Con người
hôm nay và
con người
hôm qua –
con người
của ngàn xưa
– dường như
không khác
nhau là mấy.
Cởi bỏ lớp
vỏ bọc văn
minh vật
chất, con
người
ấy, dẫu hình
hài có thanh
tú mỹ lệ hơn
con người
ban sơ,
nhưng nỗi
khắc khoải
vẫn còn
nguyên vẹn.
Vẫn còn đấy
niềm băn
khoăn muôn
thuở: con
người, mi là
ai? Một
nhà thơ nào
đó đã từng
òa khóc cho
thân phận
con người
trong cảnh
thương hải
tang điền: «Ta
là ai giữa
mùa thay đổi
ấy?»
Hoặc như thi
nhân Trần Tử
Ngang
(651-702)
đời Đường đã
chua xót
ngậm ngùi:
Nhìn phía
trước người
xưa vắng vẻ,
Ngoảnh về
sau quạnh
quẽ người
sau.
Ngẫm hay
trời đất dài
lâu,
Mình ta
rơi giọt lệ
sầu chứa
chan.
[1]
Và chúng ta,
ắt cũng có
lần nào đó
đã từng ngao
ngán như
Nguyễn Gia
Thiều
(1741-1798):
«Tuồng ảo
hóa đã bày
ra đấy,
Kiếp phù
sinh trông
thấy mà đau;
Trăm năm còn
có gì đâu,
Chẳng qua
một nấm cỏ
khâu xanh
rì.»
Hóa ra đời
người là vô
nghĩa sao?
Chúng ta đều
nhìn nhận
rằng con
người đã và
đang tiến
hóa, kể từ
thuở là con
người tinh
khôn (homo
sapiens) của
Đệ Tứ Nguyên
Đại. Cuộc
tiến hóa ấy
có định
hướng chăng?
Nếu có, ta
khoan nói về
cái viễn
đích
(telefinal)
xa xôi ấy,
mà hãy tạm
nhận thấy về
cơ bản đó là
con vật, một
con vật
thượng đẳng
biết tư duy
mà người
Đông Phương
chúng ta
mệnh danh là
«linh ư vạn
vật» (tinh
khôn hơn vạn
vật). Con
vật ấy có
tính xã hội,
và vì vậy
trong cuộc
cộng sinh,
con vật ấy
đã biết
thích ứng
với
nhau, biết
chế ngự bản
năng cầm
thú, để được
tiến hóa
thành con
người văn
minh hiện
nay. Thế
nhưng con
người thực
sự đã thuần
hóa được cái
con thú man
rợ luôn chực
nhe răng gầm
gừ trong cõi
lòng mình
không?
 |
Khổng
Tử
(551-479
tcn) |
2500 năm
trước,
Khổng Tử,
người được
mệnh danh là
Vạn Thế Sư
Biểu 萬世師表
(khuôn mẫu
cho vạn đời
sau bắt
chước), đã
từng quan
niệm về cái
con người xã
hội ấy.
Trong xã
hội, có
những hạng
người sống
thuần bằng
bản năng như
loài cầm
thú. Đó là
những người
phàm phu tục
tử, là những
kẻ hạ cấp
xét về
phương tiện
đạo đức phẩm
cách.
Những kẻ
này, theo
Nho giáo,
đều gọi là
tiểu nhân 小人
dù rằng kẻ
ấy có chiếm
giữ địa vị
cao và giàu
có trong xã
hội chăng
nữa. Nếu
tiểu nhân là
người thô
lậu, sống
thuần vào
bản năng,
thì ngược
lại, quân tử
君子 là người
tiến hóa,
biết khắc
phục bản
thân, hiểu
mệnh trời,
hiểu đạo lý
và biết định
mệnh con
người là gì.
Những đặc
tính của kẻ
tiểu nhân
thì tương
phản rõ rệt
với những
đặc tính của
người quân
tử. Nhưng
tiểu nhân và
quân tử
không phải
là hai mặt
đối lập
nhau, không
phải là hai
cực đoan, mà
quân tử là
giai đoạn
tiến hóa của
tiểu nhân.
