Khoa học luận, tại sao ?
Với số này xin bắt đầu một loạt bài có tựa chung là “ thế giới quan khoa học
”, và hy vọng sẽ không với tay quá trán để có thể kết thúc một ngày không
xa. Ý đồ của người viết là khảo sát và trình bày sự hình thành của tinh thần
khoa học từ cổ sơ tới thời hiện đại. Tại sao không chỉ nói đến tinh thần
khoa học hiện đại như nó đang là, mà lại đứng trên quan điểm lịch sử mà bàn
về sự hình thành của nó ? Hiển nhiên một đặc điểm của khoa học là tính phi
thời gian. Cái gì đúng cho ngày hôm nay thì vẫn đúng ba trăm năm ( hay nói
ba trăm triệu năm cũng được) trước : trái đất đã và vẫn tròn ; định lý
Pythagore và nguyên lý Archimède đúng trước khi con người phát hiện ra
chúng, và ngày nay vẫn còn hữu ích. Vậy lịch sử khoa học phải chăng chỉ có
ích cho những nhà viết... sử khoa học ?
Rõ ràng là các thành quả khoa học có tính phi thời gian,
nhưng tinh thần khoa học là điều được hình thành trong tư duy con người, và
nó có tính lịch sử. Tuy nhiên hình như việc coi nhẹ tinh thần khoa học vẫn
lẩn quất ở đâu đó trong các chương trình giáo dục: cho đến thời gian gần đây
trên cả thế giới người ta vẫn chỉ dạy và học những thành quả của khoa học,
dạy cái đúng, chứ không dạy cách làm thế nào để tìm ra cái đúng, và nhất là
làm gì để tìm ra những cái đúng cần thiết. Sự truyền bá về phương pháp tư
duy và về tay nghề này hình như chỉ được làm một cách gián tiếp, qua kinh
nghiệm của thầy, qua môi trường sống và làm việc... theo câu ngạn ngữ Pháp “
cứ rèn đi thì sẽ thành thợ rèn ”.
Tại sao vậy ? lý do hiển nhiên là thời gian eo hẹp. Cho dù chỉ phải đi xa
trên một trong rất nhiều bộ môn, quãng đời đi học của người thanh niên cứ
dài mãi ra. Năm năm hay mười năm mài đũng quần trong giảng đường đại học
cũng chỉ đủ cho hắn học hỏi những kết quả thiết yếu của mấy trăm năm tiến bộ
trong một ngành. Trong vòng trên dưới hai chục năm phải học hỏi về thành quả
của một quá trình mấy trăm năm (nếu không muốn nói là mấy nghìn năm) của cả
nhân loại, thì làm sao có thì giờ học về những mày mò của tiền nhân ? làm
sao biết họ đã sai ra sao ? cho dù câu hỏi này hiển nhiên rất có ích về mặt
phương pháp luận, vì cũng hiển nhiên là trong những mày mò của con người để
trả lời những câu hỏi thực sự mới thì sai lạc hay bế tắc là quy luật, hãn
hữu mới có một lần tương đối mới và đúng. Một lý do nữa là cái phương thức
giáo dục này cho đến nay vẫn tỏ ra hiệu quả, ít nhất trong những bộ môn trừu
tượng ít gắn liền với thực tế : “ cứ làm toán đi thì sẽ giỏi toán” vẫn đúng
với những người có khiếu. Còn không thì nên chọn nghề khác, cũng may là phần
lớn người ta chỉ thích làm những việc người ta làm được.
Tuy nhiên với phương cách giáo dục cổ điển này dễ thấy là sinh viên trong
các nước đang phát triển rất bị thiệt thòi : quả vậy, sinh viên các đại học
tại Âu Mỹ đắm chìm trong một môi trường khoa học thực sự, với truyền thống,
với quá khứ nghiên cứu khoa học lâu đời, và với cả những bậc thầy cũ và mới
đã là các bác học nổi danh và có thể vẫn còn đang nghiên cứu tại trường...
vì thế sự truyền bá tinh thần và phương pháp luận khoa học được đảm bảo một
cách sống động, “bất thành văn”. Trong khi điều này rất hiếm có tại các nước
đang phát triển, do rất ít các bậc thầy kiệt xuất cố gắng làm việc ấy với
rất nhiều khó khăn, vì không những nó “ngoài chương trình”, mà còn vì nó đòi
hỏi một môi trường cởi mở và tự do tư tưởng, cũng rất hiếm có trong các nước
đang phát triển. Trong điều kiện ấy việc sắp xếp lịch sử và phương pháp luận
khoa học thành một môn học chính quy là cần thiết. Dù như thế không thể bằng
sự truyền bá văn hoá khoa học trực tiếp trong môi trường giảng dạy nghiên
cứu theo truyền thống, nhưng có còn hơn không.
