Nhân dịp Ngày Xuân, các Bạn
Đọc Bốn Phương của Vietsciences thường gặp nhiều
sinh hoạt đáng ghi nhớ và muốn thu lại các hình
ảnh này. Máy ảnh số (digital camera) là một
phương tiện rất phổ thông, giản dị, giúp cho mọi
người ghi lại dễ dàng các kỷ niệm gia đình hay
các phong tục, tập quán địa phương.
Máy ảnh số có
loại nhỏ, rất gọn nhẹ với giá tiền vừa phải, tới
loại rất tốt dùng cho các nhà nhiếp ảnh chuyên
nghiệp. Sự hiểu biết về máy ảnh số được coi là
cần thiết bởi vì đây là một kỹ thuật mới, giúp
cho chúng ta không cần phải mua phim, tráng
phim, sau khi bấm máy có thể kiểm soát ngay tấm
hình mới chụp. Hàng trăm tấm hình được ghi vào
trong một thẻ ghi hình khá nhỏ rồi sau đó, chúng
ta in hình bằng máy in màu mà không cần tới
phòng tối. Nhờ các kỹ thuật mới, hàng ngàn hình
ảnh có thể được biến đổi cho đẹp mắt hơn, thêm
bớt các chi tiết bằng phương tiện Photoshop và
sẽ được lưu trữ vào các đĩa CD, DVD nhờ nhu liệu
(software) Nero. Hiện nay, công dụng của máy ảnh
số rất phổ thông, giống như của máy điện thoại
và máy truyền hình, và loại máy ảnh số này là
mặt hàng bán chạy nhất trong năm.
1/ Các đặc điểm của
máy ảnh số.
Máy ảnh số đã giúp nhà nhiếp ảnh giảm bớt được
vài bước trong tiến trình kỹ thuật kể từ lúc thu
hình cho đến khi in hình trên mặt báo. Với loại
máy ảnh phim, sau khi thu hình, phóng viên phải
chạy về phòng tối của tòa báo, tráng phim, rọi
hình, phân hình (scan) vào máy điện toán, biên
soạn (edit) các hình ảnh trên máy điện toán rồi
gửi các hình ảnh đi. Nhưng đối với loại máy ảnh
số, việc thu hình không được ghi vào phim mà vào
thẻ ghi hình (memory card) sử dụng lại được, nhờ
vậy nhà nhiếp ảnh có thể chuyển các hình ảnh
trực tiếp từ máy ảnh sang một máy điện toán xách
tay (laptop), tại máy này nhà nhiếp ảnh biên
soạn các hình ảnh rồi dùng bộ biến hoàn (modem)
mà gửi các hình ảnh về tòa báo. Nhờ loại máy ảnh
số, nhà nhiếp ảnh đã giảm bớt được thời gian lái
xe, làm phòng tối và phân hình.
Kỹ thuật của loại máy ảnh số đang
được cải tiến, nhờ vậy càng ngày càng có nhiều
người dùng tới loại máy ảnh này, chẳng hạn một
chuyên viên địa ốc có thể dùng máy ảnh số để thu
hình một căn nhà rồi quảng cáo trên mạng lưới
truyền thông toàn cầu (World Wide Web). Máy ảnh
số cũng cho phép một nhân viên bảo hiểm ghi lại
hình ảnh của một chiếc xe hơi bị tai nạn rồi lưu
giữ trong bộ hồ sơ điện tử, hay giúp một kỹ sư
thu hình đứa con đầu lòng rồi dùng các hình ảnh
cất giữ trong máy điện toán để làm ra các tấm
lịch nhỏ, các tấm chúc tết có hình em bé bằng
máy in loại phun mực (inkjet). Máy ảnh số còn có
nhiều đặc điểm về xảo thuật, về trình bày, đã
giúp cho người chơi ảnh không cần phải mua phim,
tráng phim và cũng không cần dùng máy phân hình
(scanner) để chuyển hình ảnh vào trong máy điện
toán.
