Lời nói đầu
A.- Quyền con người
I.- Tự do
1.- Tự
do ý kiến - tín ngưỡng
a. Đối với lễ tục
b. Đối với vấn đề xuất xử
2.- Tự
do ngôn luận
a. Bắt bẻ từ ngữ
b. Chê khéo
c. Kể tội
d. Cảnh cáo
II.- Bình đẳng
1.
Bình đẳng trước pháp luật
2.
Bình đẳng về phẩm cách
3
.Trường hợp bất bình đẳng
a. Bất bình đẳng, vì khả năng, chức phận
khác nhau
b. Bất bình đẳng, vì ngoại cảnh nhận chìm
bản tính
c. Dù bất bình đẳng, vẫn không nên khinh
mạn nhau
III.- Tư hữu
1.-
Tranh đấu cho Tư hữu
2.-Tư
hữu hóa để cải tiến dân sinh
IV.- An ninh
1. Tôn
trọng sinh mạng nguời dân
2. Tôn
trọng đời sống của dân
3. Một
cuộc sống được giáo hóa yên lành vui thỏa
V.- Chống lại mọi
áp bức
1. Bất
hợp tác
2.
Phản ứng quyết liệt
B.- Quyền Công dân
I.- Quyền tham gia
quản trị quốc gia
II.- Quyền can
thiệp vào việc quản trị quốc gia
C.- Tinh thần Dân quyền ở Việt Nam
I.- Vấn đề Trung
quân
1.-
Nho sĩ
2.-
Dân gian
3.-
Học thuật
II.
-Tổ chức Hương thôn
1.-
Bầu Lý trưởng
Truyện con công và làng chim
Truyện Lý trưởng khướu
2.-
Bầu hương ước
3.-
Quyền ứng thí
4.-
Quyền đổi giai cấp
Lời nói đầu
Thời Xuân Thu
(722- 479 tr. TL) là thời rối loạn nhất trong
lịch sử Trung Hoa, các vua chư hầu có chừng một
trăm nước, nhưng đến thời Chiến Quốc (479- 221
tr. TL) chỉ còn lại bảy nước, là Sở, Hàn, Ngụy,
Yên, Tần, Tề. Các vua chư hầu thời ấy đua nhau
tìm người tài giỏi giúp cho nước mình hùng mạnh
hơn các nước khác để chiếm quyền bá chủ, do đó
các du sĩ, thuyết khách rất được tôn trọng, được
tự do trình bày học thuyết của mình, tranh luận
với các vua chư hầu. Có người đề xướng chủ nghĩa
'vô vi nhi trị' như Lão tử, Trang tử (Đạo gia),
có người muốn đem 'thuyết nhân nghĩa' thực dụng
ra cứu đời như Khổng tử, Mạnh Tử (Nho gia)
v.v... lại có người muốn 'dùng hình pháp' nghiêm
khắc ra dẹp loạn như Hàn Phi tử (Pháp gia)...
tạo nên một 'thời đại hoàng kim' trong
lịch sử tư tưởng Trung quốc.
Nho gia cũng
như Đạo gia chẳng hạn, khi đề xướùng đến giải
pháp chính trị, đều lấy dân làm đối tượng,
còn Pháp gia thì quan niệm phải đứng trên cương
vị nhà vua mà hoạch định kỹ thuật cai trị.
Phần đông các
vua chư hầu đều chịu khó nghe. Nhưng cuối cùng
không mấy vua chịu làm theo. Khổng-tử (551-479
tr. TL) mở trường dạy, phổ biến rộng rãi chủ
trương tôn quân, trọng phẩm vị con người,
đưa ra những phương pháp nhân bản sửa đổi lối
cai trị mà ông cho là mục nát. Một trăm năm sau,
kế nghiệp Khổng-tử để phát huy Nho giáo,
Mạnh Tử (372-289 tr. TL) khai triễn học thuyết
của Khổng-tử, đề xướng một thể chế trọng dân,
khinh quân, hô hào chủ nghĩa Nhân quyền
tôn trọng phẩm vị, quyền lợi của người dân.
Nhưng dưới chế
độ phong kiến, quân chủ chuyên chế, từ thời
Chiến Quốc (479- 221 tr. TL) cho đến cuộc cách
mạng dân chủ năm Tân Hợi (tháng ba 1911), các
vua Trung Hoa dựa vào Khổng giáo để cai trị,
chương trình giáo huấn và thi cử chỉ toàn là học
thuyết của Khổng tử, còn học thuyết về chính trị
trọng dân, khinh quân của Mạnh Tử tuyệt nhiên
không được công khai đề cập đến.
Ở Tây phương,
trong các bản Tuyên ngôn về dân quyền,
nhất là các bản 1789,1791, 1793 của Pháp thường
đặt vấn đề ‘Dân quyền' thành hai phần
chính : Quyền con Người và Quyền Công dân:
▪ Về Quyền
con Người, chính yếu có các quyền Tự do,
Bình đẳng, Tư hữu, An ninh, Chống áp bức,
vốn là những Tự do tự nhiên, mà được xem như là
những quyền thực định (pouvoirs pratiques).
▪ Về Quyền
Công dân, có các quyền ‘tự do tham gia’
như quyền bầu luật lệ, quyền được tuyển làm
công chức, và quyền 'tự do-tự quyết định' hay
‘can thiệp’ như các quyền bầu thuế khóa,
quyền chất vấn các nhân viên chính phủ.
Để tiện việc
trình bày, chúng tôi dựa theo bố cục nầy mà khai
triển Chủ trương Dân quyền của Mạnh Tử, như
sau :
A.- Quyền con người
I.- Tự do
Tuyên ngôn 1789 của Pháp định nghĩa ở điều 4:
'Tự do là có thể làm tất cả những gì không hại
đến người khác.' Một định nghĩa thật hay
nhưng chưa rõ ràng. Cho nên sau đó, có thêm một
số điều khoản về 'tự do' cụ thể hơn, như Tự do ý
kiến - tín ngưỡng (điều 10), và Tự do ngôn luận
(điều 11), v.v...
Đối
với các ‘tự do’ nầy, ngày xưa Mạnh Tử đã chủ
trương như thế nào ?
1.- Tự do ý kiến - tín
ngưỡng.
Mạnh Tử chủ trương không chấp nhất, không
câu nệ theo tín ngưỡng, lễ giáo, tập tụng cứng
rắn của Nho gia, mà luôn luôn đưa ra những ý
kiến tự do phóng khoáng, trái ngược với 'nề nếp
thông thường của người đời':
a.
Đối với lễ tục .
Xưa ông Thuấn cưới con
gái vua Nghiêu mà không xin phép cha mẹ, theo lễ
giáo như vậy là một sự thất lễ lớn. Vạn Chương
đem việc ấy hỏi Mạnh Tử. Mạnh Tử đáp : 'Vì nếu
ông Thuấn có thưa với cha mẹ thì chẳng được phép
cưới vợ (cha đần độn, mẹ ghẻ độc ác, nếu xin
phép cũng chẳng cho). (MT, Vạn Chương thg, t.
2).
Mạnh Tử giải thích thêm rằng ông Thuấn làm như
thế, chẳng qua là vì lẽ vô hậu. (theo Mạnh
Tử
'bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại' nghĩa là bất
hiếu có ba trường hợp : không có con nối dòng là
tội vô hậu, nặng nhất, sau đó là tội làm điều
xấu xa nhục đến cha mẹ, và tội mình không ra
làm quan để nuôi cha mẹ già yếu' (MT, Ly Lâu
thg, t. 26). Ở trường hợp nầy, ông Thuấn được tự
do kết hôn mà không thất lễ với cha mẹ. '
Thuần Vu Khôn (nhà biện thuyết nước Tề) hỏi Mạnh
Tử rằng : 'Kẻ nam, người nữ chẳng được chuyền
tay mà trao đồ cho nhau, đó là lễ phải chăng ?'
Mạnh Tử đáp : 'Đó là lễ vậy'. - 'Như chị dâu
chới với dưới nước, mình có nên đưa tay ra cứu
vớt chăng ?' - Mạnh Tử đáp: 'Chị dâu chới với
sắp chết chìm, mà chẳng đưa tay ra tiếp cứu,
người như thế quả là loài chó sói rồi vậy. Nầy,
kẻ nam người nữ chẳng được chuyền tay mà trao đồ
cho nhau đó là lễ thường xưa nay. Còn chị dâu
chới với mà mình đưa tay ra tiếp cứu, đó là
phép quyền biến vậy (tức là tự do tùy theo
trường hợp mà hành động khác đi cho đúng lẽ
phải)'. (MT, Ly Lâu thg, t. 17).
b.
