1. HÍ
KỊCH
Nghệ thuật
sân khấu của
Trung Quốc
gọi là hí
hay kịch,
hay hí kịch.
Thuật ngữ
này bao trùm
cả kịch, trò
vui, nhào
lộn (tạp
kỹ), hát,
nói, âm
nhạc, diễn
câm, v.v...
Trước đời
Đường, hai
nguồn gốc
lớn của hí
kịch là bài
ưu diễn xuất
(biểu diễn
trò khôi hài
và tạp kỹ)
và ca vũ
diễn xuất
(biểu diễn
ca và múa).
Bài ưu gốc
là nghệ
thuật cung
đình, nhân
vật diễn trò
gọi là «ưu».
Đời Tần (Nhị
Thế, Hồ Hợi)
có Ưu Mạnh
và Ưu Chi là
hai diễn
viên hoạt kê
nổi tiếng.
Cho đến đời
Đường, bài
ưu phát
triển thành
Tham quân hí
(cũng gọi là
Lộng tham
quân) với
hai vai: một
người mặc y
phục xanh
lục tề
chỉnh, thông
minh cơ trí,
tên vai diễn
gọi là tham
quân; một
người ăn mặc
lôi thôi,
khờ khạo đần
độn, tên vai
diễn gọi là
thương cốt.
Hai nhân vật
này đối đáp
khôi hài
trào lộng.
Nói chung,
tham quân là
vai chính,
thương cốt
là vai phụ.
Có khi tham
quân trở
thành đối
tượng để làm
trò cười và
cuối cùng bị
thương cốt
đánh đập.
Cách sơn mặt
và một số
kiểu mặt sơn
tùy theo vai
diễn trong
Kinh kịch
Đến đời
Tống, tham
quân hí diễn
biến thành
tạp kịch.
Vai diễn
cũng có hai
người:
thương cốt
(vai khờ
khạo) được
gọi là phó
mạt, còn
tham quân
(vai tinh
khôn) được
gọi là phó
tịnh. Ngoài
ra diễn viên
nam cũng có
thể hoá
trang thành
nữ để diễn
xuất, gọi là
trang đán.
Đời Nam
Tống, Ôn
Châu là nơi
nổi danh về
hí kịch, ca
múa, cho nên
sản sinh ra
thể loại Nam
hí (hí
kịch Nam
Tống). Đời
Tống không
xem trọng
vai nữ (đán
giác). Vai
nữ bị gọi là
«đệ tử» (con
em). Nếu
toàn ban hát
đều là nữ
thì gọi là
«đệ tử tạp
kịch». Vai
chính gọi là
chính đán,
vai già là
lão đán, vai
trẻ là tiểu
đán, trà
đán, thiếp
đán, v.v...
Đời Nguyên,
vai nữ (đán
giác) rất
được xem
trọng. Đó là
điểm khác
biệt giữa
tạp kịch đời
Nguyên và
tạp kịch đời
Tống. Tính
chất tạp
kịch đời
Tống và đời
Nguyên đều
là khôi hài,
hoạt kê,
nhưng tạp
kịch đời
Nguyên thì
nhấn mạnh
thêm tính
chất phê
phán thói
đời và tệ
nạn xã hội.
Tạp kịch đời
Nguyên là
thành tựu
rất lớn và
giai đoạn
đỉnh thịnh
của nó là
thế kỷ
XIII-XIV.
Các nhà soạn
tuồng hát
rất nhiều,
có trên 150
người, nổi
tiếng nhất
là Quan Hán
Khanh với ít
nhất 60 vở
tuồng. Tạp
kịch đời
Nguyên thâu
hoá và
chuyển thể
các tác phẩm
văn học
Trung Quốc.
Thông thường
một vở có
bốn hồi và
đôi khi có
thêm phần
phi lộ. Vai
chính phải
hát suốt vở
kịch. Mặc dù
các nhạc phổ
của Nguyên
khúc không
còn giữ
được, nhưng
qua hình ảnh
tư liệu,
người ta
phát hiện
các loại
nhạc cụ như
sáo, trống,
não bạt. Các
nhân vật
trong tạp
kịch đời
Nguyên là
anh hùng,
văn nhân, kỹ
nữ, cường
đạo, quan
toà, ẩn sĩ,
và các vai
siêu nhiên
(ma quỉ,
v.v...).
Kinh kịch
Mặt nạ
Một
vai diễn
và nhạc
cụ trong
Kinh
kịch |
Cuối đời
Nguyên, Nam
Hí chuyển
hoá thành
truyền kỳ.
Truyền kỳ
chú trọng
các chủ đề
tình cảm
lãng mạn,
nên khống
chế sân khấu
đến 200 năm
sau đó. Âm
nhạc của Nam
hí bao gồm
các khúc hát
dân gian,
các bài ca
dao ở thôn
quê với tính
chất địa
phương khá
đậm. Do đó
nó đã phát
triển thành
hệ thống bốn
giọng nói
địa phương:
Hải Diêm,
Dặc Dương,
Dư Diêu, và
Côn Sơn.
Khúc hát
vùng Côn Sơn
(gọi là Côn
khúc) chiếm
địa vị chủ
yếu từ cuối
đời Minh.
Đến đời
Thanh thì
Côn khúc
được gọi là
nhã bộ, rất
được sĩ đại
phu hâm mộ.
Khi Côn Khúc
suy, các
loại hí kịch
địa phương
nở rộ và
được gọi
theo tên địa
phương như
Xuyên kịch,
Tương kịch,
Cống kịch,
Huy kịch,
v.v...