Máy ảnh số tuy có các ưu điểm nhưng
vẫn còn một số khuyết điểm. Loại máy ảnh này đã
không ghi nhận một cách hoàn hảo các miền tối
(shadows) và miền sáng (highlights) như loại máy
ảnh phim. Như vậy, vấn đề quan trọng nhất cần
được đặt ra là loại máy ảnh số đã tạo lại hình
ảnh tới mức độ hoàn chỉnh nào?
Khi chúng ta dùng loại máy
ảnh phim để thu hình, lúc bấm máy, cơ phận đóng
(shutter) của máy ảnh đã mở ra rất nhanh để cho
ánh sáng đi qua các thấu kính rồi ghi vào mặt
phim nhậy cảm với ánh sáng, nằm sẵn bên trong
thân máy ảnh. Máy ảnh số cũng hoạt động một cách
tương tự nhưng thay vì ghi hình lên phim, loại
máy này đã thu hình vào "phiến tinh thể điện
toán nhậy cảm với ánh sáng" (a light-sensitive
computer chip) được gọi tên là CCD
(charge-coupled device = cơ phận ghép điện
tích). Ngày nay phần lớn các CCD của nhiều máy
ảnh số có khả năng thu nhận trên 16.7 triệu điểm
màu (pixels).
Đặc tính thứ hai của loại máy
ảnh số là độ rõ nét (resolution). Đây là số điểm
màu (pixels) tính bằng đơn vị dpi mà một máy
điện toán có thể kiểm soát được. Máy ảnh càng có
độ rõ nét cao thì càng cho các hình ảnh sắc nét,
rõ ràng, nhiều chi tiết hơn, thí dụ như máy ảnh
có độ rõ 756 x 504 dpi sẽ cung cấp hình ảnh kém
chất lượng hơn loại máy ảnh có độ rõ 1152 x 864
dpi. Độ rõ nét cao còn cho phép nhà nhiếp ảnh có
thể in ra hình ảnh lớn bởi vì các điểm màu dày
đặc hơn. Thế nhưng loại hình ảnh thu được theo
độ rõ nét càng cao càng chiếm nhiều chỗ trong
thẻ ghi hình (flash memory) vì vậy phần lớn các
máy ảnh số thường có nhiều cách điều chỉnh để
nhà nhiếp ảnh chọn lựa loại độ rõ nét thích hợp
nhất. Thí dụ khi chỉ cần thứ hình ảnh nhỏ, loại
độ rõ nét thấp, theo tiêu chuẩn thường, cũng đủ
thích nghi với công việc và nhờ vậy cho phép máy
ảnh thu được nhiều hình ảnh hơn, trong khi các
hình ảnh cần in lớn, đòi hỏi nhiều chất lượng,
sẽ cần tới độ rõ nét cao.
Đặc tính thứ ba của loại máy
ảnh số là độ nén dữ kiện (compression) vì nếu
không có đặc tính này, máy ảnh số chỉ có thể lưu
giữ được vài hình ảnh. Nhờ đặc tính nén, các dữ
kiện rườm rà của hình ảnh được loại bớt và hình
ảnh được chuyển qua cỡ quản lý được (manageable
size). Tuy nhiên, cách nén hình ảnh cũng làm suy
giảm phẩm chất của hình ảnh và nhà nhiếp ảnh nên
hiểu rõ nên dùng loại kỹ thuật nén nào.
Máy ảnh số còn có màn hình
LCD (liquid-crystal display = màn hình tinh thể
lỏng) nhờ đó nhà nhiếp ảnh có thể xem xét lại
các hình ảnh đã ghi được và được chứa trong thẻ
ghi hình (memory card) để chắc chắn rằng hình
ảnh đã được ghi chép, và còn có thể loại bỏ
những ảnh nào không vừa ý, để dành thẻ ghi hình
cho việc thu vào các hình ảnh khác. Màn hình LCD
ngoài ra còn cho phép nhà nhiếp ảnh điều chỉnh
độ phơi sáng (exposure) và nhìn thấy cảnh chụp
trước khi bấm máy, nhưng loại màn hình này cũng
tiêu thụ nhiều năng lượng của pin điện.