Đối với vấn đề xuất xử .
Ngày xưa kẻ sĩ
ra đời, quan trọng nhất là phải chọn lựa giữa
hai con đường: xuất, thi đậu, gặp được một
minh quân, thì ra làm quan để thi hành chánh
đạo giúp vua đem lại hạnh phúc cho nhân dân;
xử, hỏng thi, hay rủi gặp một hôn quân, thì
đi ở ẩn, đem đạo lý thánh hiền dạy lại dân
chúng. Kẻ sĩ phải xử sự đúng như thế. Nhưng
Mạnh Tử đã từng phê phán về vấn đề xuất xử như
sau: «Ông Bá Di, vua chẳng đáng thờ thì chẳng
thờ, dân chẳng đáng trị thì chẳng trị. Trái lại,
ông Y Doãn cho rằng vua nào chẳng phải là vua
mình phục sự được? dân nào chẳng phải là dân
mình sai khiến được ? Trời vốn sanh ta là người
trong bậc tiên giác, ta phải theo đạo lý của ta
mà giác ngộ cho dân chúng, nếu để dân khốn khổ
là trách nhiệm của mình. Vậy, Y Doãn là bậc
thánh có «đức trọng nhiệm»! Còn ông Huệ xứ Liễu
Hạ chẳng lấy làm xấu hổ mà phục sự một vua ô
trược. Dẫu làm một chức quan nhỏ thấp, ông cũng
chẳng chê. Ba ông tuy đi khác đường với nhau,
nhưng mục đích vẫn là một. Đó là nói về lòng
Nhân vậy. Người quân tử chỉ chú mục điều
nhân mà thôi. Còn về hành động thì tự do,
cần chi phải giống nhau. (MT, Cáo Tử, ha.
t.6).
Nhưng đây là trường hợp ông Y Doãn phục sự một
ông vua biếng nhác, ham chơi, hoặc nhu nhược,
háo sắc, v.v... ông nghĩ rằng ông đủ sức can
ngăn, hướng dẫn. Nhưng theo Mạnh Tử, người quân
tử phải chú mục điều Nhân mà thôi, nếu gặp một
vua bất Nhân, độc tài, tàn ác, ông Y Doãn chưa
kịp nói, vua đã ra lệnh chặt đầu rồi. Nếu ông Y
Doãn ép mình phục sự một ông vua bất Nhân, thì
hóa ra ông tiếp tay cho kẻ bạo ngược tàn sát dân
lành. Cho nên, Mạnh Tử khuyến cáo như sau:
: «
Những người thờ vua ngày nay
đều
nói rằng : 'Tôi có thể giúp vua mở mang ruộng
đất,
và làm cho kho tàng của vua
được
đầy
đủ'.
Đời
nay, người ta khen những viên quan ấy là lương
thần,
đời
xưa, người ta chê họ là bọn giặc cướp làm
hại dân lành. Nhà vua mà không qui hướng
theo
đạo
đức,
chẳng lập chí làm Nhân, mà mình tìm cách làm
giàu cho vua,
đó
là
mình làm giàu cho tên Kiệt
vậy.
«Lại có những người khác bảo rằng : 'Tôi có thể
giúp vua liên minh với các nước mạnh, nhờ vậy
nếu xảy ra chiến tranh, nhất
định
mình sẽ thắng'.
Đời
nay, người ta khen viên quan ấy là lương thần,
đời xưa, người ta chê họ là kẻ cướp của dân.
Nhà vua mà không qui hướng theo
đạo
đức,
chẳng lập chí làm Nhân, mà mình tìm cách làm cho
vua
được
cường mạnh về chiến tranh,
đó
là
mình phò tá một tên Kiệt vậy.
«
Như một vị vua chư hầu chỉ noi theo phép tắc
đời
nay, chẳng chịu biến cải thói tục
đồi
xưa, có đem thiên hạ mà cho vị vua ấy, thì vua
kia cũng không
đủ
sức giữ an ninh quá một buổi mai
được
(tức là không lâu dài được) » (MT, Cáo
Tử hạ, t. 9)
2.- Tự do ngôn luận.
Nếu 'tự do ý kiến, tư tuởng' nằm trong những lời
phát biểu ý kiến hay tư tưởng của Mạnh Tử về một
số vần đề luân lý, tín ngưỡng hay ứng xử hơn
thiệt, thì 'tự do ngôn luận' của Mạnh Tử có lẽ
nằm trong các câu ngang tàng và rất tự do
mà ông thường dùng để chỉ trích vua quan đương
thời:
a.
Bắt bẻ từ ngữ.
Mạnh Tử đến yết kiến Lương
Huệ vương, vua hỏi : 'Ông chẳng ngại đường xa
đến đây, ắt cũng có phương pháp chi để làm lợi
ích cho nước tôi chớ gì?'. Mạnh Tử đáp: Vua cần
gì phải nói việc lợi? Hãy nói việc nhân nghĩa mà
thôi. Nếu ở trên, bậc quốc vương nói rằng có
cách gì làm lợi cho nước ta? Kế đó, hàng đại phu
nói rằng có cách gì làm lợi cho gia tộc ta? Sau
đó, hàng sĩ và hạng bình dân nói rằng có cách gì
làm lợi cho thân phận ta? Như vậy, từ trên tới
dưới đều tranh nhau vì mối lợi, ắt vận nước
phải lâm nguy đó. (MT, Lương Huệ vương, thg. t.
1).
b.
Chê khéo.
Lần khác, Lương Huệ vương đang
đứng tên bờ hồ nhìn chim hồng, chim nhạn, nai,
hươu. Thấy Mạnh Tử đến, vua hỏi: 'Người hiền có
nên vui cảnh nầy không?' Mạnh Tử đáp: 'Nhà vua
phải là người hiền đức, rồi mới nên vui hưởng
cảnh nầy. Nếu chẳng phải người hiền, dầu cảnh
như vậy, cũng chẳng vui hưởng đó.' (MT, Lương
Huệ vương, thg. t.2).
c.
Kể tội .
Vua Mục công nước Trâu hỏi
Mạnh Tử phải xử phạt thế nào những tên lính thấy
chủ soái lâm nguy, không chịu liều thân cứu để
bị quân địch giết chết, Mạnh Tử trả lời: 'Trong
những năm tai biến, ruộng đất bỏ hoang, mùa màng
thiệt hại, dân chúng của vua, người già yếu nằm
chết ngang dọc đường mương lỗ cống, kẻ trai
tráng tản lạc khắp bốn phương, số nạn nhân già
trẻ đến mấy ngàn người rồi. Trong lúc đó, vựa
lúa của vua đầy tràn lúa gạo, kho tàng của vua
thì dư dật của tiền. Thế mà quan chức của vua
không hề báo cáo với vua. Đó là kẻ bề trên coi
rẻ mạng người và tàn hại lê dân như vậy. Thầy
Tăng-tử xưa có nói rằng : 'Phải coi chừng !
Phải coi
chừng ! Ngươi làm cho ai việc gì, thì việc ấy sẽ
trả lại cho ngươi như thế' Này, nay dân chúng
chẳng tiếp cứu quan chức, đó là họ trả lại các
quan chức đã bỏ bê họ vậy.
Cho
nên vua chớ nên buông lời phiền trách họ' (MT,
Lương Huệ vương hạ, t. 12)
d.
Cảnh cáo.
Với các vua chúa thời bấy giờ,
đại khái Mạnh Tử bảo rằng : Ngài ưa sắc đẹp cũng
không hại, ưa thích của cải cũng không hại, ưa
thích ruộng đất, đi săn cũng không hại, ưa thích
du ngoạn cũng không hại. Nhưng trong lúc ưa sắc
đẹp ngài nên nhớ trong nước đang có cảnh chồng
vợ phân ly, trong lúc ưa thích của cải ngài nên
nhớ trong nước có cảnh lầm than đói rét; trong
khi săn bắn giải trí, ngài nên nhớ trong nước
đang có cảnh cha con, anh em, chồng vợ chia ly
đau khổ. Nói tóm lại ngài cần nên suy xét chín
chắn việc làm của ngài, như vậy ngài mới thi
hành được chính sách 'nhân chính'. (MT, Lương
Huệ vương, hạ t.5).
