
Adam Smith đã lập ra nền tảng của môn
kinh tế chính
tri học (
économie politique, theo ngôn ngữ của ông), hay,
với người đời nay ghét hai từ
chính trị, chỉ
mê khoa
học thôi, của
những khoa học kinh tế (sciences
économiques) hoặc kinh tế học.
Một số khái niệm của ông và quan điểm của ông về vai
trò của
thị trường vẫn còn là nguyên lý trong những lý thuyết
kinh tế
tân tự do (néolibéral), tân cổ điển (néoclassique) đã
và đang thống trị tư duy kinh tế của nhân loại.
Tuy vậy, dường như không ai thèm dạy tận gốc, chi ly và
đầy đủ, học thuyết kinh tế của ông. Hồi tôi còn xách cặp tới trường,
yêu quê hương kinh tế qua từng trang lý thuyết nhỏ, tôi có được nghe
thầy nhắc tới tên Adam Smith trong vài… câu ! Hôm nay, xét cho cùng,
không khó hiểu. Đào sâu tư tưởng của ông, tìm hiểu nó, so đo nó với
nghiệm sinh và kiến thức mà loài người đã có được trong lĩnh vực này
từ thời ông tới nay, một cách tỉnh táo và phê phán, có lắm vấn đề
không vui tí nào. Nói chung, các thầy cấu và dùng lại hai ý, như
nguyên lý không cần phải bàn :
a/ giá trị – lao động (
valeur–travail)
b/ Ngoài vài trường hợp đặc biệt, như vấn đề an ninh
quốc gia chẳng hạn, Nhà nước không nên can thiệp vào sự vận động
tự
nhiên của thị trường, cứ để cho nó
tự điều tiết, đó là
đường lối kinh tế chính trị đúng đắn và hiệu quả nhất. Trong sự vận
động tự nhiên ấy, mỗi cá nhân chỉ đeo đuổi mục đích ích kỷ của mình
thôi, không ai quan tâm tới lợi ích chung của xã hội. Thế mà sự cạnh
tranh giữa họ sẽ khiến toàn bộ xã hội đạt khả năng sản xuất và làm
giàu tối ưu, cứ như thể thị trường có một
bàn tay vô hình hướng
dẫn mọi người đều đi tới mục đích ấy.
Báo Le Monde và nxb Flammarion tái bản quyển
La
richesse des nations,
Sự giàu có của các quốc gia, bán với giá 4,90 € ở quầy báo ! Ôi,
một tác phẩm quý đến thế này mà trị giá có bấy nhiêu thôi ! Trí tuệ là
tài sản chung của nhân loại, không là một ý tưởng hão khi luật Pháp
cấm tư hữu hoá nó… Nhân dịp này, ta thử ghi nhớ vài đóng góp quý báu
của Adam Smith trong lĩnh vực tư duy kinh tế. Ghi nhớ thôi, không phê
phán vì đã có người phê phán chi li mạch lạc từ lâu rồi
và, trong lĩnh vực vừa thiết thân vừa rắc rối bậc nhất này của kiếp
người, không thể có "mì ăn liền" được, phải vắt óc toát mồ hôi hột thì
may ra mới học được đôi điều đáng học.
1/ Sự giàu có của các quốc gia là gì ?
Adam Smith là người đầu tiên khẳng định một cách dứt
khoát, toàn diện, rõ ràng và mạch lạc quan điểm này : sự giàu có của
các quốc gia không do "rừng vàng biển bạc" mà có ; nó không là gì hết
ngoài toàn bộ những sản phẩm do lao động của con người tạo ra. Nếu ta
xem nó trong khoảnh khắc 1 năm thì nó gồm :
a/ tư bản
sẵn có, nghĩa là những sản phẩm mà lao động của xã hội đã sản xuất ra
trước đó mà chưa tiêu thụ.
b/ những sản phẩm mà lao động của quốc gia (hay xã hội)
ấy đã sản xuất được trong năm.
Ở thời ông, quan điểm này quả là cách mạng. Nó vừa kế
thừa vừa phủ định mô hình kính tế của Quesnay
vì Quesnay cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra của cải cho
quốc gia.
