Kỷ niệm 100 năm ngày
Cézanne mất

Cézanne (1839-1906) người mở đường cho
hội hoạ hiện đại
Hậu thế nhắc nhiều đến Cézanne. Thậm chí, ở Pháp, trong giới am hiểu
nghệ thuật, có một thói quen đã thành nếp, là hễ cứ nói đến những bước
đầu của hội hoạ hiện đại, là người ta lại nhắc đến tên ông. Vì sao vậy
? Tại sao không nói đến Van Gogh, Gauguin, hay Munch ? Đó cũng là
những người đã đem đến những điều mới mẻ cho hội hoạ ở phương tây vào
cuối thế kỷ XIX, trước khi hội hoạ hiện đại thực sự ra
đời ?
Ở đây, chắc bạn không khỏi nóng lòng muốn biết khái
niệm hiện đại trong hội hoạ đã được định nghĩa như thế nào và
cần được hiểu như thế nào ? Đâu là chỗ dựa lý thuyết của nó ? Và cuối
cùng, hội hoạ hiện đại đã hình thành ở vào thời điểm nào ? Đâu
là vị trí của Cézanne ?
Khái niệm hiện đại trong hội hoạ
Thực ra, khái niệm hội hoạ hiện đại
không phải là một khái niệm bất di bất dịch. Về thời điểm và những
điều kiện hình thành của nó, ta có thể biết rõ được, nhưng còn nội
dung khái niệm hiện đại thì luôn luôn thay đổi cùng với những
quan niệm, phong cách, trường phái hội hoạ, kế tiếp nhau ra đời từ đầu
thế kỷ XX đến nay, mặc dầu về căn bản, tính chất hiện đại của những
tác phẩm của Mondrian, Kandinsky, Picasso, Braque, Léger, hay
Malevitch, v.v. (1910-15), và nói chung, của các trường phái tượng
trưng, biểu hiện, lập thể, dã thú, trừu tượng, của những năm đầu thế
kỷ XX, cũng có thể so sánh được với tính chất hiện đại trong các tác
phẩm của Jackson Pollock, Willem de Kooning, Jasper Johns, Rothko, hay
Soulages, v.v., với các trường phái Pop Art, Tân hiện thực, Siêu hiện
thực, v.v (1950-70), hoặc của Georg Baselitz, Antonio Saura,
Jean-Michel Basquiat, v.v.. (1980-90). Kể tên tuổi các hoạ sĩ được coi
là hiện đại từ một thế kỷ nay, chắc ít nhất cũng phải một trang
báo, hay hơn, mới có thể kể hết được. Cũng như, trình bày những ý
tưởng hiện đại ra đời từ đầu thế kỷ XX đến nay, với tất cả các
xu hướng hình tượng và trừu tượng, cũng vượt khỏi khuôn khổ của bài
báo này, và nhất là điều đó cũng không cần thiết lắm để giải thích
hiện tượng Cézanne.
Khái niệm hiện đại thực ra cũng chỉ có một
giá trị tương đối. Khi ta nói hiện đại, bao giờ cũng chỉ là
hiện đại đối với một cái gì đó có trước, không phải chỉ là một cái gì
lỗi thời, mà thường thuộc về một truyền thống.
Trong nền hội hoạ ở phương tây, cái mà người ta gọi
là hội hoạ hiện đại có một nội dung và một lịch sử khá chính
xác. Đó là tất cả những xu hướng hội hoạ đối lập với cái truyền thống
hội hoạ có từ thời cổ đại Hy Lạp, mà một trong những quy tắc được lấy
làm nền tảng, là phải thể hiện sự vật « giống như thật », hay nói như
Aristote (384-322 tr.C.N.), « giống như con mắt ta nhìn thấy ». Người
ta còn nhớ giai thoại về hai hoạ sĩ Hy Lạp sống ở thế kỷ V tr. C.N.,
Zeuxis và Parraharios, một người vẽ chùm nho giống đến nỗi chim chóc
tưởng thật tìm đến ăn, một người vẽ bức màn khéo đến mức người ta ngỡ
là bức màn thật. Chính Aristote đã đưa quan niệm về sự thể hiện sự vật
một cách « giống như thật » này lên thành quy tắc nghệ thuật. Quy tắc
này sẽ là « hạt nhân lý thuyết » của hội hoạ tượng hình truyền thống ở
phương tây trong nhiều thế kỷ.