Khả năng chuyển hình ảnh từ
thẻ ghi hình (memory card) qua máy điện toán là
đặc tính thứ tư. Thông thường, việc chuyển hình
được thực hiện do dùng một sợi dây nối từ máy
ảnh tới bến nối tiếp (serial port) của máy điện
toán, rồi sau khi hình ảnh đã nằm trong máy điện
toán, nhà nhiếp ảnh phải dùng tới một nhu liệu
(software) để biên soạn (edit) các hình ảnh.
Loại nhu liệu phổ thông nhất hiện nay để sửa
chữa, biên soạn các hình ảnh là Photoshop
Elements 4.0.
Khi chụp hình bằng loại máy
ảnh phim, nhà nhiếp ảnh thường nghe thấy tiếng
máy hoạt động, chẳng hạn như tiếng màn trập lúc
ghi hình... nhưng với loại máy ảnh số, việc ghi
hình chỉ được báo bằng một ánh chớp màu đỏ hay
một âm thanh nhẹ, và việc lên phim bàng cách đổi
số tại màn hình trên máy.

Canon EOS 5D 12.8 MP Digital SLR Camera
Giống như loại máy ảnh phim,
máy ảnh số được chia ra làm hai loại: loại
chuyên nghiệp (professional) và loại phổ thông
(consumer). Loại máy chuyên nghiệp SLR có độ rõ
nét cao (high-res digital camera), thường được
dùng trong phòng chụp (studio) hay dùng để chụp
các hình cần in lớn. Giá tiền của loại này hiện
nay khá cao, chẳng hạn như máy Canon EOS-5D
Digital SLR trị giá $3,000 và máy Nikon D-70s,
6.1 megapixels trị giá $1,200, trong khi đó các
máy ảnh số loại 5 megapixels được bán trên thị
trường vào khoảng $500, thí dụ máy Nikon Coolpix
P-1. Ngoài ra còn các loại máy 3 hay 4
megapixels, và tùy thuộc vào mục tiêu chính mà
nhà nhiếp ảnh nên mua loại máy nào.
Tóm lại,
loại máy ảnh số tuy đã có các đặc tính mới nhưng
chưa thể cung cấp các phẩm chất của một máy ảnh
35 mm thông thường. Loại máy ảnh phim vẫn giúp
nhà nhiếp ảnh tạo nên các tấm ảnh màu lớn, hoàn
hảo hơn.
2/
Chọn máy ảnh số.
Vào năm 1991, chiếc máy ảnh số
Logitech Fotoman trị giá vào khoảng $1,000 mỹ
kim mà chỉ thu được một vài hình ảnh đen trắng
và mỗi khi cục pin trong máy hết điện thì các
hình ảnh lưu giữ cũng bị xóa hết. Từ thời gian
này, máy ảnh số được cải tiến rất nhanh, dần dần
trở nên một món đồ chơi thuộc loại kỹ thuật cao
cho đến năm 2003, máy ảnh loại mới này đã vượt
qua loại máy ảnh phim về số lượng được bán ra
trên thị trường. Theo tạp chí Consumer Reports,
dân chúng Hoa Kỳ đã mua vào năm 2004 hơn 20
triệu chiếc máy ảnh số, tức là trong 10 gia đình
Mỹ có 4 gia đình dùng loại máy ảnh này. Như vậy
tiêu chuẩn nào được dùng khi bắt đầu công việc
chọn mua một chiếc máy ảnh số? Hầu như căn cứ
đầu tiên là về con số megapixels.