II.- Bình đẳng
Trong các bản Tuyên ngôn 1776, 1789, 1948, 'tự
do', 'bình đẳng' đều được ghi ngay ở điều 1, một
cách tổng quát. Nhưng riêng trong bản 1789, có
hạn định rõ hơn 'bình đẳng trước Pháp luật'. Về
sau, bản 'Tuyên ngôn 1948 của Liên hiệp quốc
(ONU) cũng ghi thêm : 'bình đẳng về phẩm cách và
quyền lợi ' (mà thôi).
Ngày xưa, Mạnh Tử đã nghĩ về vấn đề nầy như thế
nào ?
1.
Bình đẳng trước pháp luật .
Đào Ứng , một
môn đệ của Mạnh Tử, hỏi ông: 'Vua Thuấn làm
thiên tử, ông Cao Dao coi về hình phạt, nếu ông
Cổ Tẩu là cha vua Thuấn giết người, thì ông Cao
Dao xử cách nào ? Mạnh Tử đáp : 'Cứ theo phép mà
thi hành chớ có gì đâu?' Đào Ứng lại hỏi : 'Vậy
vua Thuấn không ngăn cản ư ?' Mạnh Tử đáp : 'Vua
Thuấn ngăn cấm sao được ? Pháp luật truyền lại
thế nào thì phải thi hành thế ấy'' (MT, Tận Tâm
thg, t.. 35). Theo Mạnh Tử, mọi người đều bình
đẳng truớc pháp luật, dầu là cha của vua, cũng
phải bị xét xử như mọi người, nhà vua không thể
can thiệp.
Ngoài ra đây cũng là chủ trương Tam quyền phân
lập. Mạnh Tử đã ý thức rõ ràng cần phải tách
rời quyền Hánh chánh (quyền nhà vua) và quyền
Lập pháp (Pháp Luật), ra khỏi quyền Tư pháp
(quyền của thủ tướng Cao Dao, kiêm nhiệm quan
tòa xét xử) một điều kiện căn bản của chế độ
Dân Chủ, bảo đảm cho an ninh cá nhân , như đã
ghi trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của tiểu bang
Maryland, Hoa Kỳ tháng 11 năm1776, (điều 6)
'quyền lập pháp, quyền tư pháp và quyền hành
chánh phải tách tời ra và khác biệt nhau '.
2.
Bình đẳng về phẩm cách.
Theo Mạnh Tử: ‘
Phàm những giống đồng loại đều mang một bản tinh
giống nhau. Tại sao đối với con người, ta lại
nghi ngờ về điểm ấy ? Các bậc thánh nhân và
chúng ta đều đồng loại, cho nên Long-tử có nói
rằng : «Dù không biết ni tấc của bàn chân mà đan
dép rơm, ta cũng biết chắc rằng không thể nào có
thể biến thành cái giỏ ». Những chiếc dép đồng
dạng với nhau, vì các bàn chân của người trong
thiên hạ đều giống nhau...’ (MT, Cáo tử, thg
t.7).
Như
vậy, về bản tính con người bình đẳng, tức là
cùng có phẩm cách ngang nhau. Ông nói : «
Thánh nhân dữ ngã đồng loại giả » nghĩa là thánh
nhân đồng loại với chúng ta. Vua Nghiêu và vua
Thuấn cũng giống như mọi người thôi, ta cũng là
người, nếu cố gắng thì ta cũng như Ngài.” (MT,
Cáo Tử, thg t.7)
3 -
Trường hợp bất bình đẳng .
Các bản Tuyên
ngôn 1789 của Pháp, và 'Tuyên ngôn 1948 của Liên
hiệp quốc (ONU) hạn định chỉ bình đẳng trong
phạm vi pháp luật, và trong phạm vi phẩm
cách mà thôi, tức là ở các phạm vi khác thì
bất bình đẳng. Mạnh Tử cũng chủ trương một số
ngoại lệ tương tự như thế, tức là có trường hợp
bất bình đẳng:
a.
Bất bình đẳng, vì khả năng, chức phận khác
nhau .
Mạnh Tử nói : ' Bậc cai trị thiên hạ
có thể một mình vừa cày ruộng, vừa lo việc hành
chính được chăng? Có việc của người làm bằng tâm
trí, có việc người làm bằng chân tay. Người làm
việc bằng tâm trí quản trị dân chúng, người làm
việc bằng chân tay thì chịu quyền điều khiển. Kẻ
chịu quyền điều khiển có phận sự cung cấp người
bề trên. Nhà quản trị dân chúng được dân chúng
phụng dưỡng. Đó là lẽ thông thường trong thiên
hạ vậy' (MT, Đằng Văn công, thg, t. 4).
b.
Bất bình đẳng, vì ngoại cảnh nhận chìm bản
tính.
Mạnh Tử lại nói : 'Trong những năm dư
giả, hạng con em nhiều người tử tế ; trong những
năm túng ngặt, hạng con em trở nên hung bạo.
Chẳng phải Trời phó cho họ tính chất khác nhau.
Mà vì hoàn cảnh nguy khổ nhận chìm cái bản tính
lương thiện của họ, cho nên nhiều kẻ mới trở nên
hung bạo như thế. Tỷ như người ta đem lúa mâu
và lúa mạch ra mà gieo rồi lấp đất lại. Đất như
nhau, cùng trồng lúa một lượt với nhau... tuy
vậy số lúa gặt được có chỗ nhiều, chỗ ít. Khác
nhau như thế, chẳng do nơi bản tính của hạt lúa,
mà do những nhân duyên bên ngoài, như đất chỗ
nầy béo tốt, chỗ kia chai phèn, mưa và sương bồi
dưỡng miền nầy thiếu mà miền kia đủ, cùng là
công phu săn sóc chẳng đồng đều vậy’.
c.
Dù bất bình đẳng, vẫn không nên khinh mạn
nhau.
Tuy về phương diện tuổi tác, chức
tước, đẳng cấp (trí thức-lao động), đạo đức, con
người đều bất bình đẳng, song Mạnh Tử khuyến
cáo: ‘Thiên hạ đều tôn trọng ba việc nầy: tước
vị, tuổi tác và đạo đức. Tại triều, tước vị được
quí nhất; ở làng xóm, tuổi tác được trọng nhất;
còn bàn về việc phù trợ vua, giáo hóa dân, thì
đạo đức được kính nể hơn hết. Kẻ chỉ được thiên
hạ tôn trọng vì một việc (như vua Tề chỉ có cái
tước vị vua) lại đi khinh mạn người được hai
việc khác (tức ta có đến hai việc đáng tôn
trọng: tuổi tác và đạo đức) sao ? (MT, Công Tôn
Sửu hạ, t. 2).
III.- Tư hữu
Điều 2 trong Tuyên ngôn 1789, trình bày 'Tư
hữu' như một 'quyền tự nhiên, không hề bị mất
hiệu lực'. Ở điều 17, Tư hữu được coi như một
'quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng', điều
17 của bản Tuyên ngôn qui định rằng: 'Tư hữu chỉ
có thể truất bỏ vì lý do 'sự cần thiết cho quốc
gia' và lý do ấy được công nhận là chính đáng,
nhưng phải được đền bù thích đáng'.
Mạnh Tử trước đây đã quan niệm về quyền tư hữu
như thế nào?
1.-
Tranh đấu cho Tư hữu.
Mạnh Tử xưa cũng
tranh đấu cho tư hữu song dưới cạnh khía đạo
đức chính trị quí trọng dân. Ông nói rằng:
Nếu không có của cải bền vững, nhưng có lòng dạ
bền vững, duy kẻ sĩ mộ đạo mới được như thế mà
thôi. Còn người thường dân, nếu không có của cải
bền vững, thì họ chẳng giữ được lòng dạ bền
vững, họ trở nên buông lung, tà vạy, xa xỉ,
không có việc ác nào mà họ chẳng dám làm. Tới
chừng đó họ vướng vào tù tội, nhà cai trị cứ
chiếu theo luật pháp mà hành hình họ. Đó là
nhà cai trị bủa lưới gài bẩy dân vậy. Nếu có
một bậc nhân đức ngự trên ngôi vị, người ấy há
nở lòng nào bủa lưới gài bẩy dân sao? Bởi vậy,
đấng minh quân chế định điền sản mà chia cho dân
cày, khiến họ trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới
đủ nuôi nấng vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi
mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi phải nạn
chết đói ' (MT, Lương Huệ vương thg. t 7)
2.