Ngay cả với những lợi thế truyền thống bất thành văn, trong các nước đã phát
triển càng ngày người ta thấy càng rõ ràng là cái học "thành văn" về phương
pháp luận ít ra cũng quan trọng ngang cái học về kết quả, và thật sự hai
khía cạnh này bổ sung cho nhau trong một thời đại mà kiến thức tích tụ càng
ngày càng nhiều. Do phải học suốt đời, và do đó tự học là chính, sau khi đã
được đào tạo về căn bản và về phương pháp luận. Sau nữa trong thời đại ngày
nay các vấn đề ngày càng phức tạp và đòi hỏi nghiên cứu liên ngành. Như thế
những người cùng nghiên cứu phải nắm bắt được cái cơ bản trong những lĩnh
vực khác, của những người cộng sự ; và họ phải có được đồng thuận tối thiểu,
"thành văn", về những chuẩn mực khoa học.
Ý thức về sự cần thiết của một văn hoá khoa học hoàn chỉnh hơn cho người
công dân thế giới tương lai đã khiến cho bộ môn khoa học luận, hay triết lý
khoa học, (épistémologie, philosophie des sciences) ; mà các nội dung chính
có liên hệ chặt chẽ với nhau là lịch sử khoa học, tinh thần khoa học, và
phương pháp luận khoa học ; trở nên có tầm quan trọng đặc biệt. Bộ môn này
đang được khuyến cáo đưa vào chương trình đại học của cả các ngành khoa học
tự nhiên lẫn khoa học xã hội, và điều này đã được nhiều đại học trên thế
giới thực hiện.
Dù không đi vào cuộc cãi vã duy tâm/duy vật “ khi
phân tích đến tận cùng ” câu hỏi : "cái phần nhận thức đó, là nguyên nhân,
hay là hậu quả của những thay đổi về kinh tế xã hội ?" ; ai cũng có thể chấp
nhận có ảnh hưởng qua lại giữa nhận thức con người và môi trường tự nhiên và
xã hội trong đó hắn sinh sống. Vì vậy giáo dục về tinh thần khoa học là một
việc rất có ích cho tiến bộ xã hội, dĩ nhiên đây không phải là điều duy nhất
cần có trong nền giáo dục mới.
Ngược dòng lịch sử
Nhưng khi suy nghĩ cặn kẽ thế nào là tinh thần khoa học thì câu trả lời
không đơn giản. Tinh thần phải được cụ thể hoá thành những nguyên lý, được
chấp nhận như sự thực đầu tiên, và thành những nguyên tắc hành xử, được coi
như những dẫn dắt hiệu quả nhất trong hoạt động cụ thể... Thế mà những
nguyên lý và nguyên tắc này phải đâu đã rõ ràng trên giấy trắng mực đen.
Hiện nay, khi mà hoạt động khoa học đã trở thành đối tượng của học thuật từ
hơn một thế kỷ, vẫn còn những trường phái khoa học luận khác nhau.
Thực ra thì trước khi có các khủng hoảng về nền tảng của toán học và vật lý
học, và trước những Hiroshima, những hiệu ứng nhà kính, v.v. đã khiến cho
các nhà khoa học cũng như các triết gia đặt lại câu hỏi : thế nào là khoa
học ? khoa học kỹ thuật có thể giải quyết mọi chuyện hay không ? ; trong
thời hoàng kim của khoa học cổ điển từ cuối thế kỷ 17 (với nguyên lý vạn vật
hấp dẫn của Newton) đến cuối thế kỷ 19, đã có một sự nhận định rất đồng
thuận về khoa học, cùng với niềm tin sắt đá vào khả năng to lớn của nó đem
lại hạnh phúc cho loài người. Thời hoàng kim này thoát thai và lớn mạnh
trong một giai đoạn kéo dài cả một thế kỷ (từ đầu thế kỷ 17 nếu lấy năm
1600, năm Bruno bị hoả thiêu, làm mốc), trong đó tư duy thuần lý đã phải
tranh đấu để thoát ra khỏi những quan niệm giáo điều thời Trung cổ đã bị
thực tế phủ nhận, tuy vẫn là cơ sở của quyền lực tinh thần.
