Gửi Hội Xuân Việt Bắc
Vietsciences- Trần
Thị Vĩnh-Tường 15/04/2011
Những bài cùng tác giả
Mùa xuân, khi hoa đào nhuộm
hồng sông suối, hoa mai hoa lê hoa ban nở trắng núi đồi là lúc Việt Bắc sửa
soạn đón hội xuân. Từ Pản Phố đến Lũng Pưởn, từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên, từ
hồ Ba Bể đến Na Rì, từ Kỳ Lừa đến Tuyên Quang, chan hoà sắc hoa mầu áo môi
cuời chúm chím. Hội đền Hùng ở Phú Thọ, Hội Trùm Chăn ở Huyện Bát Xát (Lào
Cai). Hội Hoa Ban ở Sơn La (Lai Châu), huyện Mai Châu (Hoà Bình). Hội Ksai
Sà típ của người Xinh Mun. Hội Roóng Poọc của người Giáy ở Tả Vạn chung cho
cả vùng thung lũng Mường Hoa …

Tất cả những hội hè ấy, đều
mang môt ý nghĩa giống nhau: tưởng nhớ tổ tiên, thờ cúng thần linh, ước mơ
một cuộc sống bình yên, no đủ, ngô lúa đầy nhà, cây quả trĩu cành, dâu được
xanh tằm được lá và trai gái nên duyên.
Trải làng ta…
Tổng Mễ Sở, phủ Khoái Châu, tỉnh
Hưng yên, cả tám làng cùng rước thần thành hoàng về chầu đức Chử Đồng Tử
(1). Thần hoàng của tổng Mễ Sở là đàn bà, nên một đoàn bốn “con đĩ đánh
bồng” được hân hạnh đi đầu vừa đi vừa vỗ trống cơm.
Theo nghĩa cổ, từ con đĩ có hai
nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ một bé gái, vì vậy hay gọi con là “thằng cu, con
đĩ”. Nghĩa thứ hai, chỉ cô gái nhỏ còn trong trắng, như trong “con đĩ đánh
bồng”. Không biết tại sao và từ bao giờ, một từ cổ rất ngây thơ lại bị hiểu
lầm đến thế.
Người Hưng Yên cũng cầu gió
mưa hoà thuận, làng xóm bình yên. Ngày hội này, có thi bơi trải ba năm một
lần. Trải, tiếng Việt cổ, là cái thuyền rất hẹp, mỗi bên có bốn hoặc sáu
nguời chèo. Một ngưòi đứng sau cùng vừa chèo vừa hò điều khiển:
Trải làng ta,
nghe ta hò,
gò lưng xuống,
uống nước sông,
trông lên bờ,
bơi thờ thánh,
chấp cánh vào,
xoè cánh ra.

Theo tác giả Nguyễn Chu Hậu (2) ngưòi Hưng Yên, sau 1940
không còn bơi trải nữa, có lẽ do chiến tranh. Trải ngày ấy được gác ở nhà
thảo bạt, thuộc đền chính Đa Hoà. Nhà thảo bạt chứa đồ tế tự kiệu, cờ, giáo
mác, trống kèn, trải… Hy vọng những nguời Hưng Yên lưu lạc khắp thế giới có
lúc ngồi lại tiếp tay phục hồi tục bơi trải trước khi vĩnh viễn thất truyền.
Hội Thẩm Lệ…
Tác giả Nguyễn Đức Hiệp dẫn Henri Maspero (3):
"Ngày hội ấy mở vào tháng ba, tháng tư, trước khi có hạt
mưa rào và bắt đầu vào công việc đồng áng. Chỗ hội họp là động Thẩm Lệ, có
tiếng là nơi linh thiêng, ngày thường không ai dám lai vãng, sợ đông chạm
đến quỷ thần. Nhưng đến ngày hội thì trai thanh gái lịch tự do kéo nhau lũ
lượt vào động để hát đối, giao duyên... Bên trai thắp các ngọn đuốc lên, tay
cầm đuốc đi diễu qua trước mặt các cô nàng, cố soi vào tận mặt để xem mặt.
Khi một chàng đã tìm thấy ý trung nhân rồi, anh ta bèn đứng trước mặt nàng
rồi cất tiếng hát. Nghe anh chàng xướng,
hát xong, nếu cô nàng ưng ý thì liền ngồi xụp xuống đất để tỏ ý bằng lòng.