Hình ảnh được tạo nên do các điểm
màu sắc rất nhỏ, gọi là pixel (chữ tắt của
picture elements). Một megapixel là một triệu
điểm màu. Nếu 4 triệu điểm màu tạo nên một hình
ảnh có diện tích 4 cm vuông thì hình ảnh này khá
rõ ràng, nhưng nếu cùng với số lượng 4
megapixels này trải rộng trên một diện tích 16
cm vuông, hình ảnh sẽ mờ đi. Vì vậy loại máy ảnh
có khả năng ghi nhiều megapixels sẽ cho các hình
ảnh sắc nét hơn.
Máy ảnh loại 1 megapixel chỉ được
dùng trong việc gửi các hình lên trang Web hay
gửi qua Email, loại máy này thường được lắp vào
loại dụng cụ điện tử nhỏ như điện thoại không
dây (wireless phones), sổ ghi PDA, máy quay phim
camcorders. Dù cho chất lượng hình ảnh kém nhưng
sự tiện dụng của loại máy ảnh này rất đáng kể.
Máy ảnh loại 2 megapixels cho hình
ảnh cỡ 4 x 6 in., khá đẹp và tương đương với
loại máy ảnh phim 35 mm phổ thông.
Máy ảnh loại 3 megapixels có khả
năng cho hình ảnh cỡ 5 x 7 in., có thể chụp gần
(close-up shots), thường được dùng trong các
phạm vi thương mại như địa ốc, bảo hiểm…
Máy ảnh loại 4 megapixels cung cấp
các hình với đặc tính chuyên nghiệp, có thể in
lớn tới cỡ 8 x 10 in.
Loại máy ảnh từ 5 megapixels trở
lên, tạo nên các hình ảnh có chất lượng cao,
được các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp sử dụng.
Độ rõ nét
|
Loại vật kính |
Giá tiền |
Công dụng |
2 megapixels |
Tự nhắm rõ, 2x zoom
quang |
$100 - $150 |
Gửi email và web |
3 megapixels |
3x zoom quang (optical
z.) |
Từ $250 |
Hình 4 x 6 in. |
4 megapixels |
3x zoom quang |
Từ $350 |
Hình 5 x 7 in. |
5 megapixels trở lên |
4x – 7x zoom quang |
Từ $500 |
Hình 8 x 10 in. |
Khi thu hình, các máy ảnh số lưu giữ hình ảnh
vào một loại thẻ ghi dữ kiện điện tử (flash
memory) thay vì ghi vào phim. Không giống như
phim, loại thẻ ghi dữ kiện điện tử (memory
cards) có thể dùng lại được do việc chuyển các
hình ảnh qua đĩa cứng (hard drive) của máy điện
toán.
Thẻ ghi dữ kiện điện tử là một loại dụng cụ lưu
giữ các dữ kiện, giống như đĩa CD-R, nhưng mạnh
hơn loại đĩa mềm (floppy disk), lại gọn gàng và
mang theo được, tiện lợi hơn loại điã cứng. Thẻ
ghi dữ kiện điện tử có thể chứa đựng các hình
ảnh, âm thanh, được dùng vào máy ảnh số, sổ ghi
PDA cầm tay, máy quay phim camcorders, máy nghe
nhạc MP-3, máy điện toán xách tay (laptops)… Thẻ
ghi điện tử có nhiều dạng (formats) như
CompactFlash, SmartMedia, MultiMedia (MMC),
Secure Digital (SD), xD-Picture Card và Memory
Stick, với các dung lượng 16 MB, 32 MB, 64 MB,
128 MB, 256 MB, 512 MB và 1 GB. MB là chữ viết
tắt của megabytes (hơn 1,000 kilobytes) và GB là
gigabytes (hơn 1,000 MB).
Như vậy bao nhiêu tấm hình có thể chứa đựng
trong 1 tấm thẻ điện tử? Việc này tùy thuộc vào
dạng lưu giữ và dung lượng của tấm thẻ. Nếu dùng
dạng JPEG để ghi hình, bảng sau đây sẽ cho biết
số lượng tấm hình chụp trong hoàn cảnh thông
thường.