Không có
tiểu nhân,
thì không có
quân tử.
Quân tử và
tiểu nhân có
sự tương
đồng, ấy là
họ đều có
cái Thiên
Tính trong
người. Cái
tính ấy trọn
sáng trọn
lành, nó
hướng đạo
con ngưòi
làm điều
thiện, điều
phải. Con
người vì bị
vật dục che
khuất lương
tri nên mới
có phân biệt
kẻ ác người
thiện. Nho
gia từng
nói: «Người
ta ai cũng
giống nhau
vì có bản
tính lành,
nhưng do tập
nhiễm thói
xấu nên họ
mới khác xa
nhau.»
[2]
Còn Mạnh Tử
thì bảo:
«Cái chỗ con
người khác
với cầm thú
thật không
xa mấy. Kẻ
thứ dân thì
bỏ mất sự
sai biệt ấy,
còn người
quân tử thì
biết bảo tồn
nó.»
[3]
Rõ ràng,
giữa con
người và cầm
thú phải có
sự phân định
khu biệt,
nhưng kẻ
tiểu nhân đã
bỏ mất sự
sai biệt ấy
cho nên vẫn
còn đồng hóa
mình với cầm
thú, và cư
xử theo bản
năng thấp
hèn. Người
quân tử thì
biết bảo tồn
sự sai biệt
ấy, để vượt
lên trên
loài cầm
thú, để khắc
phục bản
năng thú
cầm. Chẳng
hạn bản năng
ăn uống, sự
đói và khát
có thể làm
hại tâm (đói
ăn vụng,
túng làm
càn), nhưng
người ta có
thể ngăn
chặn mối
nguy hại đó.
Thà đói khát
chứ không
làm điều sai
quấy. Mạnh
Tử nói: «Nếu
người ta có
thể ngăn cản
mối hại của
đói khát
đừng hại lây
đến lòng dạ
mình, như
vậy dẫu mình
chẳng bằng
người nhưng
lòng mình
chẳng lo
buồn.»
[4]
Người ta rất
dễ dàng nhận
ra đâu là
tiểu nhân,
đâu là quân
tử. Toàn bộ
Tứ Thư (Đại
Học, Trung
Dung, Luận
Ngữ, Mạnh
Tử), cho đến
Kinh Thi và
Kinh Dịch
phần lớn đều
đề cập đến
đức hạnh của
bậc quân tử.
Nếu chưa
được tài đức
đó thì họ
vẫn còn là
tiểu nhân.
Người quân
tử thì chú
trọng vào
nghĩa, kẻ
tiểu nhân
chú trọng
vào lợi.[5]
Tiểu nhân
chỉ lo trau
chuốt bề
ngoài, trọng
hư danh, lời
lẽ xảo trá.
Sở dĩ như
vậy vì họ
mong dối gạt
người. Họ sợ
người khác
phê phán nên
phải tạo cái
vỏ bọc đó để
che đậy lòng
dạ xấu xa.
Còn quân tử
hiểu giá trị
của mình (dù
ai không
biết, không
hiểu mình
cũng không
sao)
[6]
nên tự trông
cậy vào
chính mình.
Tiểu nhân
thường kiêu
căng hợm
hĩnh nhưng
trong lòng
không bao
giờ thư
thái, còn
quân tử lòng
dạ thư thái
mà không
kiêu mạn.
Tiểu nhân
thích a dua
bè đảng cho
nên dẫu
chung đụng
với mọi
người nhưng
luôn tạo mối
bất hòa.
Quân tử thì
ngược lại,
dẫu chung
đụng với
nhiều người
nhiều tầng
lớp nhưng
luôn giữ hòa
khí. Quân tử
là người
nhân nghĩa
nên lúc nào
cũng cảm
thấy an tâm
thư thái,
tiểu nhân
thì ngược
lại. Quân tử
làm cho
người được
tốt đẹp,
tiểu nhân
chỉ mong
gieo điều ác
cho người.