Nếu sau khi đã xướng hát rồi, chờ mãi không thấy nàng ngồi xuống, ấy là anh
ta biết cô nàng không bằng lòng, chỉ còn cách đi khỏi. Ở trường hợp chàng
được nàng ưng ý ngồi xuống rồi thì chàng liền tắt đuốc đi và cùng ngồi xuống
bên cạnh nàng. Bây giờ hai bên vịn vai nhau mà hát đối, câu hát trao tình,
càng ngày càng thân mật. "
Ông Nguyễn Đăng Thục và ông Henri Maspero trong "Les
religions Chinoises" còn viết:
"Những hội hè ấy, nếu thiếu thì mùa màng không tốt, lúa
không mọc. Chính vào lúc người ta vừa xua đuổi khí độc của mùa đông đi rồi
mới có cuộc phối hợp giữa thanh niên thiếu nữ.”
Hội Lim
Núi Lim và hai bờ sông Tiêu Tương mỗi năm đều có Hội Lim.
Nhiều trò chơi như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm,
và nhất là hát đối. Như nhũng hội hè khác, các liền anh liền chị hát tứ sáng
tinh mơ cho đến chiều sương sớm. Hát nhớ người xa, hát thương ngưòi gần, hát
mời trầu cho đỏ môi mình môi ta, hát đêm rằm nằm một mình, hát tuơng ngộ
tương phùng đứng hai mình…Khi các liền anh liền chị kết bạn hát với nhau,
coi như kết tình lân lý anh em một nhà, họ giữ lời thề không bao giờ kết
duyên với nhau nữa. Có phải như vậy khiến lời ca quan họ lúc nào cũng đượm
buồn kín đáo vì trong khi hát làm gì không thấp thoáng yêu đương, “Ôi bạn
oanh ý a ôi bạn oanh, ngồi tựa trăng thanh, thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim
nhạn hỡi bạn tình chung tình. Trước không phải sau đền nợ sinh ba sinh”.
Thật khó có nền văn hoá dân gian nào vừa đa tình vừa nghĩa tình đến
thế. Điều này chắc chắn không thể kết tinh một ngày một buổi, mà là nhu cầu
tâm linh gạn đục khơi trong tự đáy lòng người Kinh Bắc từ hàng ngàn năm.
Những người phên dậu
Việt Bắc là một vùng văn hoá còn giữ được nhiều nét huyền
bí và sơ khai của buổi bình minh trên vùng đất bây giờ gọi là Việt Bắc.
Vị trí địa lý của sắc tộc Tày/Nùng cho thấy liên hệ hết
sức chặt chẽ với lịch sử, nguồn gốc, tiếng nói và phong tục với người Việt
đồng bằng, tức Lạc. Nguời Tày thuộc tộc Thái cổ, tức Âu, hậu duệ của An
Dương Vương. Hàng ngàn năm chung sống với nhau, không thể tách bạch rạch ròi
thành phần Âu trong Lạc, hay Lạc trong Âu. Vì cả người Tày-Nùng và Lạc Việt
đều cùng thuộc chủng Bách Việt, tên bây giờ là Austronesian (4) nguời châu Á
phương Nam, khác với chủng Mongoloid tức châu Á phương Bắc.
Ở Việt Nam, người Tày-Nùng sống tập trung nhiều ở Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái. Bên kia biên giới, là vùng Quảng Tây, Quảng Đông
và Vân Nam họ được gọi là dân tộc Zhuang. Dân tộc Tày-Nùng, thuộc ngôn ngữ
Thái, dân tộc Dao. Người Tày (sách sử gọi là Thổ) và người Nùng, cùng tiếng
nói và văn hoá. Ngươìi Tày gần với người Việt. Người Nùng gần với văn hoá
Trung Hoa. Sau 1954, một số người Nùng di cư vào miền Nam. Đa số cận vệ ở
cơ quan quan trọng trong chính phủ VN Cộng Hoà hay tình báo ngoaị quốc tuyển
người Nùng, vì tính trung thành và kín đáo của họ.
Hội Lồng Tồng
Còn có tên gọi khác là hội Cầu Mưa, hội Cầu Mùa. Hội Lồng
Tồng thường được các làng bản Tày/Nùng tổ chức sau ngày mùng 10 thàng giêng
âm lịch, thường tại một cánh đồng vừa gặt hái xong. Nhưng đồng bào các sắc
tộc khác như Hmong, Yao, Hoa… lũ lượt vượt đồi núi về dự hội.