2/ Khối lượng sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc :
a/ số người lao động được vận dụng để sản xuất trong
năm
Số người này lại tuỳ thuộc lượng tư bản sẵn có trong xã
hội : nó cho phép mua ít hay nhiều phương tiện sản xuất và trả lương
cho ít hay nhiều
thợ (
ouvriers) để lao động sản xuất.
b/ năng suất của lao động
Năng suất của lao động tuỳ thuộc mức độ phát triển của
sự phân công lao động (
division du travail).
Chính nó và sự phân công lao động khiến
thị trường
phát triển. Thị trường phát triển lại thúc đẩy sự phân công lao động
và năng suất lao động phát triển.
3/ Thước đo của giá trị trao đổi của sản phẩm
Thời gian lao động cần thiết để sản xuất sản
phẩm là thước đo
giá trị trao đổi của sản phẩm
.
Phải hiểu đó là
thời gian trung bình để sản xuất một loại sản
phẩm trong một xã hội nào đó ở một thời điểm nào đó.
Giá cả của
sản phẩm chỉ là hình thái tiền tệ của giá trị trao đổi ấy. Khi giá cả
khớp với giá trị trao đổi, Adam Smith gọi nó là
giá tự nhiên
của sản phẩm (
prix naturel). Còn những giá mà ta thấy trưng
ở cửa hàng, thường khác nhau, Adam Smith gọi chúng là
giá thị
trường, prix de marché. Giá thị trường dao động chung quanh giá tự
nhiên tuỳ tình trạng cung cầu ở từng nơi.
Et tutti quanti.
Xuyên qua
cạnh tranh, sự dao động ấy khiến cho giá thị trường
tự nó hướng tới giá tự nhiên của sản phẩm. Sự điều tiết tự nhiên của
thị trường ở đó.
4/ Nội dung cơ bản của quan hệ kinh tế tư bản
Trong chương
Des salaires du travail
(Bàn về những [hình thái] lương của lao động), Adam Smith trình
bày hết sức rõ ràng quan điểm của ông về nền kinh tế thời ông. Đọc kỹ
nó, ta hiểu liền vì sao Marx trọng tư tưởng của ông và coi ông với
Ricardo là hai người đặt nền móng cho môn kinh tế chính trị học với
tính cách một môn khoa học. Tôi xin cố dịch một mẩu, một cách chính
xác nhất mà tôi có khả năng
:
Phần thưởng tự nhiên của lao
động, hay lương của lao động, chính là sản phẩm do lao động tạo ra.
Trong trạng thái nguyên thuỷ ấy, có từ trước khi có sự chiếm hữu
đất đai và sự tích luỹ tư bản, toàn bộ sản phẩm của lao động thuộc
về người thợ (ouvrier, nghĩa thực là : người lao động). Người
ấy không phải chia chác với chủ sở hữu (propriétaire)
hay chủ (maître).
Nếu trạng thái ấy đã tiếp tục
tồn tại tới ngày nay thì lương của lao động đã tăng cùng với sự tăng
trưởng của năng suất lao động do sự phân công lao động tạo ra.
Mọi sản phẩm đã từ từ trở thành càng ngày càng rẻ.
[…]
Nhưng trạng thái nguyên thuỷ
trong đó người thợ hưởng toàn bộ sản phẩm do lao động của nó tạo ra,
đã không tồn tại vượt qua thời đại sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ
tư bản đi vào xã hội. Thế thì trạng thái ấy không còn nữa từ lâu, khi
năng suất lao động đã đạt một mức hoàn hảo cao, và ta không nên mất
thời giờ tìm hiểu xem hậu quả trên phần thưởng hay lương lao động sẽ
thế nào trong trạng thái ấy.
Ngay khi đất đai trở thành tư
hữu,
chủ đất liền đòi hỏi cho mình hầu hết những sản phẩm mà người lao động
có thể nuôi trồng và gặt hái được ở đó. "Địa tô" (tiền thuê đất) của
nó là phần phải trừ đi đầu tiên mà lao động ứng dụng vào đất
phải chịu đựng.