Tiểu nhân mà
nắm vận mệnh
quốc gia,
quả là đại
họa. Quân tử
có hoài bão
cao đẹp,
tiểu nhân
thì không.
Kinh điển
Nho giáo dạy
chúng ta con
đường tiến
hóa từ tiểu
nhân thành
bậc quân tử.
Nội chỉ đọc
riêng quyển
Luận Ngữ
thôi, ta có
thể trích
dẫn vô số
câu nói của
Khổng Tử về
quân tử. Và
có thể hình
dung một con
người tiến
hóa gọi là
quân tử.
Quân tử là
người biết
mục đích cao
cả của kiếp
người, biết
cái Thiên
Mệnh mà trời
trao cho con
người, nghĩa
là biết cái
viễn đích
tối hậu của
nhân sinh.
Người quân
tử có thể
tóm ở mấy
chữ: Nhân,
Trí, Dũng,
Lễ, Nghĩa,
Trung, Tín,
Thành, Hiếu
Đễ, Khoan
Thứ, Tự
Cường, Hiếu
học, Chuyên
Cần (chuyên
cần bất tức
= siêng năng
không
ngừng),
v.v...
Vì Nhân (bác
ái) nên lòng
yêu người
tỏa khắp,
mong muốn
người khác
cũng được
hạnh phúc.
Vì yêu
thương nhân
loại, nên
lòng khoan
dung độ
lượng thứ
tha. Không
nhớ lỗi lầm
của người
khác, mà chỉ
chú trọng
giáo hóa họ
nên người.
Vì Trí nên
biết khôn
ngoan suy
xét điều
phải điều
trái, biết
minh triết
bảo thân
trong cảnh
nguy nan,
biết biện
biệt, kẻ xấu
người tốt
trong vấn đề
xử lý tiếp
vật. Nếu lỡ
giao du với
kẻ xấu, thì
phải tuyệt
giao với họ
nhưng không
nói xấu cho
họ.[7]
Vì Dũng nên
không biết
sợ sệt là
gì. Thấy
việc nghĩa
bèn ra tay
hành động.
Nếu đã hành
động thì
phải thiết
thực chứ
không chỉ ở
lời nói
suông.
Vỉ Lễ nên
giữ được hòa
khí, nên
trong nhà
chẳng ai
ghét, trong
xã hội chẳng
ai oán mình.
Giữ được lễ
nên trong
việc giao
tiếp với
người tránh
được sỗ
sàng, dù
giao du đã
lâu. Trong
việc lễ, quý
nhất là ở
lòng thành
chứ không
phải hình
thức xa hoa
lòe loẹt.
Khắc kỷ,
phục lễ cũng
gọi là nhân
vậy. Phục lễ
nên tự chủ,
không tranh
chấp với ai,
tuy hợp quần
với người
nhưng không
kéo bè kết
đảng.
Vì Nghĩa nên
luôn giữ sự
công chánh,
chẳng tranh
giành với
ai. Mỗi khi
thấy món lợi
thì nghĩ đến
điều nghĩa
mà xét có
nên thu nhận
chăng? Nghĩa
là gì ?
Chẳng qua là
công ích và
lẽ phải, cho
nên quân tử
không từ nan
làm việc gì
dù lớn dù
nhỏ, miễn là
việc ấy hợp
nghĩa. Điều
phi nghĩa đã
đành không
phạm, nhưng
chính trong
ý nghĩ cũng
không được
tơ tưởng đến
nó. Người
quân tử dù
nghèo, vẫn
an vui cảnh
nghèo, không
vì cùng khốn
mà làm điều
phi nghĩa.
Đã nghèo
nhưng không
oán than.
Đối với
người cầm
quyền, nếu
họ sai lạc
(làm điều
phi nghĩa)
thì người
quân tử dũng
cảm can gián
không sợ
mích lòng,
thà vậy còn
hơn là xu
phụ dối gạt
họ.
Vì Trung nên
giao du với
bằng hữu thì
hết lòng,
làm việc cho
người thì
hết dạ. Vì
trung nên
làm việc cho
ai hoặc
phụng sự ai
thì hết
lòng, không
phản bội.