Lễ vật có thịt lợn quay, gà trống thiến, hai cặp bánh
“mon hua” tức bánh chưng, bánh khảo, bánh bỏng, xôi đỏ cho mặt trời, xôi
vàng cho mặt trăng, mỗi đĩa có hai con chim én. Màu đỏ và vàng tượng trưng
cho lửa và mặt trời. Chim én là biểu tượng của mùa xuân. Nơi làng của nguời
Giáy ở Sapa, hiên nhà nào cũng có chỗ cho chim én làm tổ, hễ đưa tay lên
chim sà xuống đậu. Nguời Giáy yêu chim và cho đó là điềm lành nên chim mới
đậu. Họ không bao giờ bắt nhốt chim hay ăn thịt. Cho thấy sự giao tiếp với
thiên nhiên, với sinh vật và lòng tin tưởng nơi đấng vô hình không chỉ đẩy
óc sáng tạo nơi người miền núi lên rất cao, giúp niềm tin họ không bị rạn vỡ
trước tàn phá của chiến tranh mà còn khiến họ đời đời ràng buộc với núi đồi,
từ lúc sinh ra đến khi về với mường trời.
Lồng tồng còn có nghĩa nữa
là “cái trống”. Một cái trống treo giữa làng chủ, là làng được chọn khai
hội. Từ xưa, tiếng trống vẫn biểu hiện cho uy quyền, là phương tiện liên
lạc, báo tin giữa bản này với bản khác. Tùy địa phương, trống có thể là
trồng đồng hay trống da trâu. Trong suốt những
ngày hội, trai gái tìm nhau, say mê chúm chím môi xinh lượn khúc sơn ca, gọi
là hát Lượn.
 Sơn nữ chơi đàn tính, sơn nam
thổi sáo. In hệt như quan họ, từ lượn mời lượn đón đến luợn mừng lượn tạm
biệt. Bài “Đợi” của nguời Nùng, một loại lượn nhớ nhung :
“Nàng ơi
ni chim mà mà pi hơi
nàng ơi, hà tang
bay Hà này chia tình
theo hà nàng ơi Đợi nàng có hay
bao tháng bao ngày
đã qua rồi à nàng
ơi Mùa xuân nay vắng
ai để ai héo hon nàng ơi.
Nàng ơi nàng nàng
ơi ơi… (5)
Từ áo dài đen đến xà tích
bạc

Nam nữ Tày/Nùng đều mặc áo dài
truyền thống năm thân in hệt áo dài năm thân của ngưòi Việt. Áo nam ngắn hơn
áo nữ. Màu áo truyền thống là màu chàm. Lá chàm màu xanh, nhưng cho cao chàm
đen kịt, nhuộm vải vóc quần áo cho nhiều sắc tôc Việt Bắc. Riêng người Việt
đồng bằng lại nhuộm váy áo bằng bùn. Phụ nữ Tày cũng chít khăn vuông đen,
chân đi hài vải thêu tay. Áo dài Tày may in hệt áo dài Việt. Chỉ khác có
thắt một mảnh thắt lưng màu xanh, hồng hay tím để gài xà tích. Một tấm ảnh
và lời giải thích của Bách Khoa Toàn Thư (6) cho thấy áo dài cô em Tày gài
nút bên trái, một biệt sắc của người Việt cổ, trước thời bị Hán đô hộ.
Ngày xưa các cô mặc áo dài với
váy đen, gấu thêu tay công phu. Bây giờ các cô mặc với quần đen. Điều …văn
minh nhất, là áo dài Tày không tô vẽ tứ tung hay bị gắn kim tuyến lấp lánh
lung tung beeng. Trên tất cả các trang web về người Tày, hình ảnh người phụ
nữ Tày nền nếp, trang nhã, quí phái trong tấm áo dài đen, chít khăn mỏ quạ,
vòng cổ bạc rộng, đeo xà tích bạc ở thắt lưng, và chơi đàn tính.