Vai sơn mặt
 
Hai vai nữ trong Kinh
kịch
Năm 1790,
nhân sinh
nhật 18 của
vua Càn
Long, những
đoàn Huy
kịch (kịch
của An Huy)
gây ảnh
hưởng rất
lớn nhờ nghệ
thuật biểu
diễn xuất
sắc. Từ
những cuộc
biểu diễn
mừng sinh
nhật vua,
Huy kịch
phát triển
mạnh thành
thể loại
kịch mà ai
ai cũng
chuộng và
được gọi là
Kinh kịch.
Phong cách
Kinh kịch
khá đơn
giản, tự
nhiên, diễn
các truyện
văn học và
lịch sử quen
thuộc, bao
gồm các
loại: văn hí
(tuồng dân
sự), vũ hí
(tuồng chiến
tranh), đại
hí (tuồng
anh hùng),
và tiểu hí
(tuồng hài
hước). Kinh
kịch có bốn
vai chính:
sinh (vai
nam), đán
(vai nữ),
tịnh (vai
tà, thô lỗ,
hung dữ, mặt
có sơn vẽ),
và sửu (vai
hề). Vai nào
cũng phải
nói, hát,
múa, và các
diễn viên
phải có kỹ
năng nhào
lộn. Đầu thế
kỷ XIX, Kinh
kịch chiếm
địa vị độc
tôn trên sân
khấu, thay
thế hẳn Côn
khúc, và trở
thành loại
kịch phổ
biến nhất
Trung Quốc.
2. ÂM
NHẠC
Những phát
hiện khảo cổ
cho thấy
Trung Quốc
đã có truyền
thống âm
nhạc lâu
đời. Âm nhạc
là yếu tố
rất quan
trọng trong
nghi lễ, và
người Trung
Quốc cổ đại
cho rằng âm
nhạc là công
cụ giao tiếp
giữa con
cháu với tổ
tiên, giữa
vua với
trời. Thi
kinh, một
tuyển tập
các bài hát
từ thế kỷ XI
đến VII tcn
với các chủ
đề giao
duyên hay
phúng thích
chính trị,
đã cho ta
biết đến 29
loại nhạc
khí thuộc bộ
kích phát
(chiêng,
trống,
khánh, ...),
bộ gió (sáo,
địch, tiêu,
...), và bộ
dây (các
loại đàn).
Người Trung
Quốc dùng
rất nhiều âm
sắc và họ
phân loại
nhạc khí
theo bát âm:
kim
(chuông),
thạch (khánh
đá), thổ
(trống đất),
cách (trống
da), ti (đàn
dây), mộc
(mõ), bào
(trống bằng
trái bầu),
và trúc
(sáo).