Nhưng cái
Trung đó
không phải
là lòng
trung máy
móc và thiển
cận (ngu
trung). Bậc
quân tử ngay
cả lúc phụng
sự vua đâu
phải vì cá
nhân nhà
vua, mà
chính vì lẽ
Đạo. Nếu vua
mà vô Đạo
thì trung
làm gì.[8]
Bậc quân tử
vì chữ Tín
mà hành xử.
Tín là tin
mình, tin
người. Nhờ
chữ Tín đó
mà thành
Người. Vì tự
tin vào mình
nên dù ai
không biết
tài đức của
mình, mình
cũng không
buồn không
oán. Tự tin
vào tài đức
của mình,
càng ngày
càng trau
dồi, để một
mai kinh
bang tế thế,
bấy giờ
người biết
mình cũng
không muộn.
Vì có tin
nhau nên
việc mới
thành tựu,
người mà
không tín
thì không
biết ra thế
nào.
Người quân
tử cốt yếu
là ở lòng
Thành. Nhờ
lòng thành
ấy mà người
khác mới tin
tưởng mình.
Những lễ lạc
cũng chủ yếu
là ở lòng
thành chứ
không phải
hình thức xa
hoa lòe
loẹt.
Quân tử đã
Hiếu lại còn
Đễ. Hiếu là
cái đạo đối
với phụ mẫu.
Đễ là cái
đạo đối với
anh chị em.
Đó là kính
những người
cha mẹ đã
tôn trọng,
yêu những
người cha mẹ
đã yêu mến,
thờ cha mẹ
lúc chết
cũng như
sống, lúc
cha mẹ mất
mà tưởng như
hãy còn, ấy
là chỉ hiếu
vậy. Cái Đạo
đối với anh
chị em là
mỗi người
phải ăn ở
đúng phận
mình, anh ra
anh, em ra
em. Đễ là gì
? Chẳng qua
là đạo phụng
sự huynh
trưởng. Theo
Nho giáo,
hiếu đễ là
đầu mối của
lòng nhân
(bác ái) nếu
ta chẳng yêu
cha mẹ ta,
chẳng tôn
kính anh em
ta mà bảo
rằng yêu mến
tôn kính
người và cha
mẹ người
khác, đó là
lừa bịp vậy.
Khoan thứ là
lòng bao
dung quảng
đại của bậc
quân tử. Bởi
lẽ tiểu nhân
là «quân tử
chưa thành
và sẽ
thành», cho
nên người
quân tử chú
trọng giáo
hóa tha nhân
hơn là ghét
bỏ họ. Quân
tử không
tưởng nhớ
lỗi lầm của
người khác.
Người ta
phạm điều
ác, bởi lẽ
không nhận
ra cái ranh
giới phân
định giữa
con người và
cầm thú. Bậc
quân tử
không những
nhìn ra cái
ranh giới ấy
mà còn giáo
hóa tha nhân
để họ phân
biệt được
cái ranh
giới ấy và
vươn lên cao
hơn loài cầm
thú bằng
cách khắc
phục bản
năng tự
nhiên. Quân
tử khoan thứ
cho người,
nhưng không
khoan thứ
cho mình.
Lúc nào cũng
phải quán
xét để tu
thân, nếu
mình có lỗi
phải can đảm
cải hối.
Việc tu thân
đó luôn luôn
bền bĩ gắng
công, không
biết mệt
mỏi.
Quân tử muốn
tu thân thì
phải hiếu
học. Ham học
hỏi nghiên
cứu thì sẽ
khôn ngoan
hiểu biết.
Hễ học thì
phải thực
hành. Cái
việc học tập
của người
quân tử cũng
giống như
công việc
của người
thợ làm
ngọc, luôn
luôn mài dũa
trau chuốt
mới có ngọc
quí.