Không khỏi nhớ đến rất nhiều
ảnh trong album chụp trước 1954: phụ nữ Hà Nội (đã lập gia đình) luôn mơ ước
một áo dài nhung đen cổ đeo kiềng vàng hay bạc. Các cô gái trẻ không mặc áo
đen bao giờ. Ước mơ trong tiềm thức ấy mãnh liệt đến nỗi ở hải ngoại, nhiều
bà nhiều cô cũng có một áo dài nhung đen và kiềng vàng kiềng bạc. Phải
chăng đó là tiếng goị thầm về một quá khứ xa xôi. Ca sĩ Ngọc Minh, mắt đen
tóc dài da trắng, là người Thái trắng. Ngọc Minh cho biết áo dài đen của
người Thái và áo dài đen Tày, là áo vô cùng truyền thống dành cho phụ nữ đã
có gia đình mặc trong những ngày lễ quan trọng. Điều hơi lạ, các bài viết về
áo dài Việt, không hề thấy nhắc nhở đến tà áo Tày/Nùng. Chúng khẩu đồng từ
chỉ nhắc áo dài đươc ông Cát Tường Le Mur cải tiến thế nào, nhưng cải tiến
từ cái gì? Các “học giả” cũng luôn nhắc “Âu-Lạc”, nhưng chẳng nhắc nhở ngó
ngàng đến Âu Tày/Nùng, phân nửa nguồn cội của dân Việt.

Xà tích là một giây xích bằng
bạc. Hai đầu buộc bình vôi hoặc những hình chạm khắc đừơng nét mạnh bạo,
hình kỷ hà đối xứng, tinh vi và tỉ mỉ. Thợ nữ trang của hoàng gia Anh không
dễ làm được. Các noọng HMong, Thái, Tày... đeo ở thắt lưng trang điểm cho
tấm váy đen bó chặt.
Tiếng Hmong: Xauv ncais =
vòng cổ
Tiếng Thái: Saawy = đọc là xâu
như trong “xâu chuỗi”, [saawy] hay [saawy thee]=xà tích.
Xà tích Việt (từ Bắc đến Nam
đều gọi là xà tích) thường chạm rồng, phuợng hay hoa sen hoa cúc. Các cô
Kinh Bắc mặc áo tứ thân ngày hội mới lấy ra đeo như một món nữ trang. Trước
1954, chị tôi học nghề hàng vàng ở Hưng Yên, chứng kiến những người nghèo ở
mãi tận trong quê mang xà tích rất đẹp đem bán, rơi nuớc mắt vì phải xa lìa
một lưu vật đã truyền lại từ mấy đời. Cho thấy lúc đó nghề thợ vàng bạc chạm
khắc đã rất tinh xảo. Ở trong Nam, cô gái đeo xà tích trên cổ, xéo qua một
bên rất độc đáo. Điều này cho thấy có một thống nhất từ Bắc đến Nam trong
việc dùng một món nữ trang có tên chung “xà tích” (7).
Khăn mỏ quạ/kiềng/xà
tích/váy/áo dài đen, những vật thiết thân của phụ nữ cho thấy xuất xứ ban
đầu ở vào thời điểm trong quá khứ.
Nguời bạn mới về thăm Hà Nội
cho hay một xà tích chạm trổ khéo léo, nặng 4 lạng bạc, giá 100 đô la Mỹ.
Còn xà tích bạc ngày xưa đã trở thành đồ cổ. Chị cho biết người Hà Nội ngày
nay cỡ 50 tuổi không biết xà tích là gì, tưởng là cái…ấm tích.
Tiếng nói/âm nhạc Hội Lồng Tồng, tiếng Tày/Nùng “lồng tồng” hay “lổng tồng”,
tiếng Yao là “lồng tộng”, cò một nghĩa nữa là “xuống đồng". Lồng/lổng =
xuống/gieo, lồng chả= gieo mạ. Nhưng “lổng lảng”, lại có nghĩa “lấy
chồng”, lảng là chồng. Tiếng Việt xưa lang là
chồng, như trong “lang quân”. Trước thời chữ Việt được ký âm abc, có thể người
Việt cũng phát âm cả hai âm [t] và [đ] ai muốn
nói sao cũng được và cũng đúng. Tiếng Mường: “cải
ti no”, có nghĩa “con đi đâu”. Chỉ sau khi có
quốc ngữ abc, mới phân biệt âm
[t] và [đ].