Dung lượng của thẻ ghi hình
Loại máy
ảnh |
16
MB |
32 MB |
64 MB |
128 MB |
256 MB |
512 MB |
1
GB |
2 megapixels |
17
|
35 |
71 |
142 |
284 |
568 |
1137 |
3 megapixels
|
13
|
26 |
53 |
106 |
213 |
426 |
853 |
4 megapixels |
8 |
16 |
32 |
64 |
128 |
256 |
512 |
5 megapixels |
6 |
12 |
25 |
51 |
102 |
204 |
409 |
6 megapixels |
5 |
10
|
20 |
40
|
80 |
160
|
320 |
(các con số là số tấm
hình có thể chụp vào thẻ ghi hình) ghi hình) ghi hình) ghi hình) ghi hình) ghi hình) ghi hình)
3/ Vật
Kính của Máy Ảnh Số.
Các vật kính (lens) của máy ảnh số (digital
camera) thường có độ sáng nhỏ hơn vật kính loại
không-zoom (prime lens) của loại máy ảnh phim.
Thí dụ vật kính thường (non-zooming) có khẩu độ
lớn nhất là f 2 hay f 1.4 thì vật kính của máy
ảnh số có độ sáng f 3.5 hay f 4.5.
Máy ảnh số cũng không có nhiều nấc khẩu độ nhỏ
như f 16, f 22, do kỹ thuật chế tạo, do miếng
nhậy cảm (sensor) của máy ảnh số không đủ nhanh
và do độ đóng (shutter speed) của máy ảnh số
không cần tới các khẩu độ nhỏ, ngoài ra khoảng
rõ của vật kính của máy ảnh số đủ dài nên cũng
không cần tới khẩu độ nhỏ.
Tiêu cự của vật kính máy ảnh số thì ngắn hơn
tiêu cự của máy ảnh phim. Nếu lấy tiêu cự của
máy ảnh số nhân với 1.5 sẽ có tiêu cự tương
đương với loại vật kính dùng phim 35 mm, thí dụ
tiêu cự ngắn nhất của một máy ảnh số là 17mm,
tương đương với: 17 mm x 1.5, tức là tiêu cự
25.5 mm hay 28 mm của vật kính góc rộng.
Đối với vật kính zoom (thu hình lớn/nhỏ) của máy
ảnh số, có 2 loại: “zoom quang” (optical zoom)
và “zoom số” (digital zoom). Một vật kính zoom
thông thường gồm có 10 thấu kính thuộc 8 nhóm,
mỗi nhóm thấu kính này lại di chuyển độc lập với
nhau để cho các độ lớn cần thiết của hình ảnh.
Zoom quang là khả năng làm tăng hay giảm độ
phóng đại (magnification) do chính vật kính tạo
ra, trong khi zoom số chỉ ghi nhận số pixels của
phần diện tích hình ảnh đã được phóng lớn, vì
vậy cho hình ảnh không rõ. Nếu đem 2 số zoom
quang và zoom số nhân với nhau, sẽ có số zoom
chung của vật kính. Thí dụ một máy ảnh có 4x
zoom quang và 3x zoom số, thì số zoom tối đa là
4 x 3 hay 12 x.
Vật kính zoom rất tiện lợi bởi
vì cho các hình ảnh lớn hơn hay nhỏ hơn mà người
chụp ảnh không cần phải tới gần đề tài. Nếu phải
chọn lựa vật kính zoom thì nên xét về số zoom
quang để có được phẩm chất cao của hình
ảnh.
Về kính nhắm, máy ảnh số thường
có 3 loại: kính nhắm quang (optical viewfinder),
kính nhắm điện tử (electronic viewfinder) và màn
hình tinh thể lỏng LCD. Kính nhắm điện tử cho
phép đóng khung đề tài khá nhanh, còn màn hình
LCD đặt ở phía sau của thân máy ảnh giúp cho
việc nhìn trước cảnh chụp và bố cục được chính
xác hơn nhưng khó dùng khi thu hình bên ngoài
trời nắng.