Cổ cầm
Âm nhạc cổ
Trung Quốc
dùng hệ
thống ngũ
thanh (5
âm), tạo
thành âm
giai ngũ
cung: Cung,
Thương,
Giốc, Chủy,
Vũ. So với
năm nốt nhạc
hiện đại là:
Cung = Do
(C), Thương
= Re (D),
Giốc= Mi
(E), Chủy =
Sol (G), Vũ
= La (A).
Tương
truyền, sau
này, Văn
Vương thêm
hai âm phụ
là Biến Cung
và Biến
Chủy. Biến
Cung tương
đương Si (B)
và Biến Chủy
tương đương
Fa (F). Do
đó chúng tạo
thành thất
âm, tương tự
«âm giai dị
chuyển»
(gamme
diatonique)
như của Tây
phương.
Ngoài ra,
người Trung
Hoa còn phát
triển ngũ
thanh và
thất âm
thành 12 nốt
gọi là thập
nhị luật.
Luật có Âm
Dương. Sáu
nốt Dương là
Luật gồm:
1-Hoàng
Chung (=
Fa); 2-Thái
Thốc (=
Sol); 3-Cô
Tẩy (= La);
4-Nhuy Tân
(= Si); 5-Di
Tắc (= Do
thăng); 6-Vô
Dịch (= Ré
thăng). Sáu
nốt Âm là
Lữ, gồm:
1-Lâm Chung
(= Do);
2-Nam Lữ (=
Ré); 3-Ứng
Chung (=
Mi); 4-Đại
Lữ (= Fa
thăng);
5-Giáp Chung
(= Sol
thăng);
6-Trọng Lữ
(= Fa
thăng). Tóm
lại, trong
âm nhạc
Trung Quốc
cổ đại đầu
tiên xuất
hiện ngũ
thanh (5
âm), rồi
tăng thêm 2
nốt (biến
cung, biến
chuỷ) thành
thất âm, sau
cùng phát
triển thành
12 luật.
Về trình tự
phát triển
các nhạc
khí, bộ kích
phát (bộ gõ)
và bộ gió
phát triển
trước, sau
mới đến bộ
dây (đàn dây
khảy rồi đàn
dây kéo).
Đời Hạ và
Thương, loại
nhạc cụ kích
phát có sớm
hơn cả, gồm
cổ (trống)
và khánh
(đàn đá).
Sau đời Hạ
và đời
Thương, tùy
theo sự phát
triển của
nghệ thuật
biểu diễn mà
các loại
nhạc khí
không ngừng
phát triển.
Bộ kích phát
có cổ
(trống),
khánh (đàn
đá), nao
(chiêng
nhỏ), chung
(chuông
lớn). Bộ gió
có sanh (kèn
13 ống), vu
(kèn 16
ống), tiêu
(ống tiêu),
trì (sáo 7
lỗ). Bộ dây
có tranh
(đàn 13
dây), cầm
(đàn 7 dây),
sắt (đàn 50
dây).

Tì bà
|

Hồ Cầm
|

Địch
|

Sanh |

Tiêu
|

Toả nột (xô-na)
|

Tam huyền |

Nhị hồ |

Nguyệt
cầm
|

Cổ tranh

Não bạt
 
Trống |
Đời Chu
chung
(chuông)
phát triển
lớn hơn, gọi
là bác và
được treo
trên giá.
Năm 1978,
tại huyện
Tùy của tỉnh
Hồ Bắc,
người ta
khai quật
ngôi mộ của
Tăng Hầu Ất
(mất khoảng
năm 433 tcn)
đời Chiến
Quốc và lấy
được vô số
nhạc khí,
gồm những
đàn sắt lớn,
đàn cầm nhỏ,
trống, sáo,
khánh. Đáng
chú ý nhất
là 32 cái
khánh và 65
chuông treo
trên một giá
làm ba tầng.
Bộ chuông
này thể hiện
đủ các âm
vực. Những
chữ khắc
trên chuông
cung cấp rất
nhiều thông
tin về âm
nhạc các
nước Sở,
Tấn, Chu,
Tề, và Thân.