Một nhận xét khác là dấu hỏi trong tiếng
Tày/Nùng/Mường là dấu sắc trong tiếng Việt: Hõ nhà tôi chăng cỏ ai là vua
quan chi = Họ nhà tôi chẳng có ai là vua quan chi. (Vì
vậy, người Nam Bộ ít phân biệt dấu hỏi/ngã trong nói/viết, chưa chắc đã là
sai, như một số “học giả” miệng có gang có thép đoan chắc thế và cho rằng
phải phát âm Hà Nội mới đúng, dù không giải thích “giọng Hà Nội” là những
pha trộn nào, từ đâu mà có?) Điều này cũng nhận thấy ngay trong cách phát âm dân ca
Bắc Ninh. Bắc Ninh là quê hương của nhà Lý, triều đại rực rỡ đầu tiên của
nứơc Việt với chính sự hết sức khôn ngoan. Một trong kế sách khôn khéo, là
gả các vị công chúa cho các tù trưởng vùng cao, thật ra cũng chẳng xa xôi gì
vì Kinh Bắc lúc đó phía Bắc lên tới Lạng Sơn. Trong hàng ngàn năm, vùng
thượng du Tây Bắc, nơi quần cư của người Tày/Nùng đã là phên dậu cho Đại
Việt. Vết tích của sự giao tiếp ấy vẫn còn dù qua các triều đại, biên địa
Bắc Ninh cứ bị dời đổỉ. Ngay mãi đến thời vua Gia Long, Bắc Ninh là trấn
Kinh Bắc, vẫn gồm cả Bắc Giang, một phần các tỉnh
Hưng Yên,
Lạng Sơn
và thành phố Hà
Nội. Liền anh liền chị 49 làng quan họ Bắc Ninh hát dân ca lả lướt chính
nhờ bảo lưu đựoc phát âm địa phương từ quá khứ ngàn năm nhiều sắc tộc
sống với nhau tại một địa bàn. Ca sĩ tân nhạc dùng
giọng
Hà Nội hát dân ca, sẽ giống như quít mọc nhằm đất lạ,
kém ngọt. Nếu quan
họ lại được hát bè, thì gần bằng một… cơn ác mộng.
Tác giả Vi Văn Hồng (3) thầy giáo người Tày nhận xét
trong “Vài suy nghĩ về hát Quan Lang, Lượn”
"Trong nền dân ca Việt nam, dân ca quan họ Bắc Ninh là một
loại dân ca rất đẹp về mặt trữ tình, chủ yếu là tình yêu trai gái, điều này
đã được các nhà nghiên cứu nhận định thống nhất. Đọc và tìm hiểu Quan họ,
chúng tôi thấy ở loại dân ca ưu tú này có khá nhiều điểm gần gũi
với dân ca Tày, Nùng nói chung với Lượn và Phong Slư nói riêng, gần gũi
về "nội dung đậm tính chất trữ tình", về thể cách xây dựng hình tượng, về đề
tài và cả về lối ca hát nữa. Sự gần gũi này chứng tỏ rằng Lượn và Phong Slư
đứng về mặt dân ca mà nói có nhiều điểm rất đặc sắc, không kém Quan họ Bắc
Ninh….đó là tiếng nói của một tình yêu chung thuỷ sắt son, chung thuỷ cả
trong "kiếp sau" nữa. "(Vi Hồng - Vài suy nghĩ về hát Quan Lang, Lượn, Phong
Lư, Tạp chí Văn Học, 3/1976, trang 50-61, Viện Văn học, Uỷ ban KHXH).
Nguồn gốc hát quan họ nơi các tác giả người Việt từ trước
tới này vẫn chỉ là phỏng đoán. Những bài nghiên cứu không đưa ra điều mới.
Là người nằm giữa địa bàn, để cả đời nghiên cứu văn hoá Tày, điều tác giả Vi
Văn Hồng hé mở xứng đáng mời gọi các nhà nghiên cứu lịch sử dân nhạc lưu
tâm.