Vậy có phải trước thế kỷ 17 thế giới chưa có khoa học ? Nếu coi khoa học như
một nỗ lực để hiểu biết một cách hoàn chỉnh, có hệ thống và có hiệu quả về
thế giới, với những phương pháp nghiên cứu và đội ngũ nghiên cứu chuyên
nghiệp như hiện nay, thì đúng là như thế. Nhưng thế kỷ ánh sáng, cũng như
thời đại phục hưng (cả về văn hoá lẫn về đời sống vật chất, kỹ thuật) của Âu
châu trước đó, không phải từ trên trời rơi xuống. Nó là kết quả của cả một
quá trình tích luỹ, khám phá và du nhập những tiến bộ kinh tế, kỹ thuật, tổ
chức xã hội... tiệm tiến trong nhiều thế kỷ trước... trong đó những nỗ lực
để hiểu biết và cải tạo thế giới tự nhiên cũng như xã hội không bao giờ vắng
mặt, tuy có thể không tự giác và không có hệ thống hoàn chỉnh. Vậy cái gì đã
tiềm tàng để sẽ trở thành “ tinh thần khoa học ” trong thời hiện đại ? Và
nếu nhìn về Trung Quốc của thế kỷ 13 chẳng hạn thì họ có " tinh thần khoa
học " không ? khi mà đời sống vật chất cũng như trình độ kỹ thuật và tổ chức
xã hội cao hơn ở Âu châu cùng thời một mức đáng kể.
Và như thế cứ đi ngược thời gian người ta sẽ thấy có những giai đoạn tiến bộ
đột phát, và ở khoảng giữa là những giai đoạn tiến triển chậm chạp và kéo
dài. Những giai đoạn lịch sử đột phát đó cũng bao gồm những thay đổi sâu
rộng về mọi mặt trong đời sống xã hội ; trong đó việc cái nhìn của con người
trước xã hội và thế giới tự nhiên trở nên "khoa học hơn" chỉ là một khía
cạnh.
Ðột phát, thì chỉ khởi đi từ một chỗ, khó có điều gì tự nhiên đột phát ở
nhiều nơi trên thế giới, có lẽ đặc biệt trừ giai đoạn cổ đại, khi các nguồn
tư tưởng lớn như Phật, Lão, Khổng, các triết gia Hy Lạp... nảy sinh ở Trung
Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, chỉ trong vòng vài trăm năm. Có thể cho rằng khoa học
kỹ thuật hiện đại chọn châu Âu để nảy sinh là do một tình cờ lịch sử nào đó.
Nhưng nói như thế là gạt bỏ vấn đề một cách quá dễ dãi, vì dù sao, nhất là
đối với những vùng văn minh ngoài châu Âu, câu hỏi cần đặt ra là : “ tại
sao cách mạng khoa học kỹ thuật đã bùng nổ tại châu Âu mà không ở những nơi
khác? ” Quan trọng cũng như câu hỏi “ tại sao Hy Lạp ? ”, đối với sự
hình thành của tư duy thuần lý, một đột phát khác. Vì nếu vẫn còn những rào
cản về văn hoá, trong tâm thức, hay trong tổ chức xã hội ... làm ngăn trở sự
bùng nổ đó thì cũng nên nhận diện chúng, trong chừng mực chúng vẫn còn tác
hại trên sự tiếp thu khoa học.
Những nhận định rất tổng quan và sơ sài trên đây cho thấy cần chấp nhận tinh
thần khoa học là điều thay đổi theo dòng thời gian và không gian, mặc dù có
một hạt nhân bất biến ngày càng hiển lộ. Và như thế hiểu biết về lịch sử
khoa học đã diễn ra trên cả thế giới sẽ soi sáng cho những hiểu biết cần
thiết cho tinh thần khoa học hiện đại. Cả vấn đề là làm sao trả lời câu hỏi
: “ thế nào là tinh thần khoa học ” cho quá khứ, khi nhà làm khoa học không
hề thấy cần thiết phải nhìn lại mình, cũng không hề bị quan sát dưới con mắt
phân tích của các triết gia ; và trong quá khứ xa hơn nữa, không hề tự nhận
thức như một “nhà khoa học” ?