Tư hữu hóa để cải tiến dân sinh.
Mạnh Tử
còn đưa ra một chương trình thực hiện:
'Nếu chính phủ chẳng đoạt mất thì giờ cấy gặt
của những gia đình làm ruộng trăm mẫu, thì trong
nhà tám miệng ăn chẳng đến nỗi đói khổ. Nếu
chính phủ cẩn thận lo việc giáo dục trong các
truờng học là trường công và trường tư, cần nhất
là dạy về nết hiếu và nết để, thì những
người đầu bạc hoa râm khỏi phải đội nặng, gánh
nhọc mà đi bộ trên đường xa. Trong nước người
già cả có lụa mà mặc, có thịt mà ăn, và dân đen
khỏi đói, khỏi lạnh, thì thế nào nền cai trị
cũng được thịnh vượng. (MT, Lương Huệ vương thg.
t 7). Mạnh Tử bênh vực quyền tư hữu không
nhằm vào tư bản thành thị mà mục đích cải tiến
đời sống của dân nghèo cực ở thôn quê, về
vật chất cũng như về phương diện giáo hóa. Đối
tượng để thuyết phục vẫn là các vua chúa, các
nhà cầm quyền đương thời.
IV.- An ninh
Các
Tuyên ngôn 1789, 1791, 1793, thuộc về an ninh,
có kể đến quyền không bị bắt giam một cách độc
đoán' (đ. 8), không bị tra tấn, hành hung (đ.
5), có quyền được pháp luật che chở (đ. 7). có
quyền làm việc (đ. 23), có quyền nghỉ ngơi (đ.
24), có quyền được đủ ăn, sinh sống cho mình và
cho gia đình (đ. 25) có quyền được giáo hóa (đ.
26). Tuyên ngôn 1776 của Mỹ ghi thêm 'Quyền sinh
sống và đi tìm hạnh phúc' (đ.1).
Ngày xưa Mạnh Tử đã bàn về vấn đề nầy như thế
nào?
1.
Tôn trọng sinh mạng nguời dân.
Trước tiên
và quan trọng nhất đối với dân chúng thời bấy
giờ an ninh là không bị chém giết một cách
bất công, không bị hình phạt tàn nhẫn, tàn sát
vì chiến tranh do các vua say mê tư dục gây nên.
Mạnh Tử luôn luôn nhắc lại với các nhà cầm
quyền đương thời lời dạy của Khổng-tử: 'Muốn cai
trị cần chi phải dùng sự chém giết. Nếu nhà vua
làm thiện thì dân chúng sẽ trở nên thiện hết.'
(Luận Ngữ, XIV Nhan Uyên, t. 18). Với Tề Tuyên
vương, có lần Mạnh Tử gạn hỏi: 'Vua định gây ra
chiến tranh, làm hại mạng tướng sĩ và binh lính,
kết thù oán với các nước chư hầu, có như vậy vua
mới thỏa dạ sao? (MT, Lương Huệ vương thg. t 7)
2.
Tôn trọng đời sống của dân.
Mạnh nói với
Lương Huệ vương : 'Bậc làm Vua cần phải thi
hành phép cai trị nhân đức đối vơi dân: giảm
hình phạt, bớt thuế liễm, khiến dân siêng lo
việc cày sâu cuốc bẫm, làm vườn làm tược...thì
mọi người trong thiên hạ sẽ quay đầu ngưỡng cổ
trông về vị ấy, tràn trề hy vọng (MT, Lương Huệ
vương thg. t 6). (Nhưng) 'Hiện nay có nhà vua
để cho loài chó heo ăn hết đồ ăn của người, mà
chẳng biết cấm ngăn; còn trên đường thì nằm đầy
những kẻ chết đói, thế mà vua chẳng chịu xuất
lúa ra mà phát chẩn cho dân. Dân chết, vua nói
rằng : Chẳng phải tại ta, tại năm thất mùa đó'.
Như vậy có khác nào kẻ đâm người ta cho đến
chết, tồi nói rằng : ‘Chẳng phải tại ta, tại mũi
dao đó thôi' (MT, Lương Huệ vương thg, t. 3).
'Nếu nhà vua làm chậm trễ công việc làm ăn sinh
sống của dân, khiến cho việc cày cấy bê trễ,
nghèo đói, không có của cải bền vững, thì lòng
dạ họ trở nên buông lung, tà vạy, xa xỉ, chẳng
có việc ác nào mà chằng dám làm. (MT, Đằng Văn
công thg, t. 3) thì làm sao có an ninh được!
3.
Một cuộc sống được giáo hóa yên lành vui
thỏa.
Mạnh Tử nói :Cai trị giỏi thâu hoạch
dân chúng bằng cách giáo hóa. Cai trị
bằng cường quyền khiến cho dân sợ sệt, giáo hóa
bằng nhân đức làm cho dân yêu mến. (MT, Tận Tâm
thg, t. 14). Và nếu chính phủ cẩn thận lo việc
giáo dục trong các truờng học, cần nhất là dạy
về nết hiếu và nết để, thì những người đầu bạc
hoa râm khỏi phải đội nặng, gánh nhọc mà đi bộ
trên đường xa. Trong nước người già cả có lụa mà
mặc, có thịt mà ăn, và dân đen khỏi đói, khỏi
lạnh, thì thế nào nền cai trị cũng được thịnh
vượng. (MT, Lương Huệ vương thg. t 7). Làm phát
huy tính thiện trời đã phú cho con nguời (nhân
chi sơ tính bản thiện), đề người dân có lòng
trắc ẩn (lòng thương người, có lòng chẳng nỡ đối
với kẻ khác), tỉ như thấy một đứa bé rơi xuống
giếng, ai cũng động lòng thương xót, muốn cứu,
nếu không cứu thì tự nhiên ta thấy xấu hổ. Không
biết xấu hổ, không phải là con người. Một khi
biết xấu hổ khi phạp pháp, người dân sẽ trở nên
thiện, xã hội có an ninh, trật tự, đời sống của
dân sẽ yên lành . (Công Tôn Sửu, thg, t. 6).
V.- Chống lại mọi áp bức
Tuyên ngôn 1776 của Hoa Kỳ trong điều 1, ghi rõ
hơn : 'Chúng ta' có bổn phận tự chống lại mọi
áp bức bất công
Mạnh Tử chủ trương chống lại mọi áp bức bất
công như thế nào?
1.
Bất hợp tác .
Trước tiên, theo Mạnh
Tử,
nếu vua ra lệnh giết những nhà trí thức vô tội,
thì quan đại phu nên bỏ đi, nếu vua ra lệnh giết
người bình dân vô tội, thì hàng trí thức nên
liệu mà dời chân, không cộng tác (MT,Ly Lâu hạ,
t4).
2.
Phản ứng quyết liệt.
Nhưng một khi vua ra
mặt độc tài tàn ác, thẳng tay áp bức dân chúng,
thì Mạnh Tử chủ trương phải phản ứng quyết liệt
theo gương người xưa, thực thi cuộc 'cách mạng
Thang, Võ, hạ sát hôn quân’: Sử Trung Hoa chép
: Vua Kiệt, vua Trụ vì hoang dâm vô đạo, bạo
hành, bất công, không làm tròn sứ mạng trị quốc
an dân Trời giao phó cho, Trời thu hồi sứ mệnh
lại. Thành Thang đứng lên giết vua Kiệt, Võ
Vương đứng lên diệt vua Trụ. Tư Mã Thiên, sử gia
Trung Hoa, gọi đó là cách mệnh Thang, Võ
(cách: lột bỏ/ mệnh: sứ mệnh). Tề Tuyên Vương
chất vấn Mạnh Tử: 'Thành Thang đuổi vua Kiệt, Võ
Vương đánh vua Trụ, có thật như vậy chăng?'
Mạnh Tử đáp: 'Trong sử sách có chép như vậy'.
Tuyên Vương hỏi tiếp: 'Bề tôi mà giết vua có nên
chăng?' Mạnh Tử đáp rằng: 'Kẻ làm hại đức nhân,
gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là tàn. Kẻ
tàn, kẻ tặc chẳng qua là người thường mà thôi.
Tôi từng nghe vua Võ Vương giết một người thường
là Trụ, chớ tôi chưa hề nghe giết vua.' (MT,
Lương Huệ Vương hạ, tiết 8).