Sự phóng khoáng
Theo Vi V. Hồng, tục hát quan họ đã có ít nhất là từ thời
Lý-Trần và xưa hơn nữa từ tục lệ cổ của dân tộc Việt ở Kinh Bắc và các dân
tộc khác ở miền trung du. Hát quan họ có liên hệ mật thiết với cách hát
Lang, Lượn của dân tộc Tày. Và có thể có sự liên hệ xa hơn nữa với lối hát
giữa trai gái của dân tộc Châu Ro ở Đồng Nai phía Nam. Hát quan họ cũng có
sự đóng góp của cộng đồng tù binh Chàm định cư ở Kinh Bắc thời Lý-Trần. Nói
chung tất cả các lối hát có nguồn gốc chung ở các dân tộc xưa cổ Đông Nam Á
xa xưa ở tục lệ dân tộc là sự liên hệ trai gái, trao đổi tán tỉnh nhau trước
khi đi đến quan hệ tình dục, khác hẳn văn hoá Trung Hoa. Sự giao phối vào
mùa xuân được tin tưởng như tặng vật mà nam nữ, một kết hợp âm dương toàn
vẹn nhất, dâng lên thần đất, thần sông, thần lúa, thần núi… Những đứa trẻ
sinh ra từ những phối hợp ấy đựoc coi là món quà của thần linh, được cả làng
yêu quí. Về sau, bị ảnh hưởng văn hoá phụ hệ Trung Hoa không coi
phụ nữ có ký lô nào, mới có những tục lệ ngăn cấm lỉnh
kỉnh nghiệt ngã ràng buộc phụ nữ, nhưng không hề trói buộc … phụ nam. Tuy
vậy, trên thực tế, chỉ những gia đình quan cách, chịu ảnh hưởng Nho học mới
thật sự gò bó phụ nữ. Cụ Nguyễn Du khoác cho Kiều một tâm lý rất lạ: cho
Kiều lao mình vào sương gió chuộc cha khi chưa cần phải bán mình, nhưng với
Kim Trọng lúc nào nàng cũng chỉ trăng chỉ đèn thề thốt phân minh, có lẽ cũng
để tả cái thân phận dùng dằng “nửa Việt nửa Hoa” cùa phụ nữ Việt dưới sức
trĩu nặng của Nho học thời ấy, nên ăn cơm gạo Việt nhưng phải lẩm bẩm thờ
hồn ma cụ Khổng.
Còn dân chúng làng thôn, vẫn sinh hoạt theo văn hoá phóng
khoáng. Theo Nguyễn Chu Hậu khi lên So Sở, Sơn Tây dạy học những năm 1940,
ông bị một phen khiếp vía khi thấy các cô thôn nữ nom rất hiền lành đang cấy
mạ, trêu ghẹo một thanh niên, anh ta lỡ dại ứng tiếng trả lời câu hò, liền
bị các cô xúm lại, cho …quần anh ta bay xuống ruộng.
Nguời Hoa Hạ (khi chưa gọi là Trung Hoa) từ trước thời
Xuân Thu Chiến Quốc đã rất xốn mắt trước việc trai gáì chủng Việt cổ hát đối
nhau. Trong Kiều có câu “Ra tuồng trên Bộc trong dâu. Thì con người ấy ai
cầu làm chi” khi Kim Trọng rì rào đòi nắm tay nắm chân Kiều. Sông Bộc, tại
thành phố Bộc Dương ngày nay, nơi dân Man di nước Trịnh/nước Vệ thuộc chủng
Việt cổ, chiều chiều trai gái dẫn nhau xuống chơi bãi sông Bộc, hát hò thoả
thích xong dắt nhau vào ruộng dâu tình tự. Vì vậy người Hoa Hạ dè bỉu, cấm
đoán người Việt cổ đủ điều. Các cụ đồ Ta cũng theo đồ Tàu, thi nhau những
cấm cùng đoán.
Hoàng Cầm, nguời Kinh Bắc - mẹ là liền chị quan họ - quen
với những ý tình phóng khoáng khiến thơ ông nóng bỏng nếu không đốt cháy
cũng có thể làm độc giả chóng mặt, nhưng không thể nhăn mày, vì chữ nghĩa
quá đẹp
Hương ngát em lồng kín cõi anh
Yếm đào trút lại phía vô linh
Đung đưa gác lửng nghênh
xuân ấy Đôi núm hồng em nở hết mình
(Hội Yếm Bay)
Tục chơi xuân trong các hội hè đầu năm như tục hát đối,
hát ví, hát dặm hay trống quân không phải chỉ riêng dân tộc Việt Nam, mà là
chung cho tất cả dân tộc nông nghiệp miền Đông Á, từ phía Nam sông Dương Tử
trở xuống và từ Tây Tạng cho đến Nhật Bản, nơi nào người người cũng sẵn sàng
ngưng cầy ngưng cuốc say sưa hát. Bây giờ ngưòi Nhật chế ra máy karaoke
cũng do nhu cầu hát hò ấy.