Thế giới quan khoa học
Thí dụ như thái độ “duy khoa học” của một Voltaire, một Diderot... coi rằng
có thể thiết lập một nền đạo đức dựa trên khoa học, dưới cái nhìn phê phán
hiện đại còn có phải là một thái độ... khoa học hay chăng ? Và ngược lại,
không thể không thấy có một cái gì rất khoa học tiềm ẩn trong những thử
nghiệm và những phát minh kỹ thuật của một Leonard de Vinci (1452 - 1519)
chẳng hạn ; hay trong phát minh máy in đúc chữ rời năm 1440 của Gutemberg,
mà ảnh hưởng trên văn minh thế giới là không thể lường được. Mặc dầu thực ra
người Hàn Quốc đã phát minh phương pháp in sắp chữ đúc rời bằng đồng trước
đó rất lâu (một trong những bản in cũ nhất là một bộ kinh Phật có niên đại
1377 hiện đang được giữ tại Thư viện quốc gia Pháp).
Vậy trong chữ “lịch sử khoa học” ta cần hiểu “khoa học” trong nghĩa rộng
nhất của nó, thay đổi theo và gắn liền với lịch sử. Như thế nó bao gồm cả
mặt thực dụng, như một cố gắng duy lý không tự phản tỉnh, nằm đằng sau những
phát minh kỹ thuật “ tự phát ” ; và nó bao gồm cả mặt tư tưởng trừu tượng,
trong những suy tư triết học bao quát. Vì trước thời hiện đại thì không có
sự chuyên môn hoá và khu biệt hoá giữa những người làm khoa học và những
triết gia. Tư tưởng nào thuộc phạm vi khoa học và tư tưởng nào nằm ngoài
phạm vi ấy... cũng là điều khó rạch ròi.
Nếu rút ra từ thí dụ trên một vấn nạn về phương pháp luận, thì có thể nói
điều rất khó để tìm hiểu quá khứ là chúng ta cần một công cụ phân tích chung
qua các thời đại, công cụ này chỉ có thể là những hiểu biết hiện có. Nghĩa
là ta cần và chỉ có thể dựa trên những hình thức tư duy, cảm nhận và sinh
hoạt hiện tại để làm chỗ dựa cho việc khảo sát quá khứ ; trong khi đó thì
những khái niệm và ngôn từ thừa hưởng từ quá khứ nhiều khi đã thay đổi ý
nghĩa rất nhiều. Do đó câu hỏi thường trực khi nghiên cứu lịch sử tư duy là
: những hình thức tư duy trong quá khứ giống hay khác cách hiểu và cảm nhận
hiện tại của chúng ta như thế nào. Và ngược lại, dấu vết của những hình thức
tư duy quá khứ có thể vẫn còn ngự trị hay ảnh hưởng tới văn hoá khoa học
hiện đại như thế nào ? Câu hỏi này có tầm quan trọng đặc biệt cho công việc
“gạn đục khơi trong” của tinh thần khoa học. Nói như vậy không có nghĩa phải
gạt bỏ tất cả những yếu tố không thuần lý đang tiềm ẩn.
Vậy chúng ta phải chấp nhận một phương pháp luận hình như luẩn quẩn : dựa
trên thế giới quan khoa học như hiện có để tìm hiểu sự hình thành của nó qua
lịch sử. Chỉ hình như thôi, vì như đã nói ở trên, các thành quả khoa học là
phi thời gian và phi không gian, trong nghĩa đó khoa học hiện đại có khả
năng hiểu bao quát quá khứ, và ngược lại thì không. Quên điều đó thì sẽ rơi
vào tương đối luận, một thứ xa xỉ trong các salon Âu Tây mà người trí thức
của các nước đang phát triển nếu chạy theo thì thật chưa thoát khỏi đầu óc
bị trị : tại sao đã bị trị ? nếu không vì khoa học kỹ thuật thua kém ?