Có
lần Mạnh Tử nói toạc ra với Vạn Chương, môn đệ
của ông: 'Giết những vị vua hôn bạo để giải cứu
cho dân, bá tánh đều mừng rỡ như được mưa tuôn
phải lúc' (MT, Đằng Văn công, hạ t. 5). Và chính
Mạnh Tử đã nói thẳng với vua Tuyên vương nước Tề
rằng : 'Vua mà coi tôi như tay chân, ắt tôi sẽ
coi vua như bụng dạ. Vua mà coi tôi như chó
ngựa, ắt tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường. Vua mà
coi tôi như bùn rác, ắt tôi sẽ coi vua như kẻ
cướp, kẻ thù' (MT, Ly Lâu hạ, tiết 3). Rồi ông
cảnh cáo các vua: 'Nếu người làm vua tàn bạo với
dân thái thậm, thì thân mình bị giết, nước nhà
cũng diệt vong, chẳng còn để ngôi vị cho con
cháu (MT, Ly Lâu thg, t. 2))
B.- Quyền Công dân
Nếu
Quyền Con Người được coi như những 'quyền tự
nhiên', thì trái lại 'Quyền Công Dân' là những
'quyền công cộng' với những chức vụ 'tham gia'
hay 'can thiệp’để bảo đảm các 'quyền tự do tự
nhiên cho xã hội’. Quyền tham gia và quản trị
quốc gia: Mọi người đều có quyền đi bầu luật
pháp, có quyền làm công chức (đ. 6). Quyền can
thiệp và chất vấn việc quản trị quốc gia: Mọi
người đều có quyền bầu, hạn chế thuế khóa (đ.
14), chất vấn nhân viên công quyền (đ. 13)
Mạnh Tử đã bàn về các quyền trên đây như thế
nào??
I.- Quyền tham gia quản trị quốc gia
Mạnh Tử là người đầu tiên đã xướng lên 'Dân
vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh'thay đổi ngôi vua, lập lên
mội vị hiền quân...(MT, Tận Tâm hạ, tiết
14).
Theo Mạnh Tử, quốc gia không phải của riêng của
vua. Vạn Chương, một môn đệ của Mạnh Tử, hỏi
rằng ngày xưa vua Nghiêu đem « thiên hạ » (tức
là dân chúng toàn quốc) tặng cho ông Thuấn, việc
ấy có không ? Mạnh Tử đáp không có chuyện ấy,
vua không có quyền lực gì mà đem thiên hạ tặng
cho người khác được. Chỉ có Trời mới có quyền
ấy. Vạn Chương lại hỏi Trời đâu có thấy nói gì,
mà bảo tặng cho sao được? Mạnh Tử giảng đại khái
rằng: «Trời không bao giờ nói, chỉ lấy công việc
làm và thành tích để bày tỏ ý Trời mà thôi.
Những việc xuất tại ý Trời sẽ biểu lộ qua các
hành động và những thành tích của loài người,
của dân chúng. Vua Nghiêu chỉ có thể tiến cử ông
Thuấn, chứ không có quyền khiến Trời phải đem
thiên hạ cho ông Thuấn. Nhưng khi vua Nghiêu đề
cử ông Thuấn, Trời thấy ông Thuấn có tài đức nên
chấp nhận. Trời không tỏ ra lời, mà chỉ ngấm
ngầm cảm động dân chúng đứng lên ủng hộ ông
Thuấn. Vậy lòng dân tức là ý Trời ». (M T, Vạn
Chương thg, t. 5).
Chấp nhận quyền của người dân, thì phải để cho
mọi người dân được tham gia phát biểu ý kiến của
họ, nhà cầm quyền không những phải tôn trọng
ý kiến của đa số quần chúng mà còn phải làm
theo ý kiến ấy nữa. Mạnh Tử khuyên Tề Tuyên
vương rằng :
'Như những quan hầu cận bên tả bên hữu đều cho
rằng người nào đó là hiền tài, mình chớ vội tin.
Như các quan đại phu trong triều đều cho rằng
người nào đó là trang hiền tài, mình cũng chớ
vội tin. Như khắp cả nước, người ta đều cho
rằng người nào đó là trang hiền tài, chừng ấy
mình mới quan sát. Khi nhận thấy quả thật là
trang hiền tài, chừng đó mình mới cử dùng.
“Như những quan hầu cận bên tả bên hữu đều cho
rằng người nào đó chẳng tốt, mình chớ nghe
theo. Như các quan đại phu trong triều đều cho
rằng người nào đó chẳng tốt, mình cũng chớ nghe
theo. Như khắp cả nước, người ta đều cho rằng
người nào đó chẳng tốt, chừng ấy mình mới quan
sát. Khi nhận thấy quả thật chẳng tốt, chừng đó
mình mới bỏ ra.
“Như những quan hầu cận bên tả bên hữu đều cho
rằng người nào đó phạm tội đáng chết, mình chớ
nghe theo. Như các quan đại phu trong triều cho
rằng người nào đó phạm tội đáng chết, mình cũng
chớ vội nghe theo. Như khắp cả nước, người ta
đều cho rằng rằng người nào đó phạm tội đáng
chết, chừng ấy, mình mới quan sát. Khi nhận thấy
là phạm tội đáng chết, chừng đó mình mới ra lệnh
giết. Đó là dân chúng toàn quốc đều đồng
tâm, hiệp ý, nếu vua làm theo như vậy, mới đáng
gọi ngài là cha mẹ dân'( MT, Lương Huệ vương,
hạ, t. 7)
II.- Quyền can thiệp vào việc quản trị quốc gia.
Về
quyền can thiệp vào quản trị, Mạnh Tử có lần hỏi
vua Tề:' Tỷ như có một vị quan sĩ sư, đầu ty
hình pháp, chẳng đủ sức cai quản các thuộc hạ
của mình, thì nên xử trí cách nào ? Vua đáp :
Nên cách chức quan sĩ sư ấy đi. Mạnh Tử hỏi tiếp
: Tỷ như có một vị vua cai trị mà để cho bốn
phương đều rối loạn, thì nên xử trí cách thế nào
? (Nghe lời ấy) vua Tề Tuyên vương giả đò ngó
bên tả bên hữu và nói chuyện khác' (MT, Lương
Huệ vương, hạ, t. 6). Mạnh Tử nói thêm: 'Kiệt và
Trụ mất thiên hạ (tức mất ngôi vua) vì mất dân
chúng, mất lòng dân... Muốn được lòng dân, có
một phương pháp nên theo : dân muốn việc chi,
nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ ; dân ghét
việc chi, nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ...'
(MT, Ly Lâu thg, t. 9)
Ông cũng trách Tề Tuyên Vương : 'Bá tánh
chẳng được ngài bảo hộ, chỉ vì ngài không ban bố
ân huệ cho họ.
Vậy nên vua chẳng gây dựng nghiệp vương, chỉ vì
ngài chẳng chịu làm mà thôi, chứ không phải ngài
chẳng đủ sức làm' (MT, Lương Huệ Vương thg, t.
7)
C.- Tinh thần Dân quyền ở
Việt Nam
Việt Nam chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa hàng ngàn
năm, theo chế độ quân chủ
Nho giáo phong kiến biết bao
nhiêu đời, nên trong sự quan
hệ vua tôi của dân gian,
đối chiếu với chủ trương
"dân quyền" của Mạnh Tử, hẳn
cũng không khỏi có ít nhiều
điểm tương đồng hay dị biệt,
đáng kể nhất là quan niệm
‘Trung quân’ tương quan giữa
quyền nhà vua và quyền của
người dân, được làm vua,
thua làm giặc, về Tổ chức
Hương thôn và xã hội tương
quan giữa phép vua và lệ
làng do dân bầu ra.
I.- Vấn đề Trung quân
Dân ta cũng quan niệm như
Khổng tử và Mạnh tử rằng vua
là một đại diện cho Trời để
cai trị dân, làm cho dân
được sống an lành, no ấm.
Nhưng nhà cầm quyền phong
kiến lại dựa vào “tam cương,
ngũ thường” của Nho giáo để
ép buộc người dân phải tuyệt
đối trung với vua.