Cái học của
người quân
tử là đem ra
giúp dân
giúp nước,
kinh bang tế
thế. Cho nên
khi người
quân tử cầm
quyền thì
tôn chỉ phải
là cải tạo
con người và
cải tạo xã
hội. Cải tạo
con người để
xã hội hoàn
thiện hơn,
đồng thời
cải tạo xã
hội để con
nguời được
hạnh phúc
hơn. Đó là
hai công
việc song
hành và phải
được tôn
trọng như
nhau. Cho
nên bậc cai
trị phải
luôn tu thân
mới đủ tư
cách dẫn đạo
dân chúng.
Nhờ tu thân
mà tâm hồn
trong sạch,
tác phong
hợp lễ, đạo
đức tràn
đầy. Nhà cai
trị lẫn nhân
dân đều phải
xem việc tu
thân làm
gốc.
 |
Mạnh Tử
(372-289
tcn) |
Bậc cai trị
phải có lòng
nhân, tức là
phải yêu
thương dân,
vui cái vui
của dân và
lo cái lo
của dân.
Thực ra là
phải lo
trước cái lo
của dân và
vui sau cái
vui của dân.
Bậc cai trị
phải lấy dân
làm gốc và
phải tâm
niệm lời của
Mạnh Tử
rằng: «Quý
nhất là dân,
sau đó là
quốc gia, và
thấp nhất là
nguời cai
trị.» (Dân
vi quý, xã
tắc thứ chi,
quân vi
khinh
民為貴社稷次之君為輕
). Cho nên
người cai
trị phải mưu
cầu hạnh
phúc cho
nhân dân.
Muốn vậy,
phải biết
trọng hiền
tài, vời họ
ra giúp dân
giúp nước.
Nếu không
tin vào bậc
hiền
tài thì nước
trống không,
nếu không có
lễ nghĩa thì
nước sẽ
loạn. Nhờ
chính sách
chiêu hiền
đãi sĩ, kẻ
sĩ trong
nước không
bỏ nước mà
đi, kẻ hiền
tài ở xa xôi
hâm mộ mà
quy phục,
như vậy quốc
gia mới mau
phú cường,
nhân dân mới
chóng hạnh
phúc. Đã
dùng người
hiền tài thì
phải trao
thực quyền
cho họ, đừng
khiến cho họ
chỉ có hư
vị. Và thận
trọng đừng
chọn lầm mà
khiến kẻ
tiểu nhân ti
tiện vượt
lên trên
người tôn
quý (quân
tử).
Một chính
quyền tốt
phải áp dụng
nhân trị 仁治
(dùng nhân
đức để thu
phục người
dân), nếu
dùng bạo lực
cường quyền
thì dân bất
đắc dĩ phải
tuân theo
nhưng lòng
dân chẳng
phục. Như
vậy Nho giáo
quan niệm
rất rõ ràng
về con người
xã hội. Mỗi
cá nhân
chính là
phần tử bất
khả phân của
xã hội. Cho
nên mỗi cá
nhân phải có
trách nhiệm
với xã hội.
Rõ ràng cuộc
sống con
người đâu
phải là rỗng
tuếch vô vị,
một mặt con
người phải
tự cải tạo
mình (tu
thân). Chính
sự tự cải
tạo đó đưa
con người
đến một giá
trị tôn quí
siêu việt
hơn cầm thú.
Và chính sự
cải tạo đó
là nguồn gốc
của văn
minh. Nhưng
mặt khác,
con người
phải cải tạo
xã hội, bằng
cách cải tạo
lẫn nhau,
sao cho
những con
người chỉ
biết sống
bằng bản
năng (tiểu
nhân) tiến
hóa lên con
người văn
minh (quân
tử). Nếu
được vậy,
thiên hạ
thái bình.
Trở lại vấn
đề đã nêu ở
trên: Sự
tiến hóa của
con người rõ
ràng trước
mắt là làm
cho xã hội
hoàn thiện
hơn, hạnh
phúc hơn.
Nhưng sự
tiến hóa ấy
còn đi về
đâu nữa ? Sự
tiến hóa ấy
rõ ràng là
có định
hướng vậy
cái viễn
đích
(telefinal)
xa xôi tối
hậu ấy là
gì?