Tuy nhiên, khi nói đến nền hội hoạ truyền thống,
người ta thường chỉ đi ngược lên đến thời Phục Hưng Ý mà thôi, vì ở
thời kỳ này, không những các hoạ sĩ vẫn trung thành với quan niệm thể
hiện hiện thực như ở thời Aristote, mà còn đặt ra phép phối cảnh với
điểm tụ ở đường chân trời, quy định cách thể hiện sự vật trong không
gian, coi đó là cách thể hiện khoa học nhất, chính xác nhất. Quy tắc
này sẽ ngự trị trong hội hoạ truyền thống ở phương tây từ thời Phục
Hưng Ý đến nay.
Đương nhiên, đối với các nền hội hoạ không tượng
hình(trừu tượng), thì cả hai quy tắc trên đều không đặt ra.
Có thể nói một cách tóm tắt, là hội hoạ hiện
đại, hình thành ở đầu thế kỷ XX, phủ nhận cả hai quy tắc kể
trên, từ Cézanne cho đến các trường phái tượng trưng, biểu hiện, lập
thể, dã thú, trừu tượng, v.v.
Quan niệm về hội hoạ của Cézanne

Cézanne, từ khi tìm ra được cho mình một con đường
đi riêng, vào khoảng những năm 80 (của thế kỷ XIX) trở đi, đã không
còn quan tâm đến cái vỏ ngoài của sự vật nữa, điều mà phần đông
các hoạ sĩ ấn tượng đương thời vẫn còn đang đeo đuổi (Cézanne đã từng
vẽ theo phong cách ấn tượng, và trong các bức hoạ thời kỳ ấn tượng của
ông có nhiều bức rất đẹp : Maison en Provence, près de l'Estaque
(1879-82) ; Le pont de Maincy, 1879 ; Madame
Cézanne dans un fauteuil rouge, 1877, v.v.
Có thể lấy một vài thí dụ để minh hoạ quan niệm
không cần thiết phải vẽ chi tiết hiện thực (trong một loại tranh nhất
định) này của Cézanne. Trong những bức hoạ vẽ những người tắm truồng (Baigneurs
và Baigneuses) vào những năm 1890-1906, ông thường không vẽ chi
tiết mặt mũi. Ngay cả thân hình người, ông cũng cố ý không vẽ đúng, mà
chỉ chú ý đến bố cục và nhịp điệp chung của bức hoạ.
Đối tượng của hội hoạ đối với ông bây giờ là những
vấn đề thuần tuý thẩm mỹ phải giải quyết. Đó là cách diễn tả hiện thực
bằng một ngôn ngữ « vững chắc » hơn, đồng thời khắc phục vấn đề đặt ra
cho hội hoạ từ trước đến nay, là làm sao thể hiện sự vật trong không
gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều một cách « sáng sủa » hơn.
Do đó, ông dẹp bỏ phép vẽ phối cảnh có từ thời Phục
Hưng Ý, để đưa hết đối tượng của bức hoạ lên phía trước.

Cái đẹp của tác phẩm hội hoạ, đối với ông không phải là cái đẹp của
« cái được biểu đạt » : phong cảnh, chân dung, hay tĩnh vật nằm
ở trong tranh, mà là cái đẹp của « cái biểu đạt », nghĩa là :
bố cục, nhịp điệu, màu sắc và chất liệu, cùng mối quan hệ sinh động và
cân đối giữa các yếu tố của bức tranh.