4/ Các
loại thẻ ghi hình điện tử.
Loại máy ảnh phim dùng “phim” để ghi hình, nhưng
loại máy ảnh số dùng nhiều cách lưu trữ hình ảnh
khác nhau, vì vậy trước khi mua một máy ảnh số,
người chơi ảnh cần phải đọc kỹ các đặc tính kỹ
thuật của thứ máy ảnh sắp mua, nhất là xét kỹ
loại thẻ ghi hình (memory card).
Vài máy ảnh số có phần lưu trữ hình cố định, nằm
bên trong máy, nhưng nhiều loại máy ảnh khác
được lắp một thẻ ghi hình lấy ra được khỏi máy
(a removable memory card). Dung lượng của thẻ
ghi hình càng cao thì càng chụp được nhiều hình
ảnh. Khi đã ghi hình vào đầy thẻ, cần phải dùng
thẻ ghi hình mới. Thông thường nhà sản xuất máy
ảnh có kèm theo máy ảnh một thẻ ghi hình với
dung lượng nhỏ, chẳng hạn 16 MB.
Không thể
biết rõ một thẻ ghi hình có thể chụp vô bao
nhiêu tấm ảnh, bởi vì có các yếu tố liên quan,
đó là: độ rõ nét (resolution), khuôn ghi hình
(file format) và tỉ lệ nén (compression ratio).
Các hình ảnh chụp với độ rõ nét cao (high-res
pictures) chắc chắn sẽ tiêu thụ nhiều phần nhớ
hơn các hình ảnh với độ rõ nét thấp (low-res
shots). Các hình ảnh rõ nét cũng là do chụp với
độ nén thấp. Tương tự, phẩm chất của tấm ảnh và
sự tiêu thụ phần nhớ (memory) có liên hệ nghịch
với nhau.
Nếu người chơi ảnh muốn ghi các
hình ảnh có độ rõ nét cao thì nên dùng loại thẻ
ghi hình có dung lượng 512 MB. Phần lớn các thẻ
ghi hình được làm ra do kỹ thuật flash bán dẫn
(solid-state flash technology). Flash là phần
nhớ không xóa (non-volatile memory).
Sau đây là vài loại thẻ ghi hình
chính:
1/
CompactFlash (CF):
đây là loại thẻ ghi hình
thông dụng nhất, cỡ 1.4 x 1.7 inch, thường được
dùng với các máy ảnh số loại tốt. Thẻ CF có 2
thứ: loại I mỏng hơn, dung lượng ít hơn và loại
II, dầy hơn, dung lượng nhiều hơn. Loại thẻ này
có dung lượng lên tới 8 GB với giá tiền tương
đối thấp. Máy ảnh có ngăn dùng loại II CF có thể
dùng cả hai loại mỏng và dầy, trong khi ngăn
loại I CF chỉ có thể gắn vô thẻ ghi hình mỏng.
Nên mua máy ảnh dùng loại thẻ ghi hình CF.
2/
SmartMedia:
cỡ 1.5 x 1.8 inch, là loại thẻ
ghi hình đã có một thời rất phổ biến nhưng sau
đó gặp trở ngại vì dung lượng tối đa là 128 MB.
Các máy ảnh số loại cũ dùng thứ thẻ ghi hình
này.
3/
xD:
cỡ 0.8 x 1.0 inch, là loại nhỏ nhất, được hai
hãng Olympus va Fujifilm sản xuất. Loại thẻ này
nhỏ bằng một con tem, có dung lượng cao tới 512
MB. Nếu dung một khung lắp (adaptor), loại thẻ
này có thể thay thế loại thẻ CF, tuy nhiên việc
thay thế không có lợi bởi vì giá tiền của thẻ xD
đắt hơn.
4/
MultiMedia Card (MMC) và SecureDigital
(SD):
loại thẻ SD cỡ 0.9 x 1.3 inch, là đời
thứ hai của loại thẻ MMC, được sản xuất với dung
lượng tối đa 2 GB, có thể dùng với các dụng cụ
như máy ảnh, sổ ghi cầm tay PDA, máy nghe nhạc
MP3, điện thoại di động.