Có điều là trải qua bao
nhiêu triều đại, dân ta
nghiệm thấy rằng thời nào
cũng vậy, các vị anh hùng
dựng cờ khởi nghĩa chống
ngoại xâm, thu hồi độc lập
cho đất nước, khai sáng một
triều đại cho con cháu mình,
phần nhiều là những vua thật
tình yêu thương dân, làm
tròn sứ mạng Trời đã trao
cho.
Còn về sau, con cháu các vị
ấy, với sự giàu sang, quyền
thế quá mức, dần dần bị hủ
hóa, hư hỏng, không lo cho
dân, trái lại trở thành
những bạo chúa, độc tài,
trụy lạc, làm cho dân bị
nghèo cực, cho đất nước bị
khốn khổ, đó là những tên
'giặc dân' như Mạnh-tử đã
nói trên đây.
Rồi không biết có nhà
Tống Nho nào đã xướng ra
một câu rất tai hại là :
'Quân sử thần tử, thần bất
tử bất trung', vua ra
lệnh tôi phải chết, tôi
không chết không trung!
Vậy Tống Nho là gi ?
Đời nhà Trần, học phong thật
là rực rỡ. Nho giáo toàn
thịnh. Nhưng cuối đời Trần,
Tống Nho (Nho giáo đời Tống)
bắt đầu truyền sang nước ta.
Trước kia, ở thời Mạnh Tử,
như đã trình bày trên đây,
các vua chư hầu đua nhau
chiêu mộ nhân tài để giúp
cho nước mình giàu mạnh hơn
thiên hạ. Do đó "chư tử bách
gia" được tự do tranh luận
nhau, và có khi tranh luận
cả với các vua chư hầu nữa.
Nhưng rốt cuộc, học thuyết
"dân quyền" ở thời "hoàng
kim" nầy vẫn không được vua
nào nghe theo. Về sau, Tần
Thủy Hoàng chỉ dựa vào học
thuyết của phái Pháp gia để
cai trị, ra lệnh thiêu hủy
tất cả sách vở của Nho giáo,
và của các học thuyết khác.
Khi nhà Tần bị diệt, Hán Cao
Tổ cho sưu tầm các bộ tứ thư
ngũ kinh còn sót lại, phục
hưng Nho giáo một cách độc
tôn. Nho giáo độc tôn lúc ấy
lại phân thành nhiều phái tư
tưởng khác nhau, song học
giả ai muốn theo phái nào
cũng được. Đến thời Tống Nho
nổi lên, bác hết các học
phái khác, không những đã
dùng lò khoa cử mà bó buộc
học giới như các đời trước,
lại còn hạn chế học Kinh
Truyện Nho giáo để đi thi
phải theo lời chú giải của
các sách do triều Tống cho
soạn ra, như sách 'Tứ thư
Ngũ kinh' và 'Tánh lý
đại toàn' là loại sách
thu hẹp Nho giáo lại thành
một thứ Nho giáo “tôn quân”
triệt để cho tiện bề cai
trị.
Vì thế, từ thời « hoàng
kim » cho đến thời Tam Dân
chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên,
Trung hoa chưa biết đến Tam
Quyền phân lập (quyền Lập
pháp, quyền Tư pháp, quyền
Hành pháp) cũng như Dân
quyền, Dân chủ là gì.
1.- Nho sĩ
Bàn về vấn đề "trung" với
vua, Trần Trọng Kim, trong
tác phẩm Nho giáo, đã phân
biệt chữ "quân" là người cầm
đầu, với chữ "vương" là vua:
"Khổng giáo cho
"quân quyền" (quyền của
người cầm đầu) là cái thần
khí, làm chủ sự trị loạn của
nhân dân, cho nên mới nói
"trung quân" (trung với
người cầm đầu) chứ không nói
"trung vương", "trung đế"
(trung với vua, với hoàng
đế). Về sau, ta theo lối
chuyên chế mà hiểu cái nghĩa
"trung quân" hẹp đi, cho nên
mới nói "trung quân" là
"trung với nhà vua". Song
Khổng giáo có dạy rằng:
"Trung thần tòng đạo bất
tòng quân", (tôi trung phục
tùng đạo lý chớ không phải
phục tùng theo người cầm
đầu, theo nhà vua), chính là
để chữa lại cái hẹp của quân
vậy".
Tiên Nho ta ngày xưa không
dùng chữ "trung quân",
mà chỉ dùng thành ngữ "ưu
quân, ái dân", tức là
"lo việc cho vua, yêu thương
dân chúng", gọi tắt là "ưu
ái" hay "ái ưu"
mà thôi. Nguyễn Trãi
(1380-1442), trong Quốc
âm thi tập đã viết:
Bui (chỉ vì) một tấc
lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuộn cuộn nước
triều đông. (Qâ. 50)
...Tóc
nên bạc bởi lòng ưu ái,
Tật được tiêu nhờ thuốc đắng
cay.
(Qâ.112)
...Gia
sơn đương cách muôn dặm,
Ưu ái lòng phiền nửa
đêm. (Qâ.115)
Trong Bạch
Vân Am quốc ngữ thi tập,
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-
1585) cũng viết:
Ái ưu vặc vặc trăng
in nước
Danh lợi lâng lâng gió thổi
hoa. (BV. 1)
...Ưu
ái chẳng quên niềm
trước,
Thị phi biếng nói sự nay.
(BV.76)
2.- Dân gian
Dân ta cũng quan niệm rằng
« nghĩa vua tôi », thể hiện
cho trọn vẹn, bao giờ cũng
phải theo hai chiều: tôi đối
với vua, và vua đối với tôi.
Dân có nghĩa vụ đối với vua,
thì vua cũng có nghĩa vụ đối
với dân. Nếu vua không làm
tròn trách vụ chăm lo cho
dân yên vui, no ấm, thì dân
không khỏi sinh ra khinh
thường, phạm thượng:
Làm trên mà chẳng chính
ngôi, khiến cho kẻ dưới
chúng tôi hỗn hào.
Rồi nếu vua không
giúp cho dân được yên lành,
no ấm, mà còn tàn ác bạo
ngược, thì lòng người sinh
ra oán hận thù ghét, giặc
giã sẽ nổi lên:
Bao giờ
dân nổi can qua ,
Con
vua thất thế lại ra ở chùa.
Chú
giải - Can qua:
(Can: cái mộc, qua: cái
mác), là những binh khí đánh
giậc. Can qua tượng trưng
cho "chiến tranh, binh
loạn".
Tục ngữ
ta ngày xưa còn cho rằng:
Được làm
vua, thua làm giặc.
Câu nầy có thể hiểu: Thói
thường, mạnh được, yếu thua.
Kẻ thắng tự xưng chính
thống, và gọi kẻ bại là
giặc. Đây cũng là một lời
dân gian nghiêm khắc cảnh
cáo những kẻ cầm đầu quốc
gia: "Nếu chính sự hà khắc,
tàn ác, dân gian sẽ nổi lên
lật đổ. Một khi bị đánh bại,
sẽ bị gọi là giặc, và sẽ
chịu số phận dân gian dành
cho những tên giặc cướp. Kẻ
tàn ác nhờ bạo lực, gian trá
mà thắng, cũng được gọi là
"vua", nhưng triều vua tàn
bạo nào cũng chỉ nhất thời.
Còn dân, căn bản của quốc
gia, bao giờ cũng tồn tại
mãi mãi:
(Vua)
quan nhất thời, dân
vạn
đại.
3.-
Học thuật
Như
vừa nói trên, vào cuối đời
Trần, Tống Nho bắt đầu du
nhập vào nước ta, người mình
sùng bái ngay, song nhờ học
phong nhà Trần chưa suy diệt
hẳn, có người được tự do lên
tiếng chống đối, bài xích,
như : Chu Văn An, dưới đời
Trần Minh Tông (1314-1329),
làm Quốc tử giám Tư nghiệp
và dạy các hoàng tử, soạn
sách 'Tứ thư thuyết ước',
học thuyết của ông là 'cùng
lý, chánh tâm, trừ tà, cự bí
' chống lại Tống Nho, và chú
trọng về phương diện thực
hành của Nho giáo. Sau đó,
Hồ Quí Ly làm bản Minh
đạo (14 thiên) trích bốn
nghi vấn trong Luận Ngữ, và
chê Chu, Trình đời Nam Tống
là học rộng mà tài sơ, không
thiết gì sự tình mà chuyên
nghề cắp lột.