Cách Cézanne « đưa đối tượng lên phía trước » và
lấp đầy mặt phẳng của bức hoạ, nhất là các bức tĩnh vật và phong cảnh,
cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến lớp hoạ sĩ trẻ thời đó. Có thể nói
rằng : nếu không có Cézanne, chưa chắc gì đã có « Les Demoiselles
d'Avignon » (1907) của Picasso ; hoặc « Nature morte au
géranium » (1910), và « L'atelier rouge » (1911) của
Matisse.
Cézanne chú trọng đến nét đồ hoạ, như ta có thể
thấy được trên một vài tác phẩm (L'enfant au chapeau de paille,
1986 ; Les joueurs de cartes, 1890-92, v.v.). Nét vẽ khoẻ mạnh
đó có từ Giotto, thời tiền Phục Hưng Ý, và sau này Picasso cũng có lúc
đã vẽ như vậy. Nhưng trong phần lớn các bức hoạ của Cézanne, nét vẽ
thường khi ẩn khi hiện, khi mất hẳn đi để nhường chỗ cho màu sắc tự
phân định ranh giới với nhau.
Một trong những cái mới nữa của Cézanne là nét
cọ và cách thực hiện những mảng màu đậm nhạt. Nét cọ này vào những
năm 70, có lúc rất « ấn tượng », như trên các bức chân dung và tranh
phong cảnh đã nêu ở trên, nhưng càng về sau này, vào những năm 1880-90
nét cọ ấy và cách cản màu ấy càng ngày càng có dáng dấp « lập thể ».
Người ta cho rằng chính Cézanne đã từng nói : « Có thể thể hiện sự
vật trong thiên nhiên bằng những hình thể hình học như hình ống, hình
khối vuông, hình cầu, v.v. » Dẫu sao, ảnh hưởng của Cézanne lên
Picasso và Braque trên những bức hoạ phong cảnh vẽ theo phong cách lập
thể ở Estaque, miền nam nước Pháp (1908) , là rất rõ rệt.
Van Gogh cũng đã chinh phục nhãn quan của người xem
bằng những nét cọ đầy nhịp điệu, nhưng với một phong cách khác. Thực
ra, Van Gogh cũng đã chịu ảnh hưởng của Cézanne, cũng như tất cả một
thế hệ hoạ sĩ, đặc biệt là các hoạ sĩ lập thể : từ Picasso, Braque,
Boccioni, đến Modigliani. Ngay cả các hoạ sĩ trừu tượng như :
Delaunay, Kandinsky, cũng đã chịu ảnh hưởng của Cézanne về mặt thủ
pháp.

Một quan niệm cũng rất mới mà Cézanne đã đem đến
cho hội hoạ là quan niệm về đối tượng của hội hoạ, và về giá
trị tự thân của bức hoạ. Đối với ông, đối tượng của hội hoạ chủ
yếu là bức hoạ cụ thể, tức là cái biểu đạt, với tất cả các yếu
tố thẩm mỹ mà nó chứa đựng : hình thù, kích thước, bố cục, chất liệu,
màu sắc, nhịp điệu, chứ không phải cái được biểu đạt, tức là
những sự vật được thể hiện trên bức tranh, mang những ý nghĩa và khái
niệm rõ ràng.
Đối với Cézanne, con mắt truyền thống chỉ
nhìn thấy, và chỉ quan tâm thể hiện những sự vật có ý nghĩa và
có khái niệm chính xác trên một bức hoạ mà thôi. Các hoạ sĩ
truyền thống cho rằng giữa các vật thể là những khoảng không, khoảng
trống, không cần thiết phải thể hiện, hoặc chỉ thể hiện qua loa, như
những vùng đệm. Trong quan niệm của Cézanne, thì ngược lại, trên một
bức hoạ hiện đại, không có cái gì là bỏ không, ngay cả những khoảng
trống cũng là bộ phận của bức hoạ, cũng cần biến chúng thành những
không gian, những mảng màu sinh động, phong phú, góp phần vào sự cân
đối và cái đẹp chung của bức hoạ.