Rất ít khi con người cày đất
có sẵn những gì cần thiết để sống cho tới ngày gặt hái. Thông thường,
một ông chủ trại (fermier), người dùng nó, trên vốn tư bản của
mình, cho nó vay những đồ tiêu dùng [để tồn tại và lao động cho tới
ngày gặt hái], và ông chủ ấy chẳng có lý do gì để làm việc ấy nếu việc
ấy không cho phép ông thu một phần sản phẩm do lao động của nó tạo
ra, hay nếu vốn tư bản mà ông ấy đã ứng ra không được hoàn
lại với một món lời. Món lời ấy là phần cắt xén thứ hai trên
sản phẩm của lao động vận dụng vào đất đai.
Sản phẩm của hầu hết mọi
lao động khác đều bị ăn xén như thế để trả tiền lời.
Sản phẩm của hầu hết
lao động nào khác đều bị cắt xén như thế để thanh toan món lời cho
tư bản. Trong mọi ngành nghề, trong mọi xí nghiệp (fabriques),
đa số thợ cần có một ông chủ sẵn sàng ứng cho họ phương tiện vật chất
để lao động, cũng như lương và nhu yếu phẩm của họ để sống, cho tới
khi sản phẩm của họ hoàn thiện. Người chủ ấy lấy một phần sản phẩm
của lao động của họ hay giá trị mà lao động ấy đã thêm vào vật thể mà
nó tác động vào [để biến vật thể ấy thành hàng hoá có thể trao đổi
được] và chính cái phần ấy làm ra lời của họ.
Tóm lại, thế này :
A/ Thế nhìn của chủ đất và
của chủ tư bản :
Tôi là chủ đất, là chủ tư bản.
Anh muốn lao động sản xuất để sống "ngày càng khá hơn" thì anh phải
nộp tô nộp lời cho tôi ngày càng nhiều hơn.
Khi bản thân anh "chủ tư bản"
không có vốn, chỉ có tài kinh doanh thôi (tư bản chức năng), anh ấy có
thể vay vốn tư bản của người khác (tư bản sở hữu) để kinh doanh và
phải chia chác một phần tiền lời (nếu có !) với anh tư bản sở hữu.
Phần đó gọi là
intérêt (
lãi có được do cho vay vốn).
Lãi ấy chẳng bao giờ do
sự hy sinh không hưởng thụ liền tài sản
của mình của chủ vốn hay
sự dũng cảm chấp nhận rủi ro, mà
đột nhiên hiện thực ở đời, làm gì có chuyện hão đến thế ! nó chỉ có
thể do lao động của người khác mà có thực.
Đó là chuyện ngày xưa. Ngày nay
còn có chuyện siêu hơn nữa. Những nghìn tỷ $ mà các Nhà nước tư bản đổ
ra để cứu vãn "hệ thống tài chính"
của"quốc gia" và
"quốc tế", đương nhiên phải đi vào túi của
aichứ ! Đó là
những món nợ mà bàn dân các nước ấy phải trả bằng
lao động tương
lai của mình và con em mình. Kinh tế hậu hiện đại đó ! Không chỉ
là học thuyết suông đâu…
B/ Thế nhìn của anh lao
động :
Dù sao thì không có đất hay vốn
tư bản của người khác thì mình cũng bất lực và đói nhăn răng.
C/ Kết luận của Adam Smith :
những điều ấy tự nhiên, cứ để thị trường giải quyết một
cách tự nhiên. Sẽ lợi cho mọi người.
Trước Adam Smith, chưa ai đã mô
tả một cách cụ thể, hữu lý, tính chất bóc lột sức lao động của hình
thái kinh-tế xã-hội tư bản như thế này.
Adam Smith, trong quyển sách
này, không bao giờ dùng khái niệm
bóc lột. Có lẽ, đối với ông,
khái niệm ấy không có tính chất
khoa học, vì đối với ông, đó là
một sự kiện
tự nhiên, không dính dáng gì hết với thế
giới giá trị, tâm linh của con người ? Ông thấy rất rõ rằng quan
hệ giữa chủ đất và chủ tư bản với người lao động sản xuất ra sản phẩm,
của cải hay sự giàu có của các quốc gia, là một quan hệ
cưỡng bức
để đoạt về mình một phần sản phẩm do lao động của người khác tạo ra.
Ông cũng thấy rất rõ rằng một chức năng của Nhà nước là bảo vệ quan hệ
bóc lột ấy. Ông không coi đó là
bóc lột, coi đó là
tự nhiên.