Giàn
nhạc cụ
(biên
chung)
của Tăng
Hầu Ất |
Đàn cầm và
đàn sắt có
thay đổi.
Đàn cầm ban
đầu có 5 dây
hoặc 10 dây,
hộp đàn bằng
gỗ cây ngô
đồng; đến
đời Tần-Hán
đổi thành 7
dây. Đàn sắt
đổi thành 25
dây; các dây
xếp theo âm
giai ngũ
cung; thân
đàn hình chữ
nhật.
Đời Hán coi
trọng địch,
kỳ thực nhạc
khí thuộc bộ
gió này đã
xuất hiện từ
thời Chiến
Quốc. Những
loại địch
của người Hồ
(tiếng chỉ
chung người
Ấn Độ và
người Trung
Á) như khang
địch và gia
(kèn trúc)
rất được ưa
chuộng.
Trong thời
này, đàn tì
bà được
truyền từ
Tây Vực vào
Trung Quốc.
Các đời
Nguỵ, Tấn,
Đường, đàn
sắt và kèn
vu ít xuất
hiện. Từ
giai đoạn
Ngũ Hồ và 16
nước, Trung
Nguyên loạn
lạc, rất
nhiều người
Hồ nhập cư
Trung
Nguyên, mang
theo văn hoá
và âm nhạc
Phật giáo,
gây ảnh
hưởng mạnh.
Tì bà là
nhạc khí
được chuộng
nhất thời
này. Nói
chung, nhạc
của Ấn Độ và
Trung Á ảnh
hưởng đến
nhạc từ đời
Hán đến đời
Đường; người
ta du nhập
những nhạc
khí mới và
thay đổi
loại nhạc
thế tục.
Đời Nam Bắc
Triều, âm
nhạc và ca
múa của
người Hồ lưu
hành rộng
khắp. Đàn tì
bà càng
thịnh hành,
chiếm địa vị
cao, kỹ
thuật diễn
tấu thêm
phong phú,
diễn được
khoảng 80
điệu. Từ Nam
Bắc Triều
đến đời Tùy,
đời Đường,
trong dàn
hợp tấu thì
tì bà chiếm
địa vị chủ
yếu với sự
phụ họa của
các nhạc khí
như sanh,
bài tiêu
(nhiều ống
tiêu ghép
lại thành
bè), địch,
tranh,
v.v... Thời
này, bộ kích
phát gia
tăng thêm
các loại
trống như
yêu cổ
(trống đeo
ngang thắt
lưng), kiết
cổ (trống
bịt da dê).
Các loại
dụng cụ giữ
nhịp cũng
xuất hiện
thời này như
đồng bạt
(chũm choẹ
tức não bạt
bằng đồng)
và phách bản
(thanh gỗ gõ
nhịp).
Các đời
Tống,
Nguyên,
Minh, Thanh
thể hiện sự
phối hợp mật
thiết giữa
âm nhạc và
nói, hát
trong hí
khúc. Do các
rạp hát và
kỹ viện phát
triển, các
nhạc khí
phát triển
theo hướng
hoà tấu.
Loại đàn dây
kéo như Hồ
cầm (đàn dây
kéo hai dây,
gốc Mông Cổ
và Tây Vực)
phát triển
mạnh. Ngoài
ra thời này
còn có đàn
dây hoả bất
tư và tam
huyền (đàn 3
dây). Hoả
bất tư gốc
từ Tây Á,
được truyền
vào khu vực
tây bắc
Trung Quốc
vào đời
Đường, nhưng
mãi đến đời
Nguyên nó
mới lưu hành
rộng rãi.
Tam huyền là
nhạc khí do
Trung Quốc
tự chế, vào
đời Minh nó
phân làm hai
loại lớn và
nhỏ. Đại tam
huyền thịnh
hành phía
bắc, tiểu
tam huyền
thịnh hành
vùng Giang
Nam. Một
nhạc khí mới
mẻ xuất hiện
vào thời này
là kèn toả
nột (thường
gọi là kèn
xô-na) có
miệng loe
rộng. Kèn
này gốc Ba
Tư, Á Rập,
du nhập
Trung Quốc
khoảng đầu
đời Minh.
Trong âm
nhạc dân
gian, kèn
toả nột
chiếm địa vị
trọng yếu.
Các loại đàn
cổ như cổ
cương cầm du
nhập từ
Rumani vào
Trung Quốc
đời Minh; cổ
phong cầm
gốc Hi Lạp
La Mã được
du nhập vào
đời Minh và
Thanh (có lẽ
do các giáo
sĩ Âu Châu)
và rất được
trọng ở cung
đình.
Nói chung,
hệ thống
nhạc khí
Trung Quốc
là hệ quả
của một quá
trình giao
lưu âm nhạc
giữa Trung
Quốc và các
nước Tây Á.
Thành quả
này cũng tác
động đến sự
phát triển
âm nhạc ở
Nhật Bản và
Triều Tiên.
3. VŨ
ĐẠO : NGHỆ
THUẬT MÚA
Nghệ thuật
múa Trung
Quốc gọi là
vũ đạo, có
từ thời xa
xưa, không
chỉ phục vụ
sinh hoạt
lao động mà
còn cho nghi
lễ tôn giáo
nữa. Múa cổ
đại phân làm
vu vũ
và nhạc
vũ.
Vu tức
là bà đồng
(đồng cốt nữ
gọi là vu,
đồng cốt nam
gọi là
hịch),
có nhiệm vụ
cúng tế cầu
đảo. Trong
thời Thương
đời Chu, một
số vu chiếm
địa vị cao
trong triều
đình. Do đó
vu vũ
là hình thức
vũ đạo tôn
giáo của các
vu
khi cúng bái
cầu đảo.
Nhạc vũ do
nô lệ biểu
diễn, chủ
yếu để phục
vụ giải trí
chốn cung
đình.

