Những bài cùng tác giả
Các bạn đọc thân kính,
Thời gian gần đây, nếu để ý, chúng ta đều nhận thấy có rất nhiều bài
giảng, sách vở, tài liệu về Phật giáo đã được xuất bản rộng rãi. Riêng các
sách vở đã được chuyển dịch một lần từ Tạng hay Phạn ngữ sang Anh ngữ nay
được tái chuyển dịch sang tiếng Việt có thể được tìm thấy khắp nơi trong lẫn
ngoài nước, trên các kệ bán sách cũng như qua các phương tiện điện tử.
Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì sách vở càng phong phú thì người đọc
càng có cơ hội thấm nhập, so sánh, tra cứu, và tìm hiểu thêm về các văn kiện
Phật giáo mà trước đây hầu như trong tiếng Việt ngoài các tài liệu đặc trưng
viết về Phật giáo Việt Nam thì phần còn lại đều có xuất xứ từ nguồn Kinh
Luận từ tiếng Trung Hoa.
Tuy vậy, việc chuyển dịch các tài liệu Phật giáo nhất là các sách vở có
nguồn gốc từ Phật giáo Tây Tạng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã dẫn tới
tình trạng nhiều bản dịch được phổ biến mà lời văn trong đó không được rõ
ràng, chính xác, hay thậm chí còn đi ngược với ý tưởng mà nguyên tác đã
viết ra. Chưa kể đến việc tham gia dịch thuật mà không kể đến vấn đề vi
phạm bản quyền tạo nên một thị trường sách Phật giáo thật sự khó đánh giá là
"tốt đẹp" nếu không nói là quá hỗn độn. Chính vì sự hỗn độn này mà dấu
hiệu đúng lý ra là "đáng mừng" lại trở thành "đáng ngại".
Bài viết này không phải để đưa ra bất kì phê phán hay đề nghị biện pháp
thay đổi nào mà chỉ nhằm chia sẻ vài ý kiến, kinh nghiệm, phân tích trong
việc chuyển dịch các tài liệu có nội dung liên quan đến Phật giáo từ Anh ngữ
sang Việt ngữ với mong ước góp vài ý tưởng hữu ích cho các dịch giả mới.
Do đó, tất cả các ý kiến trong bài viết chỉ là ý tham khảo không có tính
tranh thắng hay giáo khoa. Nên nếu bất kì chi tiết nào không hợp với người
đọc thì cho người viết xin một lời cáo lỗi.
Ngược lại, người viết bài này rất mong mỏi và cảm tạ mọi sự chân thành
góp ý, giúp đỡ hay phê bình để học hỏi thêm nhằm bổ khuyết cho phần chất
lượng và khả năng nghiên cứu dịch thuật ngỏ hầu đem lại lợi ích cho người
đọc sách Phật giáo Việt ngữ.
Quy ước:
Tản mát trong bài viết sẽ có chỗ được mở ngoặc đơn nội dung trong đó có
thể là thuật ngữ được dùng như tương đương với thuật ngữ liền ngay trước đó
hay đơn giản chỉ là một giải thích thêm.
Các từ vựng sau đây sẽ được dùng trong bài với ý nghĩa đặc thù (có thể
không hoàn toàn hợp với ý nghĩa thông thường) để tránh hiểu lầm xin người
đọc lưu ý:
- Dịch giả (hay người dịch): là người hay nhóm người tiến
hành chuyển dịch bài viết hay tập sách cụ thể từ Anh ngữ sang Việt ngữ.
- Nguyên bản Anh ngữ (hay ngắn gọn nguyên bản) là phần tài
liệu hay phiên bản ấn hành bằng Anh ngữ mà người dịch dùng nó làm nội dung
để chuyển dịch sang Việt ngữ. Toàn bộ phần từ ngữ bằng Anh ngữ trong
nguyên bản được xem là nội dung Anh ngữ (hay gọi tắt là nội dung nếu không
bị nhầm lẫn).
- Tác giả: Tên của người hay nhóm người mà trong nguyên bản Anh
ngữ đề cập tới như là người đã tạo ra, viết ra nội dung chính của nó.
- Dịch giả Anh: (hay người dịch Anh) : là người hay nhóm người
đã tiến hành chuyển dịch tài liệu từ một ngôn ngữ khác sang thành nội
dung của nguyên bản Anh ngữ.
- Nguyên tác: Trong nhiều trường hợp thì tác giả cũng không
phải là người (nhóm người) đầu tiên viết ra tác phẩm (hay phần văn bản)
cần được dịch sang Việt ngữ mà chỉ là người giảng giải hay viết thêm các
chú giải cho tác phẩm đó. Như vậy người (nhóm người) đầu tiên viết ra tác
phẩm sẽ được gọi là nguyên tác (người trước tác). Ngược lại, nếu tác giả
là người (nhóm) đầu tiên sáng tạo ra bài viết cần được dịch cũng sẽ chính
là nguyên tác.
- Chính văn: Trong trường hợp nguyên tác không phải là tác giả
thì phần nội dung mà nguyên tác đã viết ra từ trước được gọi là chính văn
- Phụ giải (hay chú giải): là phần chú thích hay giảng
giải cho phần chính văn. Phần phụ giải này có thể ở nhiều hình thức từ
việc chỉ mở ngoặc giải thích bằng vài chữ ngắn, hay viết ra chú thích, hay
ngay cả viết thêm ra thành các chương riêng (như trong nhiều tác phẩm Phật
học bằng Tạng ngữ), hay trường hợp bổ túc dưới dạng phụ lục....
- Ngoài ra, trong trường hợp phức tạp, một tác phẩm có thể được chuyển
dịch thành một chuỗi chẳng hạn từ Phạn ngữ -> Tạng Ngữ -> Anh ngữ ->
Việt ngữ thì chuỗi từ nguyên tác cho đến dịch giả bao gồm những người
chuyển dịch và chú giải trong các ngôn ngữ trung gian sẽ có được gọi theo
thứ tự như sau: Nguyên tác, dịch giả Tạng, dịch giả Anh, Dịch giả Việt.
Tuy vậy, bài viết này chỉ chú trọng vào phân tích trường hơp đơn giản và
người đọc có thể tự suy diễn sâu xa hơn.
Thí dụ: tác phẩm Anh ngữ Nāgārjuna 's "Seventy Stanzas" (ISBN
0-937938-39-4) thì nguyên tác chính là Thánh giả Long Thụ đã viết tác phẩm
Śūnyatāsaptati (Thất Thập Không Tính Luận), sau đó được dịch giả
Tạng Geshe Sonam Rinchen dịch và chú giải sang Tạng ngữ, tác phẩm này, đến
lượt, lại được dịch và chú giải một lần nữa sang Anh ngữ bởi các tác giả
David Ross Komito và Tenzin Dorjee.
1. Những điều kiện hay kĩ năng cơ bản
cho một người làm công tác dịch thuật Anh Việt:
1.1 Điều kiện chung: Ai cũng biết
tiêu chuẩn tối thiếu để có thể dịch một tài liệu Anh ngữ nói chung là có khả
năng đọc hiểu bài viết và biết cách diễn đạt nó một cách đúng ý nghĩa sang
Việt ngữ. Trong đó, việc nắm bắt các cấu trúc câu và nắm bắt thuật ngữ là
điều kiện cần có cho một dịch giả thông thường.
1.2 Điều kiện luận giải: Tuy
vậy, có nhiều trường hợp hoặc do cách dùng từ hay cách viết câu của dịch giả
Anh, của ngyên tác, hoặc do đặc điểm phức tạp của chính nội dung bài viết
nên có thể người dịch sẽ phải đương đầu với những cụm từ hay chữ khó hiểu,
hay cấu trúc câu khá phức tạp, hay ngay cả trong một số trường hợp không
theo sát luật văn phạm Anh ngữ.
Trường hợp khó khăn này có thể đòi hỏi người dịch dùng nhiều biện pháp
khác nhau nhằm tìm ra được ý nghĩa hay thuật ngữ phù hợp nhất để dùng cho
bản dịch Việt ngữ -- Một phương pháp dể thấy là dựa trên ý đang đề cập và
dòng lưu chuyển ý hay ngữ cảnh của cả đọan văn trước và sau câu hay chữ đang
cần xác minh (phương pháp này đặc biệt có ích trong các bài văn theo đúng
quy cách viết kiểu Mỹ được dạy ở các trường đại học về luận Anh văn mà đôi
khi được gọi tên là "context clues"). Ngoài ra còn có thể dùng các biện pháp
khác dựa trên nhân thân của các dịch giả Anh, của nguyên tác, của giáo pháp
đang đề cập, của trường phái triết học, của hoàn cảnh địa lý và không và
thời gian liên hệ tới đoạn văn ... để suy đoán ra ý đúng của câu văn hay chữ
cần hiểu.
1.3 Khả năng truy cứu: Một kĩ năng
thứ hai không thể thiếu cho một người dịch là biết tận dụng các phương tiện
tra cứu chuyên ngành và phổ thông. Thật sự, Anh ngữ là ngôn ngữ phổ dụng
nhất và do đó cũng là một ngôn ngữ sinh động và rất phức tạp. Chưa một cá
nhân nào có thể biết hết hay một từ điển Anh ngữ nào có thể liệt kê đủ các
từ vựng và cách dùng trong Anh ngữ. Mỗi một bài viết đều hoàn toàn phụ thuộc
vào cách dùng ngôn ngữ của nguyên tác và các dịch giả. Do đó, khó tránh khỏi
việc tra cứu thêm bằng các phương tiện sẵn có. Việc tra cứu như thế nào cho
có hiệu quả lại là một việc khác. Điều này sẽ được phân tích nhiều hơn ở
các phần sau.
1.4 Kiến thức chuyên ngành và Việt ngữ:
Sau đến là điều kiện về kiến thức chuyên môn và Việt ngữ. Chẳng hạn, trong
một bản dịch liên quan sâu sắc đến Phật học và Khoa học thì người dịch không
thể (đúng hơn là không nên làm việc này!) cho ra một bản dịch đúng và hay,
mà không đủ kiến thức hay không hề quan tâm tìm hiểu cặn kẽ đến các hiểu
biết được đề cập trong cả hai lãnh vực này của đề tài.
Ngoài ra, cũng có trường hợp dịch giả do điều kiện sinh sống không nắm
vững đủ Việt ngữ nhưng vẩn chuyển dịch các tài liệu chuyên ngành sang Việt
ngữ, điều này sẽ làm hạn chế nhiều phẩm chất của bản dịch.
1.5 Về mặt đạo đức: Sau nữa, cho dù
là dịch thuật vì lợi nhuận cá nhân hay vì tha nhân thì bản dịch sẽ không có
hồn nếu không đặt một tâm thức hứng khởi và niềm tin nào đó vào trong công
việc. Điều này chỉ xãy ra trong nội tâm dịch giả nhưng nó lại một phần là
chià khoá ảnh hưởng đến chất lượng dịch.
Mục tiêu tối hậu của một bản dịch, nếu đã loại mục tiêu do nhu cầu vật
chất ra khỏi phạm trù này, thật ra là việc làm sao kiến thức trong nội dung
của bản dịch được chuyển tải một cách chính xác, đầy đủ, và hiểu được -- tức
là chuyển tải được toàn bộ giá trị tinh thần của nguyên bản đến cho càng
nhiều độc giả càng tốt. Thật không gì thành công cho bằng một bản dịch giữ
được sinh khí và đạt đến mục tiêu mà nguyên tác muốn đạt.
Từ mục tiêu này cho thấy một bản dịch đòi hỏi người dịch không được tự ý
bẻ cong, hay tự ý đục bỏ các chi tiết cho dù nhỏ hay lớn. Dĩ nhiên, trong
nhiều trường hợp, dịch giả cần và có thể thêm các chú giải để làm rõ các
thuật ngữ chuyên môn hay phần nào giúp người đọc hiểu sâu hơn. Tuy nhiên,
các chú giải này cần (nếu không nói là bắt buộc) phải được
trình bày trong một hình thức hay định dạng đặc biệt nào đó sao cho người
đọc nhận biết được dể dàng đâu là chính văn, đâu là nội dung của nguyên bản,
và đâu là chú thích hay ý kiến thêm vào của dịch giả.
Ở đây, xin phép không "đá động" đến trường hợp bất khả khán "bị đục bỏ"
vì lý do kiểm duyệt! (Do vậy có nhiều dịch phẩm đã buộc người dịch vốn muốn
dùng ngòi bút "viết đúng" thành "viết lách"). Tuy nhiên, nếu sự đục bỏ hay
viết lách chữ khá nhiều và trở nên quá mức chấp nhận được thì dịch phẩm có
thể trở thành phế phẩm hay chỉ là một loại phỏng dịch.
Một điều nữa, được kê sơ lược ra ở đây, là vấn đề đạo văn. Với tình trạng
hiện nay, có quá nhiều hình thức chép lại văn của một người khác mà không hề
ghi chú hay nhiều khi ngay cả "cuỗm" luôn toàn bộ tác phẩm, chỉ gạt bỏ tên
người dịch ra. Điều này không thể nào được chấp nhận với mọi lý do.
Từ đây trở về sau, trong bài viết này, chúng ta quy ước chỉ đề cập tới
những yếu tố dịch thuật của các tài liệu Phật giáo từ Anh ngữ sang Việt
ngữ. Nếu có trường hợp ngoại lệ khi cần thì chi tiết sẽ được nêu rõ ra.
2. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến
một bản dịch Phật giáo Anh-Việt:
Nhân thân người dịch là yếu tố có thể gây ảnh hưởng lớn nhất đến phẩm chất
của một bản dịch. Nếu một người sinh trưởng trong miền Nam, lớn lên được
tiếp cận với các giáo lý của Phật giáo Nguyên thủy, thì ngôn ngữ sử dụng của
người đó khi dịch cùng một tác phẩm Phật học so với một người sinh trưởng
tại miền Trung, được tu học nhiều kinh điển Đại thừa, sẽ có thể có nhiều
khác biệt do hoàn cảnh khác nhau thổ ngữ, về kiến thức, về trường phái tu
học, và về đời sống tập quán (tu sĩ, cư sĩ, hay chỉ là một người bình
thường). Ý thức được sự khác biệt về nhân thân của chính mình sẽ giúp cho
người dịch được phần nào khách quan hơn. Ở đây, có thêm các yếu tố rất quan
trọng về nhân thân góp phần nâng cao chất lượng một bản dịch. Trau giồi, học
hỏi, và tỉnh thức trong lúc vận dụng các yếu tố này sẽ có lợi rất nhiều.
Việc hiểu biết về chính mình và giới hạn của mình sẽ giúp cho dịch giả tránh
bớt được các lỗi dịch tạo ra do chủ quan (chấp ngã :-) và biết tận dụng sở
trường cùng như bổ khuyết cho sở đoản.
2.1. Vốn hiểu biết về giáo pháp: Rõ
ràng một người cả đời tu học theo trường phái Duy thức sẽ có nhiều cơ may
chuyển dịch các tác phẩm về Duy Thức chính xác hơn là một Phật tử thông
thường và không được trang bị đầy đủ hiểu biết về trường phái này. Mặc khác,
người có một tầm hiểu biết bao quát về lịch sử về các giáo thuyết của các
phái khác nhau lại có thể làm tốt hơn trong việc chuyển dịch các tài liệu
Phật học cơ bản hay lịch sử Phật giáo. Tuy nhiên ngược lại, đôi khi kiến
thức sâu sắc của chính mình lại có thể dẫn tới sự sai sót trong khi dịch
thuật. Chẳng hạn, đã có bản dịch mà có lẽ dịch giả vì chịu ảnh hưởng nặng
bởi các hiểu biết về Duy Thức đã sử dụng các thuật ngữ hầu như chỉ nên dùng
trong Duy thức học (như là "chủng tử", "tàng thức") đem ra dùng trong các
khái niệm chuyên biệt của trường phái Trung quán mà không có ghi chú nào để
phân định.
2.2 Kĩ năng vận dụng các phương tiện tra cứu:
Một trong những chỗ yếu của nhiều dịch giả là do sự thiếu thốn về phương
tiện tra cứu. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có một từ điển tương đối hoàn
bị nào về Phật học Anh-Việt, Tạng-Việt (và Phạn-Việt?) và ngược lại; mặc
dù các từ điển này rất cần thiết cho việc tra cứu. Bỏ qua sự thiếu thốn
khách quan này, chúng ta có thể phân chia làm hai loại phương tiện tra cứu
chính đó là phương tiện sách vở (trực tiếp) và phương tiện truyền thông điện
tử.
Do vậy, việc tra cứu một từ vựng có khi dễ nhưng cũng có khi rất khó.
Cùng một chữ, có khi chỉ được dùng với nghĩa thông thường, nhưng nhiều lúc,
cũng chữ đó, cần phải được tra cứu kĩ xem nó có nghĩa nào khác sâu sắc và
chính xác hơn? Trong nhiều trường hợp, dịch giả Anh sử dụng các thành ngữ
ít phổ biến và cũng có khi một chữ lại có thêm nghĩa đặc thù trong Phật học
mà không thể thay bằng nghĩa thông dụng. Khi tra cứu, có trường hợp phải tìm
hiểu nghĩa của các chữ trong các bảng thuật ngữ của các trang WEB chuyên
biệt về Phật giáo. Do đó, sự cẩn trọng trong khi tra cứu rất quan trọng.
2.2.1 Phương tiện trực tiếp:
Bao gồm các sách vở chuyên khoa, các sách từ điển phổ thông, chuyên môn Anh
ngữ hay Anh-Việt cũng như các từ điển Phật học là không thể thiếu trong việc
dịch thuật.
Về các sách in tra cứu: Điều đáng lưu ý trước tiên là hầu hết các từ điển
Phật học hiện tại trong nước đều thiếu rất nhiều thuật ngữ. Tuy nhiên, điểm
lợi của các từ điển hiện nay là có thể có thêm trích dẫn hay giải thích
nhiều gốc từ Hán Việt. Tiếp theo, đại đa số các tác phẩm và kinh luận trong
nước xuất bản từ trước 1990 đều có nguồn gốc từ tiếng Hoa. Các tài liệu như
thế sẽ chịu ảnh hưởng nặng nền văn hoá Phật giáo Trung Hoa hơn là các trung
tâm Phật giáo khác. Ngoài ra, đa số các tác giả viết sách Phật học trong
nước đều phát nguồn và chịu ảnh hưởng rất lớn bới nền tảng Phật giáo Trung
Hoa. Nắm bắt các nhận xét này có thể giúp người dịch tận dụng nguồn giáo
pháp tra cứu cũng như là để vượt qua được một số ảnh hưởng của Phật giáo
Trung Hoa khi dịch thuật và tra cứu.
2.2.2 Phương pháp điện tử: Trên
Internet hiện nay có rất nhiều dạng chia sẻ dữ liệu từ các thư viện dữ liệu
mà người tra cứu phải trả lệ phí cho đến các bảng thuật ngữ chuyên biệt.
Điều nổi bật ở đây là sự tiện dụng. Tuy nhiên, người ta khó lòng biết được
chất lượng của nó ngoại trừ dữ liệu lấy được từ những trang WEB có uy tín.
Do đó, việc kiểm tra lại độ khả tín của dữ liệu là điều cần thiết. Ngoài
ra, phương tiện liên lạc trên các diễn đàn (forum) và các nhóm thư điện tử
(mailgroup) Phật giáo chuyên môn cũng là nơi rất tốt và đáng tin cậy để tham
khảo
2.2.3 Một số kĩ năng khai thác dữ liệu
-- sau đây là một số cách khai thác dữ liệu
2.2.3.1 Khai thác các máy truy tìm dữ liệu
Việc khai thác dữ liệu qua các máy truy tìm thì rất tiện lợi nhưng người
dùng phải tập làm quen với các chức năng cao cấp của nó để tận dụng1.
Tiện đây, xin nêu vài cách thức để nhanh chóng tra cứu nghĩa của một từ qua
www.google.com:
define:<Thuật_ngữ> --
Ngay lập tức máy sẽ tìm giúp các định nghĩa và
hiển thị lên màn hình
definition <Thuật_ngữ> -- Máy sẽ hiển
thị các trang từ điển có ghi định nghĩa của thuật ngữ
Một phương pháp nữa cũng khá thông dụng khi muốn truy tìm tất cả các bài
viết có đề cập đến một thuật ngữ hay một cụm từ đặc biệt chỉ từ trong một
tên miền (tên trang WEB):
<"Thuật_ngữ" hay "Cụm_Từ"> site:<Tên_miền>
(Thí dụ: "tính không" site:thuvienhoasen.org )
Sử dụng các "Search Engine" này người ta cũng có thể tìm đến các sách vở
điện tử (ebook), các từ điển bách khoa toàn thư, các bảng thuật ngữ Phật
học, các từ điển Phật học bằng những thứ tiếng khác nhau, các phông chữ cần
dùng như Tạng và Phạn ngữ, các diễn đàn Phật giáo theo các truyền thống
riêng biệt, các bài viết chuyên đề trong Phật giáo, các hình ảnh minh hoạ,
các bài giảng Pháp âm của các đại sư đương thời (bằng MP3 hay bằng rm) và
thậm chí có thể dùng nó để kiểm tra lại chính tả của một chữ tiếng Việt2.
Qua đó, việc tìm hiểu về nghĩa của một thuật ngữ đặc biệt hay để tìm thêm ý
tham khảo trong Phật giáo có thể được dể dàng hơn rất nhiều.
2.2.3.2 Sử dụng bách khoa toàn thư Phật giáo và
các bài viết chuyên khảo: Thật là hữu ích nếu tìm
được một bài viết chuyên khảo hay một đề mục trong bách khoa toàn thư về
Phật học bằng Anh ngữ (hay bằng ngôn ngữ khác mà dịch giả biết được -- vi có
lẽ hiện nay chưa có tự điển bách khoa về Phật giáo tiếng Việt) giải thích về
thuật ngữ mà dịch giả đang muốn tìm hiểu. Điều này đặc biệt cần thiết khi
phải lựa chọn một từ mới chưa có hay chưa tìm ra trong các tự điển Phật học
cũng như là khi muốn hiểu rõ hơn ý tưởng của nguyên tác -- từ đó có thể giúp
tìm ra được các câu cú hay thuật ngữ thích hợp nhất.
2.2.3.3 Sách vở liên hệ -- Cách
sách vở liên hệ đến tài liệu cần dịch thường giúp dịch giả hiểu thêm nhiều
về tác phẩm mình đang theo . Tuy nhiên, điều này mất nhiều thời gian hơn so
với các phương tiện khác. Riêng khi tìm hiểu về các giáo pháp liên hệ đến
đề tài hay thuật ngữ đang được dịch thì tầm nhìn của người dịch có thể được
nâng cao và bao quát hơn, từ đó, việc diễn giải và dịch thuật sẽ dể được
suông sẻ hơn. Ngoài ra, việc hiểu biết về các tài liệu lịch sử liên quan đến
các sự kiện đang cần tra cứu cũng rất hữu ích, vì qua đó, người dịch sẽ nắm
bắt hơn về tình hình văn hóa xã hội hay bối cảnh mà nguyên tác đề cập.
2.3. Khả năng đọc hiểu nhiều ngôn ngữ:
Trong lúc truy tìm và hiểu để dịch cho đúng ý và chính xác, thì một người
hiểu biết nghiều ngôn ngữ khác nhau rõ ràng là có nhiều cơ hội đạt hiệu quả
cao hơn người chỉ biết Anh ngữ. Chẳng hạn, hiện nay Đức ngữ cũng là một
ngôn ngữ rất mạnh về các công trình nghiên cứu Phật giáo mới. Đặc biệt hơn,
nếu người dịch có khả năng đọc hiểu và tra cứu được Phạn ngữ và Tạng ngữ thì
đó là một vốn kiến thức nguồn tuyệt vời. Trong trường hợp phải dịch các
chánh văn từ Anh ngữ thì việc biết thêm hai ngôn ngữ này có thể giúp dịch
giả "dịch thẳng" từ ngôn ngữ gốc thay vì sử dụng ngôn ngữ trung gian.
Hoàn toàn bằng cách kết hợp các phương tiện điện tử, với khả năng đa ngôn
ngữ, người dịch sẽ chủ động và tự tin hơn trong mọi tình huống từ việc tra
cứu từ chuyên môn cho đến tìm hiểu sâu hơn về một chủ đề cần được dịch.
2.4. Khả năng trao đổi thông tin:
Thật sự các đồng nghiệp các học giả và các tăng sĩ là những nguồn tra cứu
sống động vô tận và quý báu nhất bên cạnh việc hiểu, họ còn có thể góp ý hỗ
trợ về nhiều mặt khác nhau trong lúc dịch thuật. Riêng các tăng sĩ, ngoài
khả năng học vấn về Phật học, họ còn có thể đã đạt đến một mức tu chứng nào
đó đủ để giúp người dịch thấu hiểu thêm về giáo Pháp trực tiếp. Do đo, người
có một mối liên hệ thầy trò, ngoại giao hay bằng hữu ... tốt với các cá
nhân kể trên sẽ là một thuận duyên rất lớn.
3. Phân tích nội hàm bản dịch:
Nội hàm nhắc đến ở đây chính là nội dung tài liệu nói về Phật giáo cần được
dịch. Các phân tích sau đây có thể ảnh hưởng trong việc phân tích nội dung,
lựa chọn chủ đề dịch, tác giả dịch hay để phân tích và hiểu rõ nội dung đang
được dịch.
3.1 Tứ Pháp Ấn: Như vậy, trong đa số
các trường hợp để khẳng định một tài liệu hay bài viết là về Phật giáo thì
chuẩn mực nào cho phép xác định đó là Phật giáo? Tứ Pháp Ấn3
chính là câu giải đáp từ chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
- Vô thường: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường.
- Khổ: Chư hành là khổ.
- Vô Ngã : Chư pháp đều vô ngã.
- Niết Bàn: Niết bàn là tịch tỉnh.
Nếu như không theo hay không phù hợp với các tiêu chuẩn này thì chắc chắn
bài viết đó không thể là của Phật giáo hay ít nhất nó không là Phật giáo
đúng nghĩa.
3.2 Tứ Pháp Y: Thứ đến, có khi, để có
thể hiểu và trình bày lại chính xác các lời thuyết giảng (chú giải hay các
trích dẫn từ kinh điển) cần phải có một tiếp cận hợp lý. Tứ Pháp Y4
là bốn nguyên lý mà đức Phật chỉ ra có thể giúp một người Phật tử tự
học hỏi phân định và tìm hiểu về giáo pháp được chính xác. Nếu việc dịch
thuật dựa theo hướng dẫn này thì gần như sẽ tránh được rất nhiều lỗi do khó
khăn về ngôn ngữ (nhất là trong các bản văn đã được dịch và chú giải qua
nhiều ngôn ngữ trung gian) đồng thời tránh bớt được các thành kiến chủ quan
trong lúc dịch
- Y pháp bất y nhân: Là dựa vào giáo pháp chứ không dựa theo
người giảng pháp, cho dù người đó có danh tiếng, địa vị cao, nếu nói pháp
không đúng cũng không nên tin theo. Dù người nói pháp đúng nhưng không có
địa vị cao, không có danh tiếng thì nên tin theo. Như vậy điều này loại
trừ lòng tin kiểu "thành kiến" hay "mù quáng". tin vào người giảng mà
không dựa trên một cơ sở nền tảng.
- Y nghĩa bất y ngữ: Ngữ là lời nói, nghĩa là cái ý. Như thế,
trong một kinh văn điều quan trọng là nắm được ý của người viết không nên
câu nệ vào lời nói giọng văn. Điều này giúp loại ra được chủ nghĩa hình
thức. Tức là, việc đọc hiểu nên chú trọng vào nội dung, và chức năng mà
người trình bày bao hàm; tránh sa đà vào cách trình bày hay hình thức mà
qua đó ý tưởng được phô bày hay ẩn ý.
- Y trí bất y thức: Thức là các giác quan hay cơ sở nhận thức
thông qua tai mắt, mũi, lưỡi, thân thể và ý tưởng. Trí là tri thức tuyệt
đối (tuệ giác). Như vậy, xét cụ thể hơn ra, qua các cơ quan hay cơ sở của
nhận thức thì vẩn còn phải chịu ảnh hưởng bởi điều kiện và kinh nghiệm của
từng cá nhân làm chủ thể cuả nhận thức nên vẩn có thể sai biệt với thực
chất của tri thức tối hậu. (Chẳng hạn như mắt người chỉ có thể nhận thấy
được một khoảng phổ hẹp ánh sáng phản xạ lại từ đối tượng vật chất và do
đó các nhận thức trong chỉ về khiá cạnh này thôi cũng đã có thể bị sai
biệt hay khiếm khuyết). Lời giảng này cho thấy người tìm hiểu cần ý thức
để loại bỏ những "biểu kiến" hay nhận thức có thể bị ảnh hưởng bởi các
thức gây ra.
- Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa: Theo cách phân định của Phật
thì vì tùy theo trình độ hiểu biết và điều kiện (duyên) của đối tượng mà
một thuyết giảng có thể mang ý nghĩa rốt ráo (liễu nghiã) hay có tính
tương đối (bất liễu nghiã). Như vậy, đứng về mặt người tìm hiểu, một người
cần phải phân tích xem ý nghĩa được giảng ra nằm trong phạm vi như thế
nào, trong điều kiện môi trường và trình độ nào, đối tượng nào, góc độ nào
để có thể hiểu được sự kiện được giảng. Có vậy để tránh được sự hiểu không
rõ hay không chuẩn xác.
3.3 Suy nghiệm và phân tích: Khi đọc
các bản dịch nhất là khi phải dịch lại các chính văn hay các lời trích từ
kinh thừa và luận thừa thì hãy nhớ đến lời dạy của đức Phật. Qua đó, cho một
thông tin đáng ngờ dù rất nhỏ, đều nên được tra cứu kiểm nghiệm lại sẽ có
thể tránh được sai sót
"Này các tỳ-kheo! Cũng như người khôn ngoan chỉ chấp nhận vàng sau
khi đã thử nghiệm bằng cách nung nóng, cắt gọt, và nén dập nó, những lời
của ta cũng vậy, chỉ được chấp nhận sau khi đã kiểm tra chúng, chứ không
phải do sự tôn kính (đối với ta).”5
3.4 Các gợi ý khác: Ngoài ra tùy
trường hợp cụ thể người dịch có thể sử dụng hiểu biết về thuộc tính của bản
dịch (các nguyên nhân chính, các nguyên nhân bổ trợ và các duyên lúc mà bài
viết được hình thành được chuyển dịch sang Anh ngữ,...) cũng như lời Phật
dạy để đưa ra cách dịch hay luận điểm đúng đắn. Ở đây xin nêu qua:
3.4.1 Tứ Pháp Luận: Có trường hợp
người dịch cần phân tích cách luận giải của nguyên tác vì đây là tài liệu
viết về Phật giáo nên việc tham chiếu các phương pháp luận giải từ trong
Phật giáo cũng rất quan trọng. Giáo pháp gần như lúc nào cũng có sự lập
luận đi kèm để minh chứng. Do đó, hiểu biết thêm về bộ môn Nhân Minh Luận5
(hay tức là môn học về lý luận trong Phật giáo) sẽ rất có lợi cho việc phân
tích ý của nguyên tác. Ở đây chi nêu bốn nguyên lý đơn giản tạm gọi là Tứ
Pháp Luận6
-
Nguyên lý về bản chất: Sự thật là có các sự vật
tồn tại, và rằng các nguyên nhân dẫn tới các hậu quả. Ta hầu như có thể
nói rằng, nguyên lý này ngụ ý một sự chấp nhận các quy luật tự nhiên. Thí
dụ: Bản chất của lửa là sự toả nhiệt và bản chất của nước là tính chất lưu
chuyển.
-
Nguyên lý về năng lực (hay còn gọi là nguyên lý
thành tựu công năng): Nguyên lý này đề cập đến cách thức mà các sự vật
có khả năng tạo ra những kết quả nào đó tùy theo bản chất của chúng. Như
lửa gây cháy, hoặc nước gây ướt. Nguyên lý này cũng gắn liền với sự phụ
thuộc của bất kỳ loại hiện tượng nào vào chính các thành phần và thuộc
tính của nó, hoặc phụ thuộc vào các thực thể khác. Nguyên lý về năng lực
gắn liền với hiệu quả nguyên nhân của một hiện tượng cụ thể, chẳng hạn như
khả năng của một hạt bắp tạo ra một thân cây bắp.
-
Nguyên lí về duyên khởi (hay còn gọi là nguyên lý
phụ thuộc) có một sự phụ thuộc tự nhiên giữa các sự vật và hiện tượng,
giữa các nguyên nhân và kết quả. Mọi kết quả đều phụ thuộc vào nhân duyên
của nó. Nguyên lý này cho thấy sự phụ thuộc của các hiện tượng kết hợp vào
các nguyên nhân của chúng, chẳng hạn như sự phụ thuộc của nhãn thức vào
thần kinh thị giác.
-
Nguyên lý chứng minh hợp lý: Dựa vào điều này
thì điều kia chắc chắn phải như thế; và dựa vào điều kia thì điều này hẳn
phải là như vậy (Nguyên lý này bao hàm các phương pháp lập luận lô-gíc như
đã nêu trên). Nguyên lý chứng minh hợp lý bao gồm ba phương thức để người
ta xác nhận sự tồn tại của bất kì điều gì - đó là: trực tiếp nhận thức,
suy đoán/suy luận chắc chắn, và tri thức dựa vào sự xác nhận của
người hay kinh điển đủ quyền năng.
3.4.2 Diễn giải kinh điển: Một điểm
đáng lưu ý là trong khi chuyển dịch các đoạn văn có tính kinh điển là tùy
theo ngữ cảnh và trường phái Phật giáo đang được đề cập, người dịch có thể
phải biết đến cách phân loại kinh Phật có tính liễu nghĩa và loại kinh điển
cần được diễn dịch tùy theo trường phái.
3.4.3 Tục đế và Chân đế: Ngoài ra, những
đọan văn Anh ngữ có đề cập hay liên quan giáo lý vô ngã hay tính Không cũng
cần được xem xét về ngữ cảnh của câu thuộc về dạng nào (Tục Đế hay Chân Đế7?
hay trong các tập sách về Zen sẽ có những loại công án khó hiểu nếu không
thấy được nội dung Chân Đế của nó). Qua đó, việc dịch và hiểu bài viết sẽ
được tường minh hơn.
3.4.4 Đối tượng của giáo pháp trong
bài viết cũng là điều cần lưu ý khi dịch. Đức Phật dạy rằng có đến 84 vạn
Pháp môn, tùy căn cơ và duyên nghiệp của người tu học mà có thể tìm thấy
Pháp thích hợp. Tương tự thế, việc lưu tâm đến giới hay tầng lớp người mà
bài viết nhắm đến sẽ giúp dịch giả chọn giọng văn hay câu cú thích hợp.
3.4.5 Tư tưởng chủ đạo: Kế đến việc
nắm bắt được tư tưởng chủ đạo của bài viết thuộc vào hệ tư tưởng triết lý
của bộ phái hay trường phái nào, hoàn cảnh của nội dung bài viết và đặc tính
địa phương (như phong, tục tập quán, văn hoá văn minh) sẽ ít nhiều giúp cho
việc chọn lối dịch nó cũng giúp cho việc hiệu đính về một ý trong bản dịch
Anh được hợp với tôn chỉ của truyền thừa riêng biệt hay không.
3.4.6 Không thời gian: Riêng về lai
lịch và không gian lúc ra đời của bài dịch cũng có thể giúp ích nhiều (so
sánh và tham khảo để chinh xác hóa với các văn bản gốc chẳng hạn)
4. Phân tích về nguyên Tác và các dịch giả trung
gian (Chủ thể)
4.1. Trạng thái nhân thân của nguyên tác tại
thời điểm ra đời của tác phẩm: Nhận thức của một người ở một thời
điểm có thể khác đi nhiều trong thời điểm khác trong khi tác phẩm của họ sẽ
phản ánh những gì thuộc về trạng thái nhận thức tại thời điểm mà nó được
viết. Hiểu được trạng thái, vị trí, hay quan điểm của một nguyên tác tại
thời điểm bài văn được tạo ra cũng là một điều thuận lợi lớn cho việc
chuyển dịch. Tuy nhiên, điều này không dể làm.
Một điều dể thấy hơn là tìm xem người đó đang ở điạ phương nào, đang theo
xu hướng hay truyền thống triết học nào, trình độ ra sao. Chẳng hạn cùng
viết về một đề tài liên hệ giữa khoa học và Phật học thì một phật tử sẽ có
cái nhìn khác và giọng văn khác với cái nhìn của một nhà báo, một nhà thần
kinh học, hay một nhà vật lý.
Riêng về ngôn ngữ (địa phương) mà nguyên tác sử dụng hàng ngày sẽ ảnh
hưởng lớn đến tác phẩm người đó viết. Rõ ràng cùng là tiếng Anh nhưng người
ở Mỹ, ở Anh, ở Úc, ở Ấn, hay ở Phi Luật Tân đều có những thói quen và dùng
chữ có những phong cách khác nhau dẫn đến việc tra cứu tự điển cần có một
mức lưu tâm nào đó. Dựa trên sự khác nhau này, người dịch có thể tránh khỏi
các nhầm lẫn vô tình do thói quen ngôn ngữ của nguyên tác. Hoàn toàn tương
tự như vậy, nhưng có phần phức tạp hơn khi bản Anh ngữ lại là một bản dịch
lại từ một ngôn ngữ khác. Ở đây bản Anh ngữ đã có thể pha thêm "màu sắc"
của dịch giả Anh và các dịch giả trung gian, đỏi khi làm lu mờ ngay cả ngôn
ngữ và ý tứ của bài nguyên thủy.
4.2 Đối tượng mà tác phẩm hướng đến
cũng góp phần cho việc định hướng dịch thuật của dịch giả. Với cùng một
người viết thì bài viết cho giới chuyên môn hay cho giới trí thức có thể
dùng ngôn ngữ khác hẳn với bài viết cho công chúng. Điều này sẽ có thể bị
phức tạp hóa nếu bài giảng ban đầu (nguyên tác) vốn dành cho giới trí thức
hay tu sĩ nay lại được dịch giả Anh dịch lại nhưng vô tình hay cố ý chuyển
hướng dịch lại dùng giọng văn dành cho công chúng và thêm thắt vào đó nhiều
chú thích về các thuật ngữ chuyên sâu.
5. Ngoại diện:
Ở đây bài viết dùng
chữ "ngoại diện" để mô tả những tính năng hình thức hay phương tiện qua đó
nó chuyển tải nội dung ý tưởng của bài dịch Việt cũng như đối tượng của bài
dịch Việt.
Điểm khác biệt giữa bản dịch Anh và bản dịch Việt là ngôn ngữ và cấu trúc
sắp xếp trong bản Anh ngữ đã định hình trong khi người dịch có một khoản
giao động trong việc lựa chọn từ ngữ, văn phong và cách xắp đặt cấu trúc bản
dịch. Như vậy, ngoại diện của bản Anh ngữ thì hoàn toàn xác định và bị động
chỉ đòi hỏi sự hiểu biết về nó, trong khi bản dịch Việt thì có một phần chủ
động (tuy vẩn phụ thuộc về nội dung của bản Anh ngữ) tùy người dịch tạo ra.
Phần này sẽ tập trung vào phân tích các đặc điểm ngoại diện của bản dịch
Việt.
5.1 Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thật sự có
ảnh hưởng rất nhiều đến cảm xúc và sự thấu hiểu của độc giả. Ở đây, việc sử
dụng các đặc tính của ngôn ngữ Việt (như văn phong, biện pháp tu từ, ...)
đóng vai trò quan trọng cho sự thành công của bản dịch. Ngôn ngữ Việt, nếu
để ý, sẽ nhận ra sự khác biệt của người dùng theo từng thế hệ, từng thời kì,
từng điạ phương. Hơn thế nữa, cách dùng ngôn ngữ và từ vựng cũng thay đổi
khá nhanh theo thời gian nhất là trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của
tiến bộ về phương tiện giao thông và thông tin thì ngôn ngữ Việt thông dụng
và chuyên nghiệp cũng thay đổi rất nhanh chóng gần như không có sự lưu ý nào
từ phía các nhà giáo dục. Các chữ có thể bị thay đổi về ý nghĩa trong cách
dùng thông thường. Ngay cả ngôn ngữ dùng trong các tài liệu Phật giáo cũng
chịu ảnh hưởng mạnh bởi xu hướng thay đổi này. (Nếu muốn thấy rõ hãy thử xem
và so sánh một vài tác phẩm viết về Phật giáo trước 1975 và tài liệu mới gần
đây về cùng một đề tài). Do đó, cũng nên chú ý nếu muốn bài dịch được dể
hiểu hơn thì có thể giảm bớt các từ cổ điển thay bằng các từ mới trong chừng
mực có sự kiểm soát cẩn thận nào đó.
Một ý kiến khác về việc lựa chọn thuật ngữ là trong rất nhiều trường hợp
do chủ quan người dịch thường hay "quên" về khả năng người đọc không có tín
ngưỡng Phật giáo hay không cùng lập trường, và do đó, đôi khi vì vô ý người
dịch đã có dùng các thụật ngữ "không mấy trung tính" hay "không mấy phù hợp"
nếu không nói là sai lạc so với ngôn ngữ thực sự của nguyên bản. Việc lưu
tâm về lựa chọn từ ngữ sẽ giúp bản dịch được nhẹ nhàng hơn và chính xác hơn
(cho người không cùng đạo hay không cùng tư tưởng).
Tiện, xin nhắc thêm tình hình Anh ngữ cũng có một số điểm đáng ghi nhận
là có nhiều thuật ngữ chuyên môn như là những từ ít thông dụng thì không
được thống nhất trong cách viết. Ngoài ra, có nhiều tài liệu dùng thuật ngữ
Phạn được phiên âm theo các nguyên tắc khác nhau. Điều này gây khó khăn
không ít trong việc tra cứu
Hơn thế nữa có một số truyền thống Phật giáo trước đây rất khép kín cũng
đã bắt đầu hé mở cửa (như trường hợp Phật giáo TâyTạng). Với ngôn ngữ giáo
pháp gần như "mới xuống núi" của các truyền thống này đòi hỏi tiếng Việt
phải có những cập nhật tương ứng và gây phức tạp thêm cho người dịch. Số
thuật ngữ mới này vẩn còn thiếu sự thống nhất nên cũng tác động đến người
đọc ít nhiều.
5.2 Đặc điểm đối tượng "độc giả" (khách thể
Việt) Để cho một dịch phẩm được thành công thì người dịch cũng
cần xác định rõ đối tượng phục vụ của nó. Việc chuyển dich bài văn Phật
giáo cho giới trẻ ít hiểu biết về Hán ngữ phải khác nhiều với bài viết dành
cho hàng tăng sĩ. Tương tự, tùy theo bản dịch và tùy theo mụch tiêu, các
dịch giả cần để ý đến giới tính, trình độ, tâm lý, văn hóa, đạo đức ... để
có thể sử dụng ngôn ngữ và văn phong hợp lý. Thường thì để mở rộng được
giới độc giả người dịch phải chọn một loại ngôn ngữ tương đối giản dị, giới
hạn bớt những từ cổ, từ Hán Việt. Tuy nhiên, nếu chăm chút quá vào việc dùng
chữ có gốc Nôm đôi khi lại làm cho bài văn trở nên thiếu ý, quá dài dòng hay
tối nghĩa. Một phương án để dung hoà bớt là sử dụng thêm hệ thống chú giải
một cách khoa học.
5.3 Hệ thống chú thích (chú giải):
Hệ thống chú thích được sử dụng trong các sách nhằm nhiều mục đích khác nhau
và nó có thể được tạo ra từ nguyên tác, các dịch giả trung gian hay từ người
dịch Việt. Đặc biệt trong các tác phẩm Phật giáo, ngoài phần chính văn,
nhiều tác giả đi sau có thể viết thêm các luận giải vào phần chú thích và
đặt lại tựa mới cho quyển sách. Các chú giải này đôi khi đóng vai trò rất
quan trọng cho tác phẩm (qua cách phân tích của người dịch và chú giải, tác
phẩm ban đầu có thể có chuyển hoá lớn về mặt chất lượng). Hầu hết những
người viết dạng chú giải sẽ tách riêng một cách rõ ràng đâu là chính văn và
đâu là phần giải nghĩa. Tùy theo tác phẩm người dịch có thể giữ nguyên hệ
thống chú thích thay đổi hình thức trình bày. Trong nhiều trường hợp, dịch
giả cần chèn thêm các chú thích thì phải làm sao cho độc giả có thể dể dàng
phân biệt rạch ròi đâu là các chú giải thêm của phần Việt ngữ (Chẳng hạn,
bằng cách đặt thêm dòng viết tắt ngắn, hay thay đổi định dạng chữ in, ... để
giúp bật vào mắt người đọc phân biệt được chú giải riêng một cách dể dàng)
5.3.1 Các loại chú giải: Có nhiều
dạng chú giải mà nguyên tác và các dịch giả có thể chèn thêm vào như
- Giải thích thêm về thuật ngữ mới dùng.
- Giải nghĩa thêm về ý của một câu, một đoạn hay một chương.
- Liên kết các ý tản mạn hay rời rạc trong các phần khác nhau của tập
sách để làm rõ hơn ý tưởng nào đó của nguyên tác.
- Đào sâu thêm chi tiết để minh họạ hay để dẫn chứng (đúng - sai).
- Để phân định sự khác nhau của hai ý gần tưởng tự hay để phân biệt cách
hiểu khác biệt về thuật ngữ hay cách hiểu của các giáo phái.
- Có thể dùng để phê bình.
- Dùng để trích dẫn và tham chiếu đến các nguồn tin cậy khác.
- Giảng thuyết lại toàn bộ chính văn -- Sự chú thích lớn như thế thường
được gọi là chú giải và bản chú giải này thường được xem là một tác phẩm
mới riêng biệt. Ở đây để cho tiện phân tích chung, chúng tôi chỉ xem nó
là một loại chú giải từ chính văn.
5.3.2 Phân biệt nguồn của chú giải:
Để cho một bản dịch được thực sự rõ ràng minh bạch thì người dịch cần chú ý
phân biệt sự khác nhau về chủ thể (nguồn) của các chú giải từ nguyên tác,
từ các dịch giả, và từ dịch giả bản Việt ngữ. Với phân biệt này, ngoài việc
giúp cho người dịch được dể dàng, nó còn còn giúp người đọc nắm vững chi
tiết nào là của ai và có thể có đánh giá khách quan hơn về nguyên tác và
người dịch.
5.3.3 Định dạng chú giải: tùy theo
mức độ phức tạp của một bản dịch mà khi trình bày có thể cần có các biện
pháp định dạng khác nhau cho các chú thích. Các định dạng này phải giúp
người đọc phân định được nguồn và loại của chú giải. (Chẳng hạn dùng các
kiểu chữ, kiểu đánh số hay kiểu trình bày đặc trưng cho từng loại hay từng
nguồn chú giải sao cho khi đọc chú giải đó độc giả có thể lbiết được nguồn
và loại chú giải)
5.3.4 Trường hợp nên/buộc dùng chú giải: Vì
tính trong sáng và rõ ràng, nhiều trường hơp dịch giả nên hay buộc phải thêm
chú giải chẳng hạn như trường hợp bản dịch Anh bị sai ý so với nguyên bản,
hoặc trường hợp một thuật ngữ dể gây ngộ nhận, hoặc các thuật ngữ viết khác
nhau lại mang cùng một ý nghĩa, hay các tên địa danh lịch sử, tên lạ ...
5.3.5 Một số trường hợp tránh dùng chú giải:
Ngược lại cũng có trường hợp nên tránh dùng chú giải nếu chú giải đó có thể
gây ra việc hiểu hiểu sai lạc hay tạo thêm rối cho độc giả như trường hợp
chú thích của chú thích.
5.3.6 Chú giải Anh: Như vậy tùy theo
tình trạng mà người dịch nên quyết định thêm hay không các chú thích nhằm
làm rõ các chi tiết của bản dịch. Tuy nhiên, ngược lại, việc tự ý cắt bỏ
hay thay đổi nội dung những chú thích sẵn có trong bản dịch Anh mà không có
một thông tin nào cho độc giả hay biết về việc làm này là không nên (hay
không thể chấp nhận được -- ngoại trừ trường hợp bị kiểm duyệt !). Trong
những trường hợp đặc biệt, tốt hơn hết là thêm vào đó một chú thích đặc biệt
từ dịch giả Việt để giải thích ghi chú của bản Anh ngữ. Tưởng cũng nên lưu
ý là đa số các sách Phật giáo Anh ngữ dùng một trong hai dạng chú thích (hay
dùng cả hai):
- Dạng chú thích đánh số theo chương và sẽ được ghi chú ở sau cùng của
sách.
- Dang chú giải: thường khi phụ phần chiếm một tỉ lệ lớn thi chính văn
được sắp xếp hay định dạng riêng biệt. Theo sau đó là toàn bộ phần chú
giải từng câu một. (Trước khi vào chinh văn có thể là các phần cài đặt hay
phần dẫn giải nền).
5.4 Hệ thống tham chiếu: Hệ thống
tham chiếu được sử dụng cho nhiều mụch đích, trong đó quan trọng nhất là
cung cấp thêm thông tin cho người đọc tìm hiểu sâu vào chi tiết cũng như
dùng để kiểm nghiệm lại giá trị của các ý kiến trong nguyên bản. Hầu hết
các tài liệu viết về Phật giáo đều có trong đó ít nhiều các hình thức trích
dẫn và tham khảo. Việc trình bày các trích dẫn và tham chiếu có thể từ dạng
đơn giản là trực tiếp ghi chú lại và cho biết nguồn gốc tham khảo cho đến
các hình thức phức tạp là kết hợp ghi chú với một bảng ghi kí hiệu và từ đó
người đọc khi cần có thể một lần nữa tìm ra nguồn tham khảo qua bảng danh
mục tham khảo. Cũng có khi bảng danh mục tài liệu tham khảo được nêu độc
lập một mình và các trích dẫn được ghi chú nguồn riêng trong hệ thống ghi
chú. Ở đây, người dịch tùy theo mục tiêu hoặc có thể chiếu y theo hình thức
trình bày của bản Anh ngữ hay thuận duyên thay đổi cách trình bày hệ thống
tham chiếu cho phù hợp với cách quen thuộc của độc giả người Việt. Tương tự
như hệ thống chú thích, nếu các tham chiếu được dịch giả chèn thêm thì nó
phải được lưu ý cho người đọc phân biệt rạch ròi khác nhau giữa nguyên bản
và bản dịch Việt. Thật đáng tiếc và là một sai sót khi rất nhiều trường hợp
các bản in Việt sau này đã tự ý loại bỏ các tham chiếu vốn có trong nguyên
bản Anh và như vậy làm giảm giá trị học thuật của bản dịch.
5.5 Hệ thống hình ảnh hay đồ thị minh họa
Thường trong các sách có tính kinh điển, người ta sẽ ít tìm thấy hình
ảnh hay đồ thị minh họa. Tuy nhiên, với các sách Phật giáo mới hơn, nhất là
các sách có tính lịch sử hay nghệ thuật thì hệ thống hình ảnh sẽ có thể rất
phong phú. Các hình ảnh sơ đồ đôi khi chỉ có vài dòng minh họa và chú giải
ngắn về nguồn gốc. Hệ thống minh họa tự nó có mang tải những thông tin
thiết thực có khi không thể thiếu.
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp dịch giả cần đưa thêm hình ảnh, hay sơ
đồ minh họa cho dể hiểu thì cần chú ý về độ chính xác, rõ ràng, phù hợp với
đề tài, và đặt đúng chỗ. Chẳng hạn một bài viết Phật giáo Tây Tạng mô tả về
vòng luân hồi sẽ trở nên rất khô khan và khó hiểu nếu không có hình ảnh cụ
thể. Các hình ảnh thường là công cụ minh họạ mạnh mẽ cũng như có thể cung
cấp những bằng chứng (hay phản bác) cụ thể nhất cho ý tưởng của tác phẩm.
Tuy nhiên, giá thành tăng do việc in ấn sách có nhiều hình minh họa đôi khi
cũng là vấn đề cần tính đến.
5.6 Hệ thống phụ lục: có thể xem
như một loại bổ phần (hay một dạng chú thích đặc biệt). Trong các sách Phật
giáo theo lối truyền thống bằng Việt ngữ, thường it có dạng phụ lục này. Tuy
nhiên, trong các sách trình bày Anh ngữ ngày nay thường có nhiều phụ lục
hơn. Thật sự mục đích của các phụ lục rất rộng từ việc trình bày thêm
phương cách thực hành giáo pháp đề cập trong bài cho đến việc trích lại các
bản kinh luận hay ngay cả chỉ để trình bày các chi tiết bổ xung cho lần dịch
đó... Trong nhiều bản dịch Việt ngữ, không hiểu vì sao lại "bỏ quên" không
trình bày phần phụ lục mà không hề nêu lý do cho độc giả. Tuỳ theo mức độ,
đây có thể là một sai sót lớn hay nhỏ trong dịch thuật.
5.7 Bảng Danh từ chuyên môn và thư mục
Trong các tài liệu có nội dung ngắn thì có thể không có thư mục và bảng
thuật ngữ. Nhưng trong các chuyên khảo hay các tập sách lớn Anh ngữ thường
có thêm bảng thuật ngữ và/hay thư mục. Tương tự như trường hợp của hệ thông
tham chiếu, trong đa số sách dịch Việt ngay cả các sách trước tác phổ biến
về Phật học việt ngữ thường không có chúng. Thư mục được sử dụng như một
cách để người đọc có thể nhanh chóng tìm đến các thông tin nói về cùng một
chủ đề trong toàn bộ tập sách. Điều này rất hữu ích cho vìệc tra cứu so sánh
và đào sâu về một đề tài trong sách. Trước đây, khi phương tiện máy tính
điện tử chưa phổ biến trong soạn thảo thì thật sự phức tạp cho người hiệu
đính và chuẩn bị. Tuy nhiên, với việc sử dụng computer, một bảng thư mục
soạn thêm sau khi đã định dạng tập sách trở nên bớt năng nhọc nhất là trong
trường hợp chỉ là dịch lại từ nguyên bản. Về bảng danh từ chuyên môn, thì
đây có thể là một khó khăn vì có thể có nhiều từ mới chưa thống nhất trong
Việt ngữ mà lại không có mặt trong nguyên bản khiến người dịch phải ra công
soạn thảo thêm. Tuy nhiên, với bảng thuật thuật ngữ (hay bảng đối chiếu
thuật ngữ) thì người đọc sẽ nắm được ý nghĩa đặc thù của thuật ngữ đó trong
nội dung cụ thể của tập sách. Ngoài ra, bảng thuật ngữ này có thể được bổ
sung điều chỉnh thành bảng thuật ngữ đối chiếu rất có ích cho độc giả trong
trường hợp họ muốn tìm hiểu, tra cứu thêm trong các tài liệu Anh ngữ về các
chi tiết liên quan.
Tùy theo cách trình bày, bản Anh ngữ có thể xếp các phần trình bày ở mục
5.4, 5.5, 5.7 chung vào thành các phụ lục. (phải chăng vì chữ "phụ
lục" này mà nhiều bản dịch Việt đã bỏ qua không dịch nội dung nhiều khi vô
cùng giá trị của no?)
5.8 Hệ thống dàn bài: Tùy theo bản
dịch và cách lựa chọn trình bày, một tập sách có thể nhiều hay ít hay bỏ qua
các phần trình bày và thứ tự có thể sắp xếp tùy từng trường hợp. Sau đây là
một ví dụ về dàn bài tương đối đủ
- Tựa đề và nguyên tác hay/và các dịch giả của mỗi bản dịch trung gian
và bản dịch Việt
- Khẳng định bản quyền và các thông tin liên hệ
- Giới thiệu các dịch giả
- Cảm tạ
- Giới thiệu tập sách và/hay lời nói đằu, lời ngỏ
- Cách sử dụng sách (bao gồm giải thích về cách tra cứu, về các định
dạng, các chú thic'h ...)
- Bảng mục lục, bảng mục lục các hình ảnh và sơ đồ
- Nội dung chính
- Chú thích
- Bảng chữ viết tắt
- Tham chiếu/Tài liệu tham khảo
- Thư mục (hay từ vựng tra cứu)
- Các phụ lục khác
6. Vấn đề lựa chọn và trình bày một thuật ngữ:
Lựa chọn thuật ngữ trong lúc dịch là việc rất quan trọng nó ảnh
hưởng đến toàn bộ chất lượng của bản dịch. Tùy theo khả năng, mỗi dịch giả
sẽ có cách thức, chiến lược và kĩ năng khác nhau. Ở đây chỉ nêu vài đặc
điểm đáng lưu ý.
6.1 Tính thống nhất trong phương án chuyển dịch:
Nếu trong trường hợp phải lựa chọn một từ vựng trong số những từ vựng khả dĩ
dùng được thì có thể xác định thêm một vài yếu tố liên hệ (như đã nêu trên
trong đó bao gồm đối tượng độc giả, biện pháp tu từ, cấu trúc hiện tại định
dùng ...) Ngoài ra, người dịch có lẽ cần cứu xét đến các yếu tố trong lúc
lưạ chọn bao gồm: tính phổ biến của thuật ngữ, chữ Thuần Việt hay Hán Việt,
chữ Anh hoá8 hay phiên âm.
Việc sử dụng thống nhất một chiến lược lựa chọn (tùy theo đặc điểm nội
hàm của từ) có thể làm cho bài dịch được sáng tỏ hơn. Tùy theo từ loại,
người dịch có thể đưa ra cách chuyển dịch thích hơp tối ưu cho bài địch được
rõ ràng và thống nhất. Thí dụ9 người dịch có thể theo thống nhất
dịch tùy theo lớp đối tượng như là: các địa danh dùng phương án giữ nguyên
tên Anh hoá (Lumbini, Bodgaya, ..), các
giáo phái có thể dùng tên theo các đặc điểm của giáo phái (Kinh Lương Bộ,
Duy Thức tông, Đại Thừa, ...), kinh điển dùng tên phiên Âm Phạn La-tinh,
.... Tuy nhiên, có trường hợp không thể theo một cách đặt tên thống nhất
cho một lớp đối tượng thì vẩn có thể cứu xét sao cho việc thông dịch không
quá rối rắm vô nguyên tắc. Một thí dụ khác là ưu tiên sử dụng lại các thuật
ngữ đã thật sự thông dụng dù rằng nó không được rõ nghĩa cho lắm (thí dụ chữ
"quán đảnh"), sau đó mới đến việc áp dụng các phương án dịch thuật kể trên.
Tuy vậy, cần nên cẩn trọng với những chữ tuy đã quen dùng nhưng có thể dẫn
đến sai sót (thí dụ khi dịch cụm chữ "mere name, mere designation" thành cụm
từ "chỉ là giả danh" thì có thể sẽ thiếu chính xác)
6.2 Thứ tự ưu tiên: Ngay cả trong các
trường hợp dùng câu thì việc đặt ra tôn chỉ về các thứ tự ưu tiên cho việc
dịch câu sẽ có ích. Chẳng hạn9 ưu tiên hàng đầu là đúng nghiã và
đủ ý, tiếp đến là sự rõ ràng trong sáng, sau đó mới đến tính năng đơn giản
bình dân, và cuối đến là trau chuốt.
6.3 Vấn đề viết hoa: Một điều nữa cần
để ý là về việc viết hoa hay không cho một danh từ. Trong nhiều trường hợp
người dịch thường có xu hướng "viết hoa hoá" tất cả các danh từ hay đại từ
mang tính tôn kính mặc dù xét ra đó chỉ là danh từ chung (chẳng hạn "các vị
Bồ-tát", "chư Phật"). Việc xác định một chữ có nên viết hoa hay không là
tùy theo lập trường và suy định của người dịch. Tuy nhiên, việc chiếu theo
văn phạm Việt ngữ để viết hoa hay không cho một thuật ngữ thì có lẽ vẩn là
một quyết định hợp lý lẽ.
6.4 Hướng chọn dịch thuật ngữ mới:
Như nêu trong 6.1 có nhiều phương án để lựa chọn cách dịch một thuật ngữ mới
hoàn toàn chưa có trong các tự điển Anh Việt. Ở đây xin nêu vắn tắt vài
cách chính:
6.4.1 Dịch nghĩa, phiên âm, hay du nhập chữ mới?
Nếu có thể tìm ra một từ ngắn gọn và tương đương với từ mới (có gốc Nôm hay
gốc Hán-Việt) thì đây là việc hoàn hảo. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp
một thuật ngữ Anh lại không thể nào tương đương với một vài chữ ngắn gọn mà
chỉ có thể giải thích được bằng một hay nhiều câu dài. Trong trường hợp này
người dịch có thể phải nghĩ đến những phương án khác như là tự đưa ra một
thuật ngữ hoàn toàn chưa có và sử dụng chú thích để đưa ra định nghĩa hay
khái niệm về thuật ngữ đó.
Các thuật ngữ Việt mới hoàn toàn, khi được chuyển dịch, có khi không phải
là một "thuật ngữ" tự nó có ý nghĩa (hoặc ý nghiã đó không phù hợp, hoặc lý
do nào khác) mà lại là một từ vựng mượn từ ngôn ngữ khác hay mượn
cách phát âm của ngôn ngữ khác -- tức là việc sử dụng lại thuật ngữ từ
tiếng nước ngoài (thường là Phạn ngữ hay Anh ngữ) hay là sử dụng phương pháp
phiên âm.
Ngoài ra người dịch có khi còn có thể dùng đến cách thức phức tạp hơn.
Chẳng hạn dịch từ Anh sang Hán ngữ và từ Hán chuyển dịch thành từ vựng Hán
Việt. Phương pháp sau chót không có gì đáng chê trách, nhưng đôi khi cần
phải xem xét thật kĩ, vì có nhiều trường hợp khi dịch Anh sang Hán thì chữ
Hán đó lại cũng chỉ là một lối phiên âm và như thế cứ phiên âm lòng vòng
sang tiếng Việt. Trong trường hợp từ phiên âm này đã được chấp nhận và thông
dụng thì nó khả dĩ dùng lại được nhưng nếu với trường hợp một từ hoàn toàn
mới thì việc này không thuyết phục và khó có hiệu quả. Ngoài ra, nếu để ý,
thì hầu hết các thuật ngữ được dịch theo lối "phiên âm của phiên âm" này chỉ
có trong các thuật ngữ tiếng Phạn chứ không phải thuật ngữ tiếng Anh (chẳng
hạn như chữ "Ba-la-mật-đa").
6.4.1.1 Phiên Âm: Hiện tại có hai
hướng phiên âm chính: Hán việt và Anh-Việt. Xu hướng phiên âm Hán-Việt có
lẽ gần gùi hơn với ngôn ngữ Phật giáo Việt Nam. Các phiên âm từ các chữ có
gốc La-tinh sang Việt tuy có (như chữ "xà phòng"), nhưng rất ít và gần như
không thấy trong Phật học.
Ngoài ra, trong thời gian sau này chúng ta còn có thể thấy một loại phiên
âm có sự "chế biến" trong đó nghĩa là thay vì "âm" được "phiên" sang tiếng
Việt thì người dịch điều chỉnh âm Việt ngữ này thành một chữ khác nghe có vẻ
hợp lệ. Chẳng hạn tên của Giáo Hoàng Thiên Chúa giáo Benedict 16 được dịch
thành "Biển Đức" trong khi thực sự chữ Benedict không hề có nghĩa là "Biển
Đức". Tương tự vậy chữ Gelug vốn có nghĩa là "tông phái của các hiền nhân"
có khi được dịch thành "Giới Đức". Lối phiên âm này thật sự không có quy
tắc thống nhất nào mà chỉ tùy cảm quan, tùy chữ.
6.4.1.2 Giữ nguyên từ vựng Anh ngữ hay từ vựng
đã Anh hoá (hay La-tinh hoá): Nhiều tác phẩm Anh ngữ sau này có
xu hướng mở rộng thuật ngữ Phật giáo bằng cách dùng lại từ gốc tiếng Phạn
(nhất là tên các kinh luận). Trong tiếng Việt, nhất là trong ngôn ngữ thông
thường chúng ta cũng thấy việc sử dụng Anh ngữ vào trong giao tiếp hàng
ngày. Thực sự, tùy theo quan điểm, người dịch có thể áp dụng cách này hay
không nhất là trong trường hợp tên người, tên địa danh -- có thể không mang
một ý nghĩa nào -- nhưng một khi đã bị phiên âm, người đọc sẽ mất đi phần
lớn cơ hội để tra cứu rà soát lại về nguồn gốc và địa lý của tên đó.
7. Vấn đề kiểm soát chất lượng dịch:
Một bài dịch, nhất là những bài thuộc loại giáo pháp tu học, triết lý, hay
chuyên khảo dài cho dù rất chú tâm và cẩn thận dịch giả cũng khó lòng tránh
hết được các sơ xuất trong khi trình bày, chú thích, tham khảo, hay trong
cách dùng từ ngữ. Việc có được một vài người khác có hiểu biết sâu sắc độc
lập đọc và hiệu đính lại bài dịch sẽ giảm bớt được các lỗi thuộc về chủ quan
này. Ngoài ra, nếu người dịch không làm việc đơn lẽ (điều này thường xãy ra
trong các đề tài dịch thuật lớn hay nhiều khó khăn) thì việc tổ chức làm
việc sao cho chất lượng bản dịch được đồng đều, tiến độ dịch không bị ngưng
trệ và văn phong của các bộ phận (do những người dịch khác nhau) không quá
khác biệt cũng rất quan trọng.
7.1 Người hiệu đính: Có nhiều bản
dịch coi nhẹ phần hiệu đính và xem đó chỉ như là việc dành cho người giúp
sửa chính tả. Đây thật sự là sai lầm to lớn. Người hiệu đính có thể đóng
vai trò quan trọng không thua kém người dịch trong việc nâng cao chất lượng
bản dịch. Vì là một người "đứng ngoài" nên người hiệu đính có thể cung cấp
rất nhiều ý kiến khách quan, cũng như giúp chỉnh sửa sai sót, nhầm lẫn mà
đôi khi người dịch không thấy rõ
7.2 Nhóm cộng tác: việc cộng tác
dịch thuật có thể từ hai người trở lên. Đối với một nhóm chuyển dịch vài ba
người thì sự hoạt động sẽ dể tổ chức thống nhất và ăn khớp. Tuy nhiên, với
số thành viên lớn thì việc tổ chức sao cho công việc trôi chảy, ăn khớp,
chất lượng và văn phong được giữ cho đồng đều sẽ là một điều cần quan tâm.
Việc phân chia công việc nên hết sức chú ý đến sở trường và thời gian hoạt
dụng (tổng thời gian làm việc dịch thuật và hiệu suất) của từng thành viên.
việc có một vài thành viên đứng ra lo dàn trải công việc, tổ chức, theo dõi
tiến trình, cũng như như làm người dự phòng trong trường hợp có thành viên
gián đoạn cũng là điều cần thiết. Đối với một công trình dịch thật lớn thì
tổ chức dịch thuật song song cùng lúc giữa các thành phần của đề tài sẽ tiết
kiệm nhiều thời gian. Ngược lại, việc tiến hành song song đó lại đòi hỏi các
thành viên (nhất là thành viên phải tiến hành chuyển dịch các phần giữa hay
cuối) có hiểu biết sâu sắc về đề tài hay đã đọc qua hầu hết các bộ phận cần
thiết đủ để nắm bắt phần việc mình đang làm. Để giảm bớt sự không đồng
nhất trong ngôn ngữ dịch thuật thì có thể cần dùng đến một bảng thuật ngữ
chia sẻ chung và sự thống nhất ý kiến về cách hành văn (thông qua một bài
dịch mẫu chẳng hạn). Thực sự, việc không ngang bằng về hiểu biết của từng
thành viên có thể là điểm yếu nhưng nó cũng là điểm mạnh vì qua đó người tổ
chức có thể lợi dụng tính đa dạng mà phân bổ công việc cũng như biết thêm
được chất lượng bài dịch qua các tầm nhìn khác nhau.
8. Các ý tưởng liên quan
* Vấn đề kinh tế đời sống : Thật sự đối với một dịch giả trong nước
thì số huê hồng nhận được do dịch thuật các tài liệu Anh ngữ (tính theo trị
giá bán của một tác phẩm từ 5-10%) có thể hơi ít chưa kể trường hợp dịch
thuật phải mua hay kí nhượng quyền phát hành với một nhà xuất bản Anh ngữ
thì xem như "làm việc không lấy tiền công". Nếu một người ở các Tây Phương
thì thật sự số thu nhập này quá nhỏ đến nổi khó lòng trang trải công sức.
Tuy nhiên, nếu làm không vì lợi nhuận mà vì những mục đích khác thì khó để
phân định giá trị. Có những dịch giả tự mình lo cả chi phí về mặt in ấn và
tự phát hành. Tuy nhiên, cách làm này thường chỉ mang tính địa phương vì
thường số lượng bản in ra sẽ hạn chế. Việc lựa chọn nơi in ấn cũng là một
vấn đề, in tại nước ngoài (như Hồng Kông, Đài Loan, hay ngay tại Hoa kì ...)
giá thành in ra sẽ rất cao. Ngược lại, in trong nước đòi hỏi vượt qua nhiều
thứ "hàng rào" chẳng hạn như sự kiểm duyệt. Ngoài ra, vấn đề ăn cắp bản
quyền trong nước cũng thật sự đáng lo ngại.
*Vấn đề phổ biến bất vụ lợi : Một điều đáng ca ngợi trong lãnh vực
dịch thuật đặc biệt là về Phật giáo, có nhiều dịch giả đã nổ lực quyên góp,
in ấn phát hành và biếu không những công trình có giá trị của mình (kể cả
công đức về vật chất lẫn tinh thần). Tuy nhiên, cần cẩn trọng khi cúng
dường các tác phẩm -- hãy đặt công sức mình vào đúng chỗ! Trong vài trường
hợp thực tế khi mà chính người viết đã thấy tại một ngôi chùa có tầm cở lớn
đã để các tác phẩm đó "cúng dường" cho mưa nắng. Thật đau lòng khi thấy các
bản kinh luận được ấn tống tốn tiền, tốn của được phơi trên các kệ ngoài
trời cong quăng vàng vỏ. Như vậy không biết là có phải tâm lý "của chùa đầy
dẫy" đã chẳng những nhiễm vào tâm lý người dùng mà còn nhiễm cả đến người
giữ chùa? Xin một lời cầu nguyện chấm dứt được việc này! Một điểm yếu nữa
của việc tự quyên góp và phát hành là các sách được in ra sẽ rất hạn chế và
khó phổ biến rộng rãi.
Ngược lại, việc in và bán ra thì cũng gặp trở ngại ... in ở đâu? (như đã
phân tích trên). Tuy nhiên, chỉ có những tác phẩm tương đối đạt "thị hiếu"
mới dể dàng được phát hành trên kệ sách, còn một số tác phẩm chuyên khảo
giá trị, ít người mua, e khó lòng! Một số khác, có lẽ không cần đến khoảng
tiền lợi nhuận nên cũng không muốn sách của mình được đem ra bán với giá quá
rẻ so với trị giá thực. (Đó là vì trị giá tiêu dùng ở Việt Nam khá thấp).
Tuy vậy, nếu thực sự không cần tiền thì có thể dùng số huê hồng đó vào
chuyện công ích, như làm từ thiện chẳng hạn, trong khi vẩn có thể mượn hệ
thống phát hành sách trong nước mà phổ biến rộng rãi.
Lựa chọn phương cách và mục đích phổ biến thế nào của một dịch phẩm cho
tối ưu hoàn toàn nằm trong tay người chủ nó.
Trên đây chỉ là những ý tưởng "bàn ra" khi mà chủ đề của bài viết cũng đã
đến hồi kết.
Việc một bản dịch có thành công hay không hoàn toàn do khả năng và nổ
lực của dịch giả. Tùy theo bản dịch, đổi với người có năng khiếu, tài giỏi
hay già dặn kinh nghiệm nhiều khi không cần bất kì một phân tích tra cứu nào
cũng vẩn có thể cho ra một tác phẩm hay. Trong các chi tiết nêu trên, có
thể có nhiều điều mọi người đều đã biết, có điều hợp, có điều không dùng
tới. Cho dù ra sao, nếu như môt ý nhỏ trong bài viết này trở nên có ích cho
người đọc thì bài viết đã đạt mụch tiêu của nó.
9. Phụ lục
9.1 Nội dung chính của một hợp một đồng chuyển
dịch với đối tác: Việc đầu tiên sau khi chọn dịch một tập sách
(hay một tài liệu) là phải tìm địa chỉ và gửi thư (hay điện thư) đến nơi giữ
bản quyền. Các tài liệu đã phổ biến trên Internet thường sẽ dể dàng xin
được quyền chuyển dịch miễn phi hơn. Tuy nhiên, cũng tùy giá trị tài liệu và
chủ nhân của nó. Tùy theo nơi giữ bản quyền việc hợp đồng cho phép dịch
thuật một tác phẩm có thể khác nhau ít nhiều và có thể chỉ có hai đối tác
hay nhiều hơn (trường hợp người dịch, nhà xuất bản bản dịch Anh, và nhà in
bản dịch Việt chẳng hạn). Có khi người dịch thuộc về một phía đại diện mà
không đứng riêng tên. Một bản hợp đồng sẽ ghi rõ thoả thuận giữa các phía
nó cũng là công cụ bảo vệ quyền lợi cho mỗi phía. Sau đây là các đề mục
chính thường có trong một hợp đồng. Cần lưu ý quan trọng nhất là vấn đề các
chi phí phải trả, các thời hạn sử dụng, và bản quyền
- Tên và cách định danh các đối tác (chẳng hạn nhà xuất bản Anh là
Proprietor và người dịch là Translator)
- Sự khẳng định cho phép phát hành bằng ngôn ngữ Việt
- Các khoảng chi phi phải trả cho hơp đồng
- Khẳng định bản quyền
- Thời hạn của bản hợp đồng
- Thời hạn tối thiểu phải dịch và phát hành
- Chi phí phải trả cho mỗi bản in sách đến nơi nhượng (hay bán) bản
quyền
- Những khoảng khác tùy theo tình hình cụ thể ...
- Chữ kí các đối tác
9.2 Link các từ điển, thư viện và kho lưu trữ:
Hầu hết các từ điển trực tuyến đều có thể tìm thấy bằng cách dùng
google và gõ đúng từ khóa. chẳng hạn: Sankrit
English Dictionary. Không phải trang WEB nào
liệt kê ở đây cũng đều tốt. Tuy nhiên người dùng có thể lọc lựa những điều
cần thiết từ đây
9.2.1 Từ điển thông thường:
9.2.2 Từ điển Phật học
9.2.3 Thư viện và kho lưu trữ Phật học
Namo Buddhaya. Namo Dharmaya. Namo Sangaya
Mọi công đức xin hồi hướng đến tất cả chúng sinh hữu tình
cư sĩ Làng Đậu kính bút.
Chú thích:
1. Xem thêm loạt bài Khai Thác Search Engine Cho Nhu Cầu Học Tập và
Nghiên Cứu của cùng tác giả qua các link
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao1.htm
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao2.htm
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao3.htm
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao4.htm
2. Cũng còn tùy kĩ năng của người dùng, chẳng hạn có thể kiểm lại cách
đánh dấu hỏi ngã bằng cách xem số trang (hit) có dùng chữ đó thông qua máy
truy tìm
3. Có nhiều kinh điển nhắc đến nguyên tác này. Trong đó có Kinh Điển cổ là
"Tăng Nhất A Hàm" phẩm Tăng thương Kinh số 4.
http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm
4. Tứ Pháp Y được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālacakra, nó
cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn
trong Tattvasaṃgraha, do D. Shastri biên
tập (Vārāṇasī: Bauddhabharari, 1968), k.
3587
5. Xem thêm "Buddhist Epistemology: (Contributions in Philosophy) của S.
R. Bhatt và Anu Mehrotra ISBN 0313310874
Hay: "Nhân Minh Luận" của Thích Đổng Quán NXB Thành Phố Hồ chí Minh.
1996
6. Đây chỉ là tên đặt tạm, nội dung của bốn nguyên lý này được nhắc đến
trong quyển "The Four Noble Truths" (ISBN 0722535503) chương II The Truth
of Suffering phần Karma and the Naltuaral World. Ngài có chỉ ra
thí dụ áp dụng trong phân tích Phật giáo. Ngoài ra, người đọc có thể tham
khảo thêm cách sử dụng chi tiết để phân tích các nguyên lý này qua bài luận
"Afterword: Buddhist Reflections" (http://www.alanwallace.org/BuddhistRefls.pdf)
của học giả B. Alan Wallace.
7. Xem thêm tác phẩm "Appearance & Reality: The
Two Truths in the Four Buddhist Tenet Systems" của GS Guy Newland ISBN:1559391316
đã được Lê công Đa dịch Việt (http://www.thuvienhoasen.org/sactuongvathattuong-00.htm)
8. Ở đây tạm định nghĩa "chữ Anh hóa" tức là những thuật ngữ du nhập từ
tiếng Anh .
9. Đây chỉ là thí dụ có thể không phù hợp hoàn toàn với trường hợp cụ
thể của một bài dịch riêng biệt.
Tài Liệu Tham Khảo Chính:
1.Khai Thác Search Engine Cho Nhu Cầu Học Tập và Nghiên Cứu . Võ
Quang Nhân. tháng 7 năm 2004
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao1.htm
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao2.htm
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao3.htm
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/tinhoc/thamkhao4.htm
2. Kinh Tăng Nhất A Hàm. Hán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà. Việt
dịch: Thích Đức Thắng. PL 2549.
http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm
3. "Nhân Minh Luận" của Thích Đổng Quán NXB Thành Phố Hồ chí Minh. 1996
4. "The Four Noble Truths". His Holiness the Dalai Lama 14.
Thorsons. 1998. ISBN 0722535503
5. "Nagarjuna's Seventy Stanzas: A Buddhist Psychology of Emptiness".
David Ross Komito and Nagarjuna. Snow Lion Publications. 1999. ISBN
0937938394
6. "Consciousness at the Crossroads: Conversations with the Dalai Lama
on Brainscience and Buddhism" . B Alan Wallace, Zara Houshmand, and
Robert Livingston. Ithaca, NY: Snow Lion, 1999.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Võ Quang Nhân
|