5/
Memory Stick:
cỡ 0.8 x 2.0 inch. Hãng Sony
đã làm phát triển loại thẻ này để dùng trong
nhiều loại máy như máy ảnh số, máy quay phim
(camcorder), sổ ghi cầm tay PDA và máy nghe nhạc
MP3. Dung lượng của loại thẻ Memory Stick từ 16
MB tới 2 GB.
6/
MicroDrive (MD):
thuộc kỹ thuật đĩa cứng rất
nhỏ (tiny hard drive technology), được hãng IBM
làm phát triển rồi sau này bán cho hãng Toshiba.
Loại thẻ MD cỡ 1.4 x 1.7 inch, không dùng kỹ
thuật flash, nhưng có thể thích hợp với các dụng
cụ dùng thẻ CF loại II. MicroDrive rất được
nhiều ngươi chú ý nhờ dung lượng cao từ 512 MB
tới 4 GB.
Hai loại
thẻ ghi hình thông dụng nhất là CompactFlash
(CF) và SecureDigital (SD). So sánh giá tiền vào
tháng 8/2004 của 3 loại thẻ ghi hình với cùng
dung lượng 128 MB: CF: $30, SD: $35 và xD: $50.
Các thẻ ghi hình không có ảnh
hưởng gì tới phẩm chất của tấm hình. Công dụng
của thẻ là chứa đựng các hình ảnh. Nên định
khuôn (format) thẻ ghi hình trong máy ảnh trước
khi chụp ảnh. Việc xóa hình ảnh cũ (erasing)
bằng máy điện toán có thể còn sót lại vài hồ sơ
ảnh (files) bên trong thẻ.
5/
Các khuôn nén hình.
Mỗi hình ảnh có cỡ (size) của nó. Cỡ
của hình ảnh được đo lường bằng số lượng pixels.
Nếu dùng một máy ảnh 5 PM (megapixels), người
chơi ảnh có các cách chọn lựa về độ rõ nét
(resolution) như sau: 2560 x 1920, 1600 x 2100,
1280 x 960 và 640 x 480 pixels.
Cỡ của hồ sơ ảnh (file size) là
khoảng không gian thực (actual space) đo lường
bằng megabytes, chiếm chỗ trong thẻ ghi hình
(memory card), trong đĩa cứng (hard disk) hay
trong các bộ phận lưu trữ khác (storage media).
Cỡ của một hồ sơ ảnh tùy thuộc vào hai yếu tố,
đó là độ rõ nét và cấp độ phẩm chất/độ nén
(quality/compression). Để có thể chứa được nhiều
hình ảnh hơn trong thẻ ghi hình, người chơi ảnh
có thể làm giảm cỡ của hồ sơ ảnh bằng cách giảm
độ rõ nét hay dùng phẩm chất thấp/độ nén cao.
Phẩm chất của hình ảnh (image
quality) là độ rõ nét thực sự sau khi đã bị nén
(compressed) và phục hồi trong bộ phận biên soạn
hình ảnh (image editor).
Công việc nén các dữ kiện của hình
ảnh được thực hiện bằng hai cách chính: cách nén
không hao tổn (lossless compression) như dùng
khuôn RAW và khuôn TIFF, và cách nén hao tổn
(lossy compression) bằng khuôn JPEG.
RAW là một khuôn hồ sơ ảnh không
tiêu chuẩn hóa (non-standardized file format),
không tiết kiệm chỗ trong thẻ ghi hình. RAW tùy
thuộc vào hãng sản xuất máy ảnh số, cần tới thứ
nhu liệu đặc biệt để làm ra các hình ảnh tốt đẹp
nhất. Ngoài khuôn RAW ra, có sáu thứ khuôn
(formats) khác.