Chỉ
trong thời gian chỉ gần vài
mươi năm (từ khi nhà Hồ mất
năm 1406 đến 1428 vua Lê
Thái Tổ) Tống Nho nhờ thế
lực quân Minh truyền bá mạnh
mẽ vào nước ta, bao nhiêu
tinh túy từ nhà Trần về
trước bị quét sạch. Văn học
nhà Lê , người ta thườnh cho
đời Lê Thánh Tông là thạnh
nhất, nhưng lại toàn là luận
điệu của Tống Nho. Đến cuối
nhà Lê, đời vua Chiêu Thống,
có Bùi Huy Bích viết 'Kinh
Truyện' và 'Sử Tiết yếu'
theo kiểu sách 'Tánh lý
đại toàn' đời Tống (mà
trình độ lại thấp kém hơn
nhiều) tóm tắt chương trình
Khổng giáo, để học cho mau
và thi cho đễ. Nhưng ở đời
Tự Đức, Nguyễn Thông
(1827-1884) người Bình
Thạnh, nay thuộc tỉnh Long
An, dâng sớ xin bỏ sách ấy,
vì cho là hoặc thế vu dân,
làm hại học trò, các quan
trong triều trái lại, cho
rằng dùng sách ấy cho tiện
việc thi cử của con em mình,
nên không chịu bỏ. Nguyễn
Siêu, hiệu Phương Đình,
người Quảng Nam, Nguyễn Bá
Nghi, hiệu Sư Phần, người
Quảng Nghĩa, có viết sách
xin sửa đổi bỏ phép học theo
Tống Nho. Nguyễn Trường Tộ
(1828-1871) người Bùi Chu,
Nghệ An, dâng nhiều bài sớ
xin cải cách nhiều việc,
trong đó có việc bỏ học và
thi cử theo Tống Nho, Tự Đức
xem cho là hay, mà triều
thần lại không đồng ý.
Gần 500 năm (1428-1919) Nho
giáo hạn hẹp trong lề 1ối
Tống Nho, đã ngự trị trên
Việt Nam một cách bất di bất
dịch. Hậu quả là làm cho học
vấn dân ta bị thu hẹp trong
việc học thuộc một số sách
Nho giáo 'triệt để trung
quân', một thứ Nho giáo thu
hẹp, với những ý niệm có
sẵn, khuôn khổ nhất định,
lười suy xét, hay không dám
suy xét ra ngoài lề lối
chính thống, nhất là không
thấy bao giờ dám đề cập đến
các tư tưởng có tính cách
phóng khoáng tự do, tôn
trọng giá trị con người, và
thực dụng như của Mạnh-tử
hoặc của một học phái nào
khác. Gọi là theo học đạo
thánh hiền, mà thật ra chỉ
vùi đầu trong một số sách,
cốt thế nào cho thi đỗ để
vinh qui bái tổ, ra làm
quan, giàu sang phú quí.
Còn vua quan thì dùng Tống
Nho và hệ thống thi cử của
Tống Nho, mang danh là Đạo
của Thánh hiền, làm một
phương tiện để cai trị cho
dễ bề bóc lột, áp bức.
II.
Tổ chức
Hương thôn
1.-
Bầu Lý trưởng
.
Ngày xưa
ở nước ta, từ cấp huyện trở
lên, tổ chức theo quân chủ,
vua chỉ định, bổ dụng tất cả
quan lại trong toàn quốc.
Song ở cấp làng xã, thôn
xóm, vua ta lại công nhận
cho toàn dân bầu lên một lý
trưởng để quản lý làng
xã và đại diện cho làng xã
liên lạc với huyện phủ sở
tại; và bầu các hương
chức giúp việc với lý
trưởng, cũng như bầu
người có uy tín sung vào
Hội đồng kỳ mục, để cố vấn,
giám sát lý trưởng.
Theo
Đại Việt
Toàn Thư,
năm 1669, Lê Huyền Tông
(1663- 1671) có ban 18 định
lệnh làm chính trị tốt, bỏ
tập tục xấu, mà điều thứ 9
là "chọn các con em nhà
lương thiện làm xã trưởng để
dạy xã dân biết lễ nghĩa."
Trong Lê Triều chiếu lệnh
thiện chính có ghi rõ
thêm về điều thứ 9 ấy như
sau:
"Chức
xã trưởng là một viên chức
giữ phong hóa; phải chuyển
tư cho huyện quan ở các
huyện trong xứ, chuyển sức
cho xã dân, kén chọn trong
con em các nhà lương gia,
các nho sinh, các con cháu
quan viên, các nhiêu nam,
các sinh
đồ, cùng
là người nào có học thức,
tính hạnh thanh liêm công
bằng và cần cán, bầu lấy
một người làm xã quan,
để cho viên ấy làm tiêu biểu
cho hương xã, khám xét các
từ tụng, cùng là hàng năm
hai kỳ xuân thu, theo những
giáo điều của nhà nước mà
dạy bảo xã dân, khiến cho
dân biết
điều lễ
nghĩa, khuynh hướng vào nhân
nhượng.
[...] Cứ ba năm, cho phép
huyện quan khảo khóa các
xã quan một lần, xét
trong các xã quan, xã sử, xã
tư (phó xã quan) ai có đức
hạnh liêm chính, biết dạy
dân làm tốt phong tục, dẹp
được việc kiện tụng, thì
trình lên [...],
thăng
xã
quan
làm huyện quan,
xã
sử, xã tư
cũng chuyển thăng làm xã
quan, để tỏ lòng khuyến
khích. Nếu trên nha môn có
việc quan sai khiến sự gì,
chỉ được phép bắt xã sử, xã
tư cùng với thôn trưởng đi
chỉ dẫn, chứ không được
trách cứ đến xã quan, để cho
viên nầy có tư cách mà làm
việc. Ai trái lịnh nầy, cho
phép xã quan được tố cáo, sẽ
khép vào tội trái lịnh.
"Ví bằng xã quan, viên nào
tham nhũng gian giảo, và làm
bậy, cho phép xã dân ấy
tố cáo với huyện quan;
một khi xét có sự thực, việc
nhẹ thì bắt phạt, việc nặng
thì bắt tội phải sung quân.
Khi ấy sẽ bầu lại xã trưởng
khác, để tiếp tục công việc
làm tiện lợi cho dân xã. Nếu
huyện quan khảo khóa mất sự
thực, cũng bị tội biếm hay
bãi chức"
Cách
tổ chức làng xã theo lối
"bầu cử" đã tồn tại cho đến
cuối đời nhà Nguyễn và cho
đến thời Cọng Hòa Quốc Gia
gần đây. Như thế, "bầu cử"
xã trưởng, tôn trọng tư cách
"đại diện cho dân” và "chức
vụ "gìn giữ phong hóa" của
xã trưởng, đã là một tập tục
trong sinh hoạt chính trị
nông thôn Việt Nam tôn
trọng dân quyền trong
bao nhiêu thế kỉ từ lâu rồi.
Đồng thời để nhắc nhở "cử
tri đi bầu phải chọn người
thế nào cho đúng", và "người
được bầu ra phải làm thế nào
để bảo vệ quyền lợi cho làng
xã", dân gian ngày xưa có kể
lại các ngụ ngôn như sau:
Truyện
con công và làng chim -
"Một hôm, làng chim hội họp
đủ mặt, không thiếu một ai.
Nhiều anh cất tiếng xin làng
cử anh Cò làm lý trưởng. Anh
Cò nghe nói, vội vàng từ
chối: "Các anh coi tôi: khăn
trắng, áo trắng, thật không
xứng đáng chút nào. Đây có
anh Diệc, cổ dài, vai rộng,
tôi xin nhường.". Diệc nghe
Cò nói cũng mau miệng chối
từ: "Các anh đã biết mình
tôi lẳng khẳng, tính tôi
ương ương. Tôi nói chẳng ai
nghe, sợ sau sinh ra lắm
chuyện. Đây có anh Công,
trong nhà giàu có, quần xanh
áo tía, thật đáng làm anh,
làng ta nên thuận tình bầu
anh ấy ra làm việc.
"Công
nghe nói đến mình, lấy làm
hả dạ, chạy ra giữa đám,
giương cánh xòe đuôi, múa
may ưỡn ẹo, rồi thưa với
làng:
- Làng đã
bảo đến, biết tránh làm sao.
Vậy những ông nào thuận tình
tôi, xin ký kết vào giấy.
