển! Văn
Vương chi
đức chi
thuần.” Cái
viết: Văn
Vương chi sở
dĩ vi Văn
dã, thuần
diệc bất
dĩ.»
詩 云
:
惟 天 之 命
,
于 穆 不 已.
蓋
曰:
天 之 所 以 為 天
也 .
于 乎 不 顯
,
文 王 之 德 之 純
.
蓋 曰 :
文 王 之 所 以 為
文 也,
純 亦 不 已
.
Lễ Ký
(Trung Dung):
«Cố
chí thành vô
tức. Bất tức
tắc cửu; cửu
tắc trưng;
trưng tắc du
viễn; du
viễn tắc bác
hậu; bác hậu
tắc cao
minh. Bác
hậu, sở dĩ
tải vật dã;
cao minh, sở
dĩ phú vật
dã; du cửu,
sở dĩ thành
vật dã. Bác
hậu phối
địa; cao
minh phối
thiên; du
cửu vô
cương. Như
thử giả, bất
hiện nhi
chương; bất
động nhi
biến; vô vi
nhi thành.
Thiên địa
chi đạo, khả
nhất ngôn
nhi tận dã:
kỳ vi vật
bất nhị, tắc
kỳ sinh vật
bất trắc.
Thiên địa
chi đạo bác
dã, hậu dã,
cao dã, minh
dã, du dã,
cửu dã.»
故 至 誠 無 息
.
不 息 則 久
,
久 則 征
.
征 則 悠 遠
.
悠 遠 ,
則 博 厚
.
博 厚 ,
則 高 明.
博 厚 ,
所
以 載 物 也
.
高 明 ,
所 以 覆 物 也
.
悠 久 ,
所 以 成 物 也
.
博 厚 ,
配 地.
高 明 ,
配 天 .
悠 久 ,
無
疆.
如 此 者
,
不 見 而 章
,
不 動 而 變
,
無 為 而 成
.
天地 之 道,
可 一 言 而 盡 也
.
其 為 物 不 貳
,
則 其 生 物 不 測
.
天 地 之 道
,
博 也 ,
厚 也 ,
高 也 ,
明 也 ,
悠 也 ,
久
也
.
Lễ Ký
(Trung Dung):
«Thành giả,
Thiên chi
đạo dã,
Thành chi
giả, nhân
chi đạo dã.
[...] Tự
thành minh,
vị chi tính.
Tự minh
thành, vị
chi giáo.
Thành tắc
minh hĩ.
Minh, tắc
thành hĩ.»
誠 者
,
天 之 道 也
.
誠 之 者
,
人 之 道 也
[...]
自 誠 明
,
謂 之 性
.
自 明 誠
謂 之 教
.
誠 則 明 矣
.
明 則 誠 矣
.
Lễ Ký
(Trung Dung):
«Thành
giả, vật chi
chung thủy,
bất thành vô
vật. Thị cố
quân tử
thành chi vi
quý.Thành
giả, phi tự
thành kỷ nhi
dĩ dã, sở dĩ
thành vật
dã. Thành
kỷ, nhân dã;
thành vật,
trí dã; tính
chi đức dã,
hợp ngoại
nội chi đạo
dã. Cố thời
thố chi nghi
dã.»
誠 者
,
物 之 終 始
,
不 誠 無 物.
是
故 君 子 誠 之 為
貴 .
誠 者 ,
非 自 成 己 而
已 也 ,
所 以 成 物 也
.
成 己 仁 也
.
成 物 智 也
.
性 之 德 也
,
合 外 內 之 道 也
.
故 時 措 之 宜 也
.
Lễ Ký
(Trung Dung):
«Duy
thiên hạ chí
thành vinăng
tận kỳ tính.
Năng tận kỳ
tính tắc
năng tận
nhân chi
tính. Năng
tận nhân chi
tính, tắc
năng tận vật
chi tính.
Năng tận vật
chi tính,
tắc khả dĩ
tán Thiên
địa chi hóa
dục. Khả dĩ
tán Thiên
địa chi hóa
dục, tắc khả
dĩ dữ Thiên
địa tham
hĩ.»
唯 天 下 至 誠 為
能 盡 其 性
.
能 盡 其 性
,
則 能 盡 人 之 性
.
能 盡 人 之 性
,
則 能 盡 物 之 性
.
能 盡 物 之 性
,
則 可 以 贊 天 地
之 化 育
.
可 以 贊 天 地 之
化 育 ,
則 可 以 與 天 地
參 矣
.
Lễ Ký
(Trung Dung):
«Cố
quân tử chi
đạo, bản chư
thân, trưng
chư thứ dân;
khảo chư tam
vương, nhi
bất mậu;
kiến chư
thiên địa
nhi bất bội;
chất chư quỷ
thần, nhi vô
nghi, Bách
thế dĩ sĩ
Thánh nhân
nhi bất
hoặc. Chất
chư quỷ thần
nhi vô nghi:
tri Thiên
dã. Bách thế
dĩ sĩ Thánh
nhân nhi bất
hoặc: tri
nhân dã. Thị
cố quân tử
động nhi thế
vi thiên hạ
đạo; hành
nhi thế vi
thiên hạ
pháp; ngôn
nhi thế vi
thiên hạ
tắc. Viễn
chi tắc hữu
vọng; cận
chi tắc bất
yếm. Thi
viết: “Tại
bỉ vô ố; tại
thử vô đố;
thứ cơ túc
dạ, dĩ vĩnh
chung dự.”Quân
tử vị hữu
bất như thử,
nhi tao hữu
dự ư thiên
hạ giả dã.»
故 君 子 之 道
,
本 諸 身
,
征 諸 庶 民
.
考 諸 三 王 而 不
繆 ,
建 諸 天 地 而 不
悖 .
質 諸 鬼 神 而 無
疑 .
百 世 以 俟 聖 人
而 不 感
.
質 鬼 神 而 無 疑
,
知 天 也
.
百 世 以 俟 聖 人
而 不 感
,
知 人 也
.
是 故 君 子 動 而
世 為 天 下 道
,
行 而 世 為 天 下
法 ,
言 而 世 為 天 下
則 .
遠 之 ,
則 有 望
.
近 之 ,
則 不 厭.
詩 曰 :
在 彼 無 惡
,
在 此 無 射.
庶
几 夙 夜
,
以 永 終 譽
.
君 子 未 有 不 如
此 ,
而 蚤 有 譽 于 天
下 者 也
.
Lễ Ký
(Trung Dung):
«Vạn
vật tịnh dục
nhi bất
tương hại.
Đạo tịnh
hành nhi bất
tương bối.
Tiểu đức
xuyên lưu;
đại đức đôn
hóa. Thử
thiên địa
chi sở dĩ vi
đại dã.»
萬 物 並 育 而 不
相 害.
道 并 行 而 不 相
背 .
小 德 川 流
.
大 德 敦 化
.
此 天 地 之 所 以
為 大 也
. |