1/
TIFF (Tagged Image File
Format) được nghĩ ra do Aldus vào năm 1987,
thuộc quyền sở hữu của hãng Adobe. Đây là khuôn
tiêu chuẩn không hao tổn (lossless) để trao đổi
các hồ sơ ảnh, cho các hình ảnh có phẩm chất cao
nhất nhưng không dùng trên mạng (web browsers).
Khuôn TIFF có thể chứa các hồ sơ 64-bit màu,
dùng được với các cách RGB, CMYK, LAB và rất
uyển chuyển.
2/ JPEG (Joint Photograhic
Experts Group). Vào năm 1991, một liên hiệp các
công ty gọi tên là JPEG đã làm phát triển một
cách nén hữu hiệu các hình ảnh có sắc độ liên
tục (continuous tone images) mà vẫn giữ nguyên
phần thông tin giá trị nhất của các hình ảnh.
Tại mức độ phẩm chất cao nhất, một hồ sơ TIFF
chiếm 14 MB trong thẻ ghi hình và cho hình ảnh
đẹp tương đương như một hồ sơ JPEG chiếm 4 MB.
Như vậy nếu dùng khuôn JPEG, người chơi ảnh có
thế chứa được 14 lần hơn số hình ảnh nếu dùng
khuôn TIFF.
3/
GIF (Graphic Interchange
Format): thuộc loại tổn hao (lossy), đổi các
hình ảnh thành hồ sơ ảnh (files) với số lượng
màu tối đa là 256 màu, không cho các hình ảnh có
sắc độ liên tục, thường được dùng trên Web. Bởi
vì hồ sơ ảnh không thể có hơn 256 màu, do vậy
không nên dùng khuôn GIF cho máy ảnh số.
4/
EPS (Encapsulated
PostScript): thuộc loại không hao tổn
(lossless), dùng được với các cách RGB, CMYK và
LAB, chứa hồ sơ màu 64 bit.
5/
BMP (Bitmap): được hãng
Microsoft khai triển thành một khuôn hồ sơ ảnh
tiêu chuẩn (a standard bitmap file format) để
chạy các máy điện toán dùng hệ điều hành Window.
Khuôn BMP dùng được với cách RGB, có cỡ hồ sơ
ảnh lớn hơn loại JPEG.
6/
PDF (Portable Document
Format): là khuôn đầu tiên được hãng Adobe khai
triển, thường được dùng với nhu liệu Adobe
Acrobat Reader để trình bày các tài liệu. Người
ta thường nạp xuống (download) các mẫu in thuế
IRS, các sách chỉ dẫn sử dụng (instruction
manuals) hoặc các tài liệu khác viết bằng khuôn
PDF. Như vậy khuôn PDF được dùng để coi hay đọc
các tài liệu.
Tóm lại, khuôn RAW không nén các
hình ảnh nên hồ sơ ảnh có dung lượng rất lớn,
chỉ được dùng cho các nhu cầu đặc biệt. Khuôn
TIFF chứa các dữ kiện bằng dung lượng nhỏ hơn,
là cách nén không hao tổn, vì vậy khi biên soạn
(edit) các hình ảnh quan trọng, nên lưu trữ
(save) các hình ảnh này bằng khuôn TIFF với một
tên mới, và hồ sơ sẽ được ghi rõ là “hình.tif”.
Khuôn JPEG là thứ phổ thông nhất, có thể chứa
nhiều mức độ phẩm chất tùy theo cách thay đổi độ
nén. Một hình ảnh được lưu trữ bằng khuôn JPEG
sẽ có đuôi hồ sơ như sau: “hình.jpg”.
Như vậy, lần lưu trữ thứ nhất nên
dùng khuôn TIFF, lần thứ hai với khuôn JPEG.
Dùng các hồ sơ ảnh JPEG, người chơi ảnh có thể
gửi hình qua email, đưa hình lên website hay
chia sẻ các hình ảnh bằng các phương tiện như
PhotoSite, Ofoto hay Shutterfly./.