Theo quan
niệm của Nho
giáo, con
người không
chỉ là con
người xã hội
(tiểu nhân
và quân tử)
mà còn là
con người
siêu xuất xã
hội. Con
người siêu
xuất ấy gọi
là Thánh
Nhân. Thánh
Nhân cũng là
con người
như chúng
ta, nhưng
Thánh Nhân
cũng vượt ra
khỏi đồng
loại, siêu
xuất trên xã
hội người
đời, và là
kẻ siêu quần
bạt tụy.[9]
Thánh Nhân
là người đạt
Đạo, là Trời
được nhân
cách hóa
(tức là đã
Phối Thiên
配天 = phối
hợp với
Trời).
Nho giáo
không chỉ là
cái nhân đạo
thực tiễn,
mà còn là
cái đạo học
siêu hình,
và điều này
được nói rõ
chủ yếu
trong Trung
Dung. Theo
Trung Dung,
cái bản tính
con người
chính là
mệnh trời
(Thiên mệnh
天命) và Đạo
là gì? Chẳng
qua là noi
theo Tính
(suất Tính
率性).[10]
Tính là hoàn
thiện quang
minh (Trung
Dung, chương
21). Mệnh
vừa Thiên
Mệnh, vừa
Nhân Mệnh.
Muốn hiểu
được Mệnh
Trời phải am
tường bản
tính. Và
định mệnh
con người là
phải am
tường bản
tính đó.[11]
Vậy Mệnh
Trời là muốn
ta tìm được
bản thể của
mình, theo
tiếng gọi
lương tâm,
phục tòng
thiên lý để
kết hợp với
Trời (Phối
Thiên) và
Thánh Nhân
đã đạt được
điều đó.
Như vậy
trong cái
nhìn của Nho
giáo, con
người không
phải đơn
thuần là con
vật hai
chân. Cái
sinh vật ấy
tiềm ẩn
trong lòng
Thiên Tính
cao đẹp,
toàn thiện
toàn mỹ. Nếu
cái Thiên
Tính ấy chưa
được nhận
chân, con
người vẫn
tương đồng
với cầm thú
(tiểu nhân).
Nhận ra cái
Thiên Tính
ấy và tu tập
để nâng cao
phẩm giá con
người, để
thành con
người tiến
hóa thì gọi
là quân tử.
Nhưng định
mệnh con
người không
dừng lại ở
chỗ ngôi vị
quân tử (dù
rằng vô cùng
gian nan khó
nhọc mới đạt
được ngôi vị
này) mà còn
tiến hóa tới
cái viễn
đích là Phối
Thiên (phối
hợp với
Trời), và đó
là ngôi vị
Thánh Nhân,
một con
người siêu
quần bạt
tụy.
Thành quân
tử đã khó,
thành Thánh
Nhân lại
càng khó
thay. Theo
quan niệm
Mạnh Tử, cứ
500 năm mới
có một Thánh
Nhân ra đời.
Thôi thì
chúng ta hãy
tạm gác lại
quan niệm về
con người
siêu xuất xã
hội này, mà
hãy nhìn lại
con người xã
hội theo Nho
giáo.
Quả thực,
cái «con
người cho
thật con
NGƯỜI»
mà chúng ta
đang ao ước
và mệnh danh
là «con
người hạnh
phúc, văn
minh, lịch
sự, toàn
thiện, toàn
mỹ» chẳng
qua là con
người quân
tử mà 2500
năm trước,
Khổng Tử đã
nói.
Học giả Mỹ
James R.
Ware trong
quyển bình
dịch về Luận
Ngữ
của ông, đã
mệnh danh đó
là lời giáo
huấn của bậc
đại thánh
nhân Trung
Hoa (the
Teachings of
China’s
Greatest
Sage) và ông
nhận xét
rằng: «Việc
nghiên cứu
chuyên cần
Luận Ngữ có
thể giải
quyết vấn đề
đạo đức sâu
thẳm của
người Tây
phương. Đọc
Khổng Tử có
thể giúp ta
xác định lại
những niềm
tin tôn giáo
truyền
thống, đồng
thời cũng
giúp ta nhận
thức lại giá
trị tình cảm
và lý tưởng
con người.»