Tự nhiên
là tự nhiên, tự nó tồn tại và vận hành,
chẳng thể
nào khác được,
là sự thật,
là đối tượng của tư duy
khoa học, theo ông và không ít người khác từ xưa tới nay. Đời nó vậy
mà ! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi, đời nay, các kinh tế gia thời
thượng chỉ biết cấu vài ý tưởng của ông để lạm dụng cho mình vì chính
mình thua kém ông cả một cái đầu, dù được đội mũ "Nobel" kinh tế,
nhưng không có mấy ai nhắc lại, dạy lại toàn bộ học thuyết kinh tế của
ông.
5/ chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole)
Đã tin vào
bàn tay vô hình của
Thị trường,
tính ưu việt của
tự do cạnh tranh, Adam Smith chống mọi hình
thái độc quyền kinh doanh (
monopole). Ông chung thuỷ và nhất
quán trong tư duy của mình đến mức : ông chủ trương bãi bỏ độc quyền
kinh doanh của các đế quốc, kể cả đế quốc Anh, trong quan hệ kinh tế
của chúng với thuộc địa của chúng. Cứ như OMC ngày nay !
Ông không ý thức được rằng kết quả
tự nhiên của
cạnh tranh tự do sẽ dẫn tới sự phủ định chính nó : độc quyền. Suy luận
hình thức giới hạn ở đó. Ngày nay, trong thị trường toàn cầu hoá này,
trong những lĩnh vực cơ bản nhất của kinh tế, mơ màng tới tự do cạnh
tranh kiểu Adam Smith là chuyện hão ! Chỉ cần đếm xem, trong lĩnh vực
năng lượng dầu hoả và khí đốt, trên đời nay và trong từng quốc gia,
còn mấy người cạnh tranh với nhau thì biết.
6/ chống sự can thiệp của Nhà nước vào sự vận động
tự nhiên của thị trường
Đây có lẽ là di sản, tuy đã cũ kĩ kinh hoàng, cũ kĩ hơn
cả học thuyết kinh tế của Marx mà, có tác động nhiều nhất của Adam
Smith với tư duy kinh tế và đời sống chính trị ngày nay. Và thân phận
làm người của chúng ta trong nền kinh tế thị trường tư bản toàn cầu
hoá này.
Ông cho rằng :
a/ Sự vận động
tự nhiên của kinh tế thị trường
sẽ tự nó hướng dẫn hành động của con người đi tới mức tối ưu của nó
cho xã hội. Đây là niềm tin "khoa học" của thế kỷ Khai Sáng !
b/ Vì sao ? Ta không thể hiểu được
.
Ta chỉ có thể
tin tưởng vào
bàn tay vô hình của nó thôi.
Bàn tay ấy sẽ dẫn ta đi tới đâu,
ta chỉ biết được
sau khi đã trả giá, sau khi đã làm người không tự do,
hay đã làm người tự do phi lý trí, phi nhân tình !
Thế thì ta có quyền đặt câu hỏi này : mặc dù ông nhân
tình, điều ta quý trọng, lý trí của ông
trong vấn đề này, đáng
tin không ? Riêng tôi : không !
Mấy tháng qua ta đã và, trong những tháng năm tới, ta
sẽ trả giá không ít cho niềm tin này.
Trong tác phẩm của ông, còn vô vàn vấn đề để suy ngẫm,
không như một lĩnh vực "khoa học", mà như một thức thách làm người có
lý trí. Và, với tôi, có… tình người ! Dại thế ! Hè hè…
Đối với một người đành lang thang chữ nghĩa như tôi,
đọc lại quyển sách này tôi lại được hưởng hai điều thú vị.
A/ Adam Smith cho thấy rõ tư duy của con người lệ thuộc
chữ nghĩa mà người đời đã nhồi vào óc nó đến mức nào !