Cái tinh tuý, cái cốt lõi tối thiểu được mọi nhà khoa học chia sẻ hiện nay
có lẽ có thể được phát biểu một cách ngắn gọn, như sau : có một thế giới
khách quan hiện hữu độc lập với con người, thế giới đó biến chuyển theo
những quy luật nhân quả mà con người có tiềm năng hiểu được. Tóm lại, đó là
một thế giới quan khoa học. Thế giới quan đó không thường trực nằm trong mọi
tư duy, cảm quan và xử thế của con người. Nhưng nó lại có thể nằm ngay trong
bản thân những người phủ định nó, nếu đào sâu một chút người ta có thể thấy
nó ở những chỗ bất ngờ nhất. Việc người phù thuỷ lên đàn cầu đảo, khấn bái
thần linh để cho mưa xuống có gì là khoa học không ? Không ư ? Tại sao cầu
mưa, nếu không biết rằng mưa là nhân, mà mùa màng tốt tươi là quả ?
Sự hình thành thế giới quan khoa học, lộ trình
Có thể chia lịch sử loài người nói chung thành một số thời đại, và có lý do
để tin tưởng rằng lịch sử khoa học cũng đi sát với sự phân chia ấy :
1) Thời tiền sử: từ khi hình thành con
người sinh lý hiện đại (homo sapiens) đến khi có chữ viết. Thời kỳ này được
coi như bắt đầu cách đây khoảng 100 nghìn năm, cho đến cách đây khoảng 5000
năm, với nền văn minh Sumer, lần đầu tiên có chữ viết mà ta được biết. (Xem
Diễn Ðàn số 130 ; Văn Ngọc, Sumer 5000 năm sau).
2) Thời tiền cổ đại: Các nền văn minh Ai
Cập, Lưỡng Hà... từ - 3000 ( 3000 năm trước công nguyên) cho đến khoảng
-600, bắt đầu nền văn minh Hy Lạp, và trước khi nảy sinh các hệ tư tưởng lớn
(Hy Lạp, Ấn Ðộ, Trung Quốc ).
3) Thời cổ đại: Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn
Ðộ : từ - 600 đến thế kỷ thứ 5 ( tàn lụi của đế quốc La Mã).
4) Thời tiền cách mạng khoa học: Trung
cổ, văn minh Ả Rập ; từ thế kỷ thứ 5 đến thời Phục Hưng.
5) Thời Phục Hưng và cách mạng khoa học:
thế kỷ 15 - 17.
6) Thời hoàng kim của khoa học cổ điển:
thế kỷ 18, 19.
7) Thời hiện đại: thế kỷ 20.
Trong mỗi thời đại ta có thể khảo sát những miền tư duy quen thuộc hiện nay
để trả lời những câu hỏi về sự hiện hữu của chúng, và về cách hiểu của người
xưa khác với người nay như thế nào, trong mỗi miền :
- tư duy khoa học
- tư duy về tổ chức xã hội và kinh tế
- những hoạt động công nghệ và kỹ thuật
- tư duy triết học
- tư duy về nghệ thuật
- tình cảm tôn giáo
- sáng tạo, ghi nhớ và truyền bá các huyền thoại
- sáng tạo và cảm nhận về nghệ thuật
- tư duy ma thuật, thần bí
- những hoạt động thủ công
Một thí dụ: trong danh sách những hoạt
động tư duy kể trên thì người tổ tiên xa nhất của chúng ta (tổ tiên thực sự
trong nghĩa sinh lý, tức là nếu sống lại có thể lấy vợ lấy chồng và đẻ con
với người hiện đại, ước lượng đã sống cách đây khoảng 100 000 năm) không làm
gì có tất cả. Nhưng ít ra là đã có ba dòng cuối. Về mặt nghệ thuật, chỉ cần
nhìn những bức tranh tuyệt đẹp trong động đá. Ảnh hưởng hỗ tương của việc
sáng tạo những công cụ thủ công như cái rìu đá, cái lao... trên văn hoá con
người là điều đã được nói đến nhiều. Tư duy ma thuật là một khái niệm phức
tạp, nảy sinh sớm và sống dai dẳng, mãnh liệt, với loài người cho tới nay.
Nếu hình thức tư duy này hoàn toàn vô hiệu quả và vô ích thì đã bị đào thải
từ lâu. Không phải chỉ có việc phù thuỷ cầu mưa, chiêm tinh học đã đẻ ra
thiên văn học, và thuật hoá kim (H.T. đề nghị cho chữ alchimie) đã đẻ ra hoá
học.
Diễn Đàn Forum, Paris, số 132 tháng 9/2003
©
http://vietsciences.free.fr Hàn
Thủy |