Đối với ông, trong hội hoạ, không như trong văn
chương, vấn đề đối tượng có khái niệm hay không, không quan trọng.
Điều quan trọng là tất cả mặt phẳng của bức hoạ đều có cùng một chức
năng thẩm mỹ, kể cả những « khoảng trống ». Thực ra, khi ta nhìn sự
vật trải ra trước mắt ta, nếu ta đưa tất cả lên phía trước ở cùng một
lớp cảnh, thì làm gì còn khoảng trống nữa ? Sau này Picasso cũng đã
nói : « Cái gì diễn đạt được bằng lời nói, thì không cần phải vẽ ».
Ngược lại, cái gì vẽ ra, lời nói đôi khi không thể thay thế được.
Ngoài ra, người hoạ sĩ truyền thống lại còn muốn
thể hiện sự vật theo thứ tự trước sau trong không gian bằng phép vẽ
phối cảnh. Điều này, đứng về mặt ngôn ngữ nghệ thuật là một sự gò bó :
nó không cho phép người hoạ sĩ bố trí sự vật theo như ý mình muốn trên
mặt phẳng của bức hoạ.
Vài nét về hội hoạ ở thời Cézanne

Nói về những đóng góp của Cézanne đối với hội hoạ hiện đại, hay nói
về nghệ thuật của ông, không thể nào không ôn lại cả một thời kỳ lịch
sử nghệ thuật khá phức tạp ở khắp Âu châu, nhất là ở Đức và ở Pháp.
Ở Pháp, thời đó là thời Nã Phá Luân đệ tam, hội hoạ
chính thống là một thứ hội hoạ kinh viện, bảo thủ và tồn cổ đến
mức lố bịch, với những người đại diện khét tiếng như : William
Bouguereau, Léon Gérôme, v.v., mà một vài tác phẩm còn được lưu trữ
tại viện bảo tàng Orsay, như những chứng tích của một phong cách nghệ
thuật suy đồi.
Cũng may là, song song với nền nghệ thuật chính
thống ấy, còn có nền hội hoạ hiện thực tự nhiên của Gustave
Courbet, có nội dung xã hội khá rõ rệt, có phong cách nghệ thuật khoẻ
mạnh, và đã có một ảnh hưởng nhất định lên nền hội hoạ đương thời ở
phương tây. Chính bản thân Cézanne cũng đã chịu ảnh hưởng của Courbet
và nhất là của Delacroix.
Ngoài ra, bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XIX,
xuất hiện những tác phẩm đầu tiên của hội hoạ ấn tượng. Không
lấy gì làm lạ, là trong bối cảnh xã hội lúc đó, nền hội hoạ này ra
đời, đã gặp ngay nhiều khó khăn, đã phải xung đông kích tây để có một
chỗ đứng, để được nhìn nhận bởi các giới cầm quyền và các tầng lớp
trên của xã hội, mặc dầu hội hoạ ấn tượng, xét cho cùng, cũng chỉ là
sự tiếp nối của hội hoạ truyền thống. Quan niệm của nó về hiện thực và
sự thể hiện hiện thực cũng không khác gì quan niệm có ít nhất từ thời
Phục Hưng Ý, nghĩa là thể hiện sự vật đúng như con mắt mình nhìn thấy.
Điều mà ngay thời đó người ta thường trách các hoạ
sĩ ấn tượng, là cách nhìn và vẽ sự vật một cách hời hợt, cả về mặt
nghệ thuật (thiếu cấu trúc), lẫn về mặt nội dung tư tưởng (thiếu sự
suy nghĩ về bản chất sự vật). Phản ứng của các hoạ sĩ như Cézanne, Van
Gogh, Gauguin, Munch, Ensor, v.v. đã không phải chờ đợi, và sau này
phản ứng tập thể của các trường phái hội hoạ hiện đại (biểu hiện,
tượng trưng, lập thể, dã thú) cũng đã khá quyết liệt. Tuy nhiên, không
ít người ngày nay vẫn thừa nhận giá trị của một số tác phẩm ấn tượng,
không chỉ riêng về mặt thẩm mỹ, mà còn về mặt nhân chứng. Ngay cả một
số hoạ sĩ thuộc các trường phái tượng trưng, hay trừu tượng, sau này
đôi khi cũng đã mượn nét cọ của các hoạ sĩ ấn tượng để thực
hiện những ý tưởng thẩm mỹ của mình.
Những tín hiệu đầu tiên của hội hoạ hiện đại
Vào những năm cuối đời, tranh của Cézanne đã được triển lãm nhiều
lần, đôi khi cùng với các hoạ sĩ ấn tượng lúc bấy giờ đã được chính
thức nhìn nhận. Từ Pissaro, Renoir, Degas, đến Monet đều tỏ lòng khâm
phục Cézanne như một người đã đem đến cho hội hoạ những cái mới mà họ
bắt đầu nhận thức được. Họ đã tranh nhau mua những bức tranh vẽ những
đám người tắm truồng (Baigneurs và Baigneuses).

Năm 1895, lần đầu tiên nhìn thấy một trong những
bức hoạ đống rơm (« Les meules ») của Monet được trưng bày ở
Moskova, Kandinsky đã phải sửng sốt thốt lên : « [...] Đối tượng
của hội hoạ đã bị hy sinh để nhường chỗ cho bố cục ». Kandinsky đã
nói ra ở đây một nguyên lý cơ bản của hội hoạ hiện đại. (Điều này là
một trong những điều chứng tỏ rằng hội hoạ ấn tượng cũng đã có phần
đóng góp gián tiếp của nó vào hội hoạ hiện đại). Nhưng có lẽ vào thời
điểm này, ở Moskova người ta chưa biết đến Cézanne. Thực ra Cézanne,
ngay từ những năm 1880-85 đã thể hiện ý tưởng này trên những bức họa
đầu tiên vẽ những đám người tắm truồng, và từ những năm 1890 đến khi
mất, đã triển khai quan niệm này một cách mạnh mẽ hơn, không những chỉ
thông qua những bức hoạ « Les baigneuses » , mà còn cả trên
những bức hoạ vẽ ngọn núi Sainte-Victoire.

Một điều đáng ghi nhận nữa về quan niệm nghệ thuật
của Cézanne, là sự kiện ông đã vẽ đi vẽ lại ngọn núi Sainte-Victoire
tới 87 lần trong đời mình. Điều này phần nào có liên quan đến quan
niệm « phủ nhận đối tượng » nói trên.
Thực ra, ngọn núi Sainte-Victoire chỉ là một cái
cớ, thuận tiện cho việc vẽ của ông, vì ngọn núi ở ngay gần chỗ ông ở.
Có thể ví việc này với việc một số hoạ sĩ vẽ tranh khoả thân dựa theo
những tấm hình chụp, nhưng vẽ khác đi, như Degas, chẳng hạn (Après
le bain, 1896).
Cézanne thuộc lòng cảnh núi Sainte-Victoire, nhưng
ông vẽ không phải là để tả cảnh, mà là để sáng tác ra những bức hoạ
khác nhau, mỗi bức hoạ phải đem đến được một cái gì đó, hoặc về bố
cục, hoặc về màu sắc, nhưng luôn luôn phải có một sự hài hoà, nhất
quán, cấu trúc phải chặt chẽ, vững vàng, bức hoạ phải đầy ắp mặt vải,
và nhất là không có một cái gì có thể gây nên ảo ảnh của không gian ba
chiều.
Người ta thường chỉ biết Cézanne là « cha đẻ » của
hội hoạ lập thể, nhưng thực ra, về cuối đời, ngay năm ông mất, ông đã
vẽ những bức hoạ về ngọn núi Sainte-Victoire, và nhất là ngôi vườn ở
Lauves (1906), với một phong cách báo hiệu sự ra đời tất yếu của hội
hoạ trừu tượng.
Đã đăng trên Diễn Đàn mạng