Dù có thể tôi đã nói quá
dài, tôi đã thấy rằng phải xem xét, trong mọi chi tiết của nó, niềm
tin của dân chúng cho rằng sự giàu có ở lượng tiền hay vàng bạc mà ta
có. Trong ngôn ngữ thông thường, như tôi đã từng nhận xét, có tiền
thường có nghĩa là giàu có, và sự nhập nhằng trong cách phát biểu ấy
đã khiến ý tưởng bình dân này trở thành thân thuộc với chúng ta đến
mức ngay cả những người tin chắc rằng quan điểm ấy sai, bất cứ lúc nào
cũng có thể quên nguyên lý của chính họ và bị luồng suy luận của họ
lôi kéo tới mức họ chấp nhận thành kiến ấy như một ý tưởng họ đã thu
nhập và công nhận là sự thật chắc chắn, không thể phủ nhận. Một vài
tác giả Anh hay nhất đã từng viết về thương mại, đã xuất phát từ
nguyên lý đó, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ ở lượng
vàng và bạc mà nó có, mà là ở đất đai, nhà cửa và đủ thứ sản phẩm tiêu
dùng được mà nó có. Tuy vậy, sau đó, dường như họ đã quên béng đất
đai, nhà cửa và sản phẩm tiêu dùng được, và nội dung những lập luận
của họ khiến ta nghĩ rằng sự giàu có ở lượng vàng và bạc mà quốc gia
ấy có và họ coi chuyện nhân khối lượng những kim loại quý ấy là mục
tiêu cơ bản của công nghiệp và thương nghiệp quốc gia.
Trong lĩnh vực kinh tế học, có lẽ Adam Smith là người
đầu tiên nêu ý tưởng sâu sắc này. Sau đó, có Karl Marx, sâu sắc hơn
nhiều vì chàng còn là một… triết gia ! Chẳng khoa học tí nào cả…
Nếu ta vận dụng ý tưởng của ông để xem xét "ngôn ngữ
khoa học" của chính ông, như khái niệm
tự nhiên chẳng hạn, ta
sẽ hiểu được đôi điều đáng hiểu về ngôn ngữ khoa học trong học thuyết
của ông và trong ngành kinh tế học ngày nay.
B/ Sau khi phê phán khắt khe sai lầm của François
Quesnay, ông đánh giá cống hiến của Quesnay cho môn kinh tế chính trị
học như thế này.
Mặc dù những khuyết điểm của nó,
có lẽ mô hình này, trong tất cả những gì người đời đã đăng về kinh tế
chính trị học, là mô hình gần sự thật nhất và, dưới góc độ đó, nó đáng
cho mọi người muốn tìm hiểu một cách nghiêm túc một môn khoa học quan
trọng như thế này, quan tâm. Khi ông cho rằng lao động khai thác đất
đai là lao động có tính chất sản xuất duy nhất, những ý tưởng của ông
về hiện thực có thể quá chật hẹp và giới hạn. Tuy vậy, khi ông cho
rằng sự giàu có của những quốc gia không ở lượng của cải không tiêu
thụ được như vàng và bạc mà ở những sản phẩm tiêu thụ được mà lao động
của xã hội có thể tái sản xuất mỗi năm, và vạch cho thấy rằng tự do
tuyệt đối là phương tiện duy nhất cho phép nó đạt thành quả lớn nhất,
lý thuyết của ông, về mọi mặt, đúng đắn ngang tầm vĩ đại và tinh thần
rộng lượng của nó.
Sau này, Marx đã đánh giá Quesnay như sau : Quesnay là
người đầu tiên tạo ra thế nhìn vĩ mô, tổng hợp, ở mức Nhà nước, của
hoạt động kinh tế.
Về mặt lý thuyết kinh tế, kế thừa và vượt Quesnay,
ngoài Marx, chỉ có John Maynard Keynes thôi.
Đọc khúc văn trên, tôi chạnh lòng nhớ cuộc tranh luận
giữa Sartre và Camus khi hai người, tôi đều yêu
,
đoạn tuyệt với nhau. Ôi, nhân tài thế giới đánh giá nhau như thế !
Càng quý trọng nhau, càng khắt khe, càng quyết liệt đòi hỏi tới cùng,
chẳng rào trước đón sau, xã giao tí nào. Và ngược lại !
Ngông cuồng, tôi kiến nghị với các đại học kinh tế lập
một chứng chỉ : tư duy kinh tế của Adam Smith.
Tất nhiên lại chuyện hão ! Chỉ là kẻ ngoại đạo mà dám
lếu láo đến thế thì… hết xảy !
2009-10-24