Trong ảnh, hai cô sơn nữ người Thái (có vẻ sơn nữ … nhà
nước) đội tấm khăn piêu thêu tay chỉ hồng chỉ đỏ, món trang điểm ngày hội.
Bài hát “Chiếc Khăn Piêu” hay “Chiếc Khăn Rơi” dân ca Xá (8), mang âm hưỏng
rừng núi nghe rất yêu. Con chim cúc cu líu lo hớt lẻo, rừng đằng kia có cô
nàng đang kiếm khăn piêu. Sơn nam núi bên này nhặt được khăn vướng trên cây,
đợi hoài đợi mãi, nhắn cả tin theo chiều gió, khăn đây rồi đừng tìm làm chi
mà lạc mà nát cả hoa rừng…Chàng hú vang rừng núi mong có người tới nhận
khăn, ngộ nhỡ phải duyên thì trước là trả khăn sau là …đòi nợ.
A chi ơi có phải thắm thiết duyên nhau
Chiếc khăn đây là mối nối duyên nhau thời tôi chờ
Nhắn tin theo cùng gió.. Khăn còn đây đợi người.
Tiếng tôi vang rừng núi…Sao không ai trả lời?
Từ hàng trăm năm hàng ngàn năm, mùa xuân Việt Bắc trôi đi
duới lớp hoa đào hoa ban và môi cuời khúc khích. Vốn được sinh ra bên một
giòng suối quanh co giữa những cội đào hoa hồng hoa ban trắng Cao Bằng áo
chàm líu lo leeng keeng vòng bạc, tôi cũng được mẹ nhúng xuống suối như
những bé sơ sinh Tày Nùng nơi đó, được một sợi chỉ đỏ buộc cổ tay nhận nhau
suốt đời là anh em. Từ nơi xa, cho tôi gửi một cái hôn về những đôi má sữa.
Cầu cho phân nửa giòng sinh mệnh quí giá, phên dậu của dân tộc, được tổ tiên
gìn giữ từ những tai ương.
Trần Thị Vĩnh-Tường- California,
Xin gửi tới Phạm Lệ Hương/Viện Việt Học/Orange County, lờì
cảm ơn. Dù chưa hề biết mặt, đã đi khắp Hà Nội tìm mua giùm xà tích bạc xưa,
nhưng hoài công. Vật quí như người ngọc, khó tìm?
----------------------------------------
Chú thích
(1) Chử Đồng Tử, một trong Tứ
Bất Tử: Sơn thần Tản Viên,
Phù Đổng Thiên vương,
Chử Đồng Tử,
Liễu Hạnh Công chúa.
(2) Sổ Tay Về Nguồn/Nguyễn Chu Hậu, đang in
(3) Việt
Bắc : Lịch Sử và Con Người/
Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp
http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsucacnuoc/vietbacvalichsu.htm
(4) Nhóm
người chiếm tới 57% vòng tròn quả đất tính từ Đông sang Tây, tổng cộng 206°,
từ 44° Đông/Madagascar
đến 110° Tây/Easter
Island.
(5) Một hãn hữu được nghe hai
nghệ sĩ Lãng Minh/Nga My hát bài lượn Tày Nùng nói trên tại Viện Việt
Học/Orange County 9/2007. Những tape nhạc Sli, Lượn của Tày/Nùng tìm mòn
con mắt phương trời đăm đăm không ra. Mong đừng thất truyền.
(6)
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?
param=1341aWQ9NTEzMyZncm91cGlkPTUma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=1
(7)
Tạp chí Xưa và Nay/Xuân Mậu Tý 2008, Saigon, Trang Phục Phụ Nữ Xưa/Đào Bích
Phượng. Bức ảnh ghi chú:
”Cô gái đeo vòng đầy cổ và dây xà tích, lối trang sức phổ
biến cuả phụ nữ Nam bộ”. Rất tiếc không thể đăng hết tất cả hình ảnh trong
bài.
(8)
http://www.youtube.com/watch?v=1TUfreootBE,
Ca sĩ Anh Thơ
|