[12]
Xin mượn lời
trên để kết
thúc bài
viết này.
●
LÊ ANH
MINH
Bài viết đã
đăng tạp chí
Văn Hóa &
Đời Sống,
Nxb Tp HCM,
tháng
5-1991.
Sách tham
khảo chính
1.
Chiêm Bình,
Tứ thư
tường giải,
Đài Loan,
1964.
2.
James Legge
dịch, Tứ
thư (Four
Books),
Hương Cảng.
3.
Trần Trọng
Kim, Nho
Giáo,
Trung Tâm
Học Liệu xb,
Saigon,
1971.
4.
Phan Bội
Châu,
Khổng Học
Đăng,
Khai Trí xb,
1973.
5.
Phan Bội
Châu, Chu
Dịch,
Khai Trí xb.
6.
H.G. Creel,
Confucius
and the
Chinese Way,
1960.
7.
H.G. Greel,
Chinese
Thought from
Confucius to
Mao tse Tung,
1964.
8.
J.R. Ware,
The
Sayings of
Confucius
(Luận Ngữ),
1960.
9. J.R.
Ware, The
Sayings of
Mencius
(Mạnh Tử),
1960.
● Chú thích
[1]
Lê
Anh Minh
dịch. Nguyên
văn: «Tiền
bất kiến cổ
nhân / Hậu
bất kiến lai
giả / Niệm
thiên địa
chi du du /
Độc sảng
nhiên nhi lệ
hạ.» 前不見古人 /
後不見來者 /
念天地之悠悠 /
獨愴然而淚下 (Đăng
U Châu Đài
Ca
登幽州台歌)
[2]
Nhân
chi sơ, tính
bản thiện,
tính tương
cận, tập
tương viễn.
人之初 性本善 性相近
習相遠 (Tam Tự
Kinh 三字經)
[3]
Nhân
chi sở dĩ dị
vu cầm thú
giả kỷ hi,
thứ dân khử
chi, quân tử
tồn chi.
人之所以異于禽獸者几希﹔
庶民去之,君子存之。(Mạnh
Tử
- Ly Lâu
hạ,
ch. 19)
[4]
Nhân
năng vô dĩ
cơ khát chi
hại vi tâm
hại, tắc bất
cập nhân,
bất vi ưu
hĩ.
人能無以飢渴之害為心害,則不及人不為憂矣
(Mạnh Tử -
Tận tâm
thượng)
[5]
Quân
tử dụ ư
nghĩa, tiểu
nhân dụ ư
lợi
君子喻於義小人喻於利.
Luận Ngữ,
4.16.
[6]
Nhân
bất tri nhi
bất oán
人不知而不怨. Luận
Ngữ, 1-1.
[7]
Quân
tử giao
tuyệt, bất
xuất ác
thanh.
君子交絕不出惡聲.
[8]
Điều
này Khổng Tử
đã lý giải
khi nói về
Quản Trọng.
Luận Ngữ,
14-18.
[9]
Thánh nhân
chi ư dân,
diệc loại
dã. Xuất ư
kỳ loại, bạt
hồ kỳ tụy.
聖人之於民亦類也出於其類拔乎其萃
(Mạnh Tử -
Công Tôn Sửu
thượng)
[10]
Thiên
mệnh chi vị
tính, suất
tính chi vị
Đạo.
天命之謂性率性之謂道.
Trung Dung,
chương 1
[11]
Bất
tri mệnh, vô
dĩ vi quân
tử dã
不知命無以君子也 (chẳng
hiểu mệnh
trời thì
không đáng
gọi là quân
tử).
Luận Ngữ,
20-3.
[12]
James
Ware, The
Sayings of
Confucius,
Mentor
Books, 1960.
p.17:
«Diligent
study of
The Sayings
of Confucius
can help
solve the
profound
moral
problem of
the West.
Reading
Confucius
may enable
us to
restate our
own
traditional
religious
beliefs and
help us to
realize
again the
value of
emotion and
idealism to
all men.»

CHÍ THÁNH TIÊN SƯ
|