"Không
ngờ bao nhiêu loài chim đồng
thanh nói to lên rằng: "Cái
đuôi anh xòe, chúng tôi chịu
là đẹp thật. Nhưng cái đầu
anh bé nhỏ, trông nó loắt
choắt làm sao, anh làm đàn
anh chúng tôi không được.
Làng bảo thì bảo, chúng tôi
không thuận".
"Công
thấy thế, chữa thẹn nói
rằng: "Việc làng đã thuận,
kẻ nói thì có người nghe.
Không ngờ người nghe thì ít,
kẻ chê thì nhiều. Tôi lấy
làm xấu hổ cho tôi và cả
làng chim tôi nữa".
"Làng
chim nhao nhao, không ai
thèm nghe Công, giải tán tức
thì. Công cụp đuôi, thu
cánh, vừa lùi vừa kêu: "xấu
hổ! xấu hổ!". Rồi từ đó đến
nay, Công kêu hai tiếng "xấu
hổ" ấy mãi."
Truyện
Lý trưởng khướu
"Xưa
có một người lý trưởng làm
việc đã hơn mười năm. Thường
trong làng xóm, ai có điều
gì khốn khổ,ông liền lên
quan kêu hộ, coi việc của
người hơn việc của mình.
Phải một
năm trời làm đại hạn, cây cỏ
khô héo, hoa quả chết sạch,
đến mùa sưu thuế, dân gian
khốn khó, không biết làm thế
nào lo đủ tiền nạp. Lý
trưởng khướu thấy tình cảnh
dân như vậy, lấy làm thương
xót, mới làm một lá đơn lên
kêu quan hộ dân. Đơn rằng:
Trời
làm đại hạn rã rời
Việc
dân thì nặng, quan thời
thương cho!
Ngoài đồng
cỗi lúa mất mùa,
Về nhà bông
đỗ đã khô đi rồi.
Dân
thì kẻ ngược, người xuôi,
Kẻ tán,
người lạc, ai người làm chi.
Trời làm
tai nạn còn gì,
Xin
quan nghĩ lại bớt đi ít
nhiều.
"Quan
xem đơn vỗ bàn mắng rằng:
"Ta chưa hề thấy thằng lý
trưởng nào xấc láo như thằng
nầy. Việc thì khe khắc, đã
không chịu làm, lại được cái
già hàm, dám lên đây kêu ca
rắc rối! Lính đâu, nọc nó ra
đẹt cho nó ba chục roi".
"Người lý
trưởng nói: "Quan đánh, tôi
xin chịu. Tôi chẳng sợ chi.
Bổn phận tôi làm lý trưởng,
tôi phải hết lòng kêu giúp
cho dân. Quan không soi xét,
nghĩ đến tình cảnh của dân,
thì tôi cũng tôi liều mạng
tôi cho rồi...
"Nói đoạn
người lý trưởng cắn lưỡi tự
tử. Ông quan phải bồi mạng
cho người lý trưởng và phải
cấp tiền tống táng. Về sau,
trên mộ người lý trưởng tự
nhiên có một cây gì mọc lên
rất cao, và có một con khướu
thường ngày cứ chót vót trên
cây mà hót. Thiên hạ cho con
khướu ấy là hiện thân của
người lý trưởng, và khi nào
nghe nó hót thì người ta bảo
nhau ca một câu rằng:
Cây
cao gió đánh lá lay,
Thương
thân con khướu kêu ngày, kêu
đêm.
2.-
Bầu hương ước
.
Ngoài
luật nhà vua, ngày xưa mỗi
làng có thể bầu ra những
điều lệ riêng cho mình, gọi
là "hương ước", trình lên
huyện, phủ sở tại để chấp
thuận. Những hương ước (hay
"lệ làng") ấy lại thường
được dân gian tuân theo chặt
chẽ hơn luật pháp của vua.
Tục ngữ có câu: Phép vua
thua lệ làng.
Chắng hạn
như trong hương ước của xã
Mộ Trạch, phủ Thượng Hồng,
tỉnh Hải Dương (Bắc phần), ở
điều thứ 6 có ghi: "Dân làng
có việc tranh chấp phải qua
lý trưởng xét xử trước đã,
không được kiện thẳng lên
huyện, phủ, nếu không tuân,
bị phạt một trâu và sáu vò
rượu".
Tưởng
không thể không nhắc đến
cuộc "vua trưng cầu dân ý "
lịch sử nhất của dân tộc
Việt: Vào năm 1285, khi quân
Nguyên tràn sang xâm chiếm
nước ta, Trần Nhân Tông
triệu tất cả bô lão trong
nước đến điện Diên Hồng để
hỏi ý kiến của toàn dân nên
đầu hàng hay chống lại. Tất
cả bô lão đồng thanh hô to:
"Xin đánh!"
3.-
Quyền ứng thí
Nước ta
vào đời nhà Trần, năm 1227,
có khoa thi đặc biệt cho
những người tu hành để làm
đạo sĩ, tăng nhân, gọi là
“thi tam giáo “, thí sinh là
những người nối nghiệp các
nhà Nho giáo, Đạo giáo và
Thích giáo. Năm 1228, mở kỳ
thi “Lại viên bằng thể thức
công văn”, chọn người vào
làm việc thuộc lại các cơ
quan chính quyền. Thí sinh
là những người có học hành
chút đỉnh, chỉ cần biết qua
các thể thức văn thư. Năm
1232, mở Quốc Tử viện cho
con các quan văn vào học để
dự thi. Năm 1252, cho con
thường dân người nào tuấn tú
cũng được theo học với con
các quan ở Quốc tử Giám để
cùng đi thi với nhau. Như
vậy, mọi người đều có quyền
đi thi.
4.-
Quyền đổi giai cấp
Đời
nhà Trần, từ các nhà tu
hành, các người có học chút
ít, cho đến con thường dân
tuấn tú, mọi người trong
nước, bất cứ sang hèn, , đều
có quyền đi thi, bình đẳng
nhau, nếu ai thi đỗ sẽ được
ra làm quan. Từ hạng bần
nông, được chuyển sang hàng
quyền quí, như thế quả
thật không có ranh giới
cứng rắn giữa các giai cấp ở
xã hội Việt Nam từ thời xa
xưa..
Đến thế
kỷ 15, đời nhà Lê, bỏ tục
con cái các đại thần nối
nghiệp cha, ra làm quan. Mà
từ nay muốn ra làm quan phải
thi đỗ. Toàn dân có quyền đi
thi. Mọi người đều có cơ hội
nhờ thi đỗ mà trở nên có
quyền bính, sang giàu. Thế
kỷ 19, đời nhà Nguyễn, việc
thi cử cũng như trước, lớp
trí thức xuất thân khoa cử
được coi trọng. Hàng quí
tộc, cha truyền con nối như
thời Lý Trần không còn nữa.
Với học vấn người ta có
chuyển đổi giai cấp một cách
dễ dàng.
Tóm lại, về các quan niệm
“trung quân”, “tổ chức thôn
xã“, qua các truyện kể, các
câu ca dao, tục ngữ, ta nhận
thấy Việt Nam từ xưa đã có
một thể chế rất đặc thù,
không giống một nước nào
đương thời, kể cả Trung Hoa,
đặc thù là từ triều đình cho
đến thôn xóm, sự tương
quan giữa nhà vua và người
dân xây dựng trên tinh
thần ưu quân, ái dân, được
làm vua thua làm giặc, giải
ngộ vai trò độc tôn thiên
mệnh của vua chúa ; tương
quan giữa triều đình và
hương thôn, phép vua
thua lệ làng, mọi người đều
có quyền di thi, thi dỗ có
quyền được làm quan, thay
đổi tình trạng và giai cấp
trong xã hội.
Tất cả đã xây dựng trên tinh
thần tôn trọng quyền dân,
để hình thành một thể
chế độc đáo vừa
quân chủ ở thượng tầng, vừa
dân chủ ở làng xã.
Võ Thu
Tịnh
Paris
28-09-2005
|
|
(1) Những chữ Khổng Tử,
Mạnh Tử vân...vân.. gồm chữ đầu là họ Khổng
họ Mạnh, chữ sau Tử là Thầy,
nghĩa là Thầy
Khổng Thầy Mạnh, một lối xưng hô kính trọng.
(bởi vậy chúng ta có những Tuân Tử, Dương
tử, Chu tử, Mẫn Tử...). Chữ
tử có thể viết thường (tử) hay
viết hoa (Tử) cũng chư chữ thầy hay
Thầy vậy.
|