Đầu đời Tây
Chu, lễ và
nhạc được
qui định.
Nhạc vũ được
chỉnh đốn
thành nhã
nhạc mang
tính chất
cung đình,
và vũ đạo
của giới nô
lệ trước đây
được nâng
cao. Cuối
đời Tây Chu,
vương thất
nhà Chu suy
thoái, nhã
nhạc mất dần
tác dụng
khống chế
của nó. Nhạc
và vũ đạo
dân gian
phát triển
mạnh, thay
thế nhã
nhạc.
Vũ đạo Trung
Quốc sau đời
Tần và đời
Hán có thể
phân làm hai
giai đoạn,
lấy đời Tống
làm ranh
giới. Từ hai
đời Tần-Hán
đến đời
Tống, vũ đạo
chủ yếu là
nghệ thuật
biểu diễn
trong các
hoạt động
văn hoá,
giao tế, và
yến tiệc của
giới quý
tộc. Vũ đạo
đỉnh thịnh
vào đời Hán
và đời
Đường. Thời
Lưỡng Hán,
triều đình
lập cơ quan
quản lý về
âm nhạc và
vũ đạo gọi
là nhạc phủ.
Các gia đình
quý tộc nuôi
các nghệ
nhân về vũ
đạo.
Thời
Ngụy-Tấn và
Nam Bắc
Triều, miền
nam Trung
Quốc kế thừa
âm nhạc đời
Hán và phát
triển thể
loại vũ đạo
gọi là nhã
vũ và tạp
vũ. Nhã vũ
phục vụ sinh
hoạt tôn
giáo và tạp
vũ phục vụ
cho hội hè
yến tiệc.
Trong khi
đó, miền bắc
Trung Quốc
bị người Hồ
cai trị, cho
nên tất
nhiên vũ đạo
mang đậm nét
của người
Hồ. Âm nhạc
của Ấn Độ và
Tây Vực
thịnh hành
cả cung đình
lẫn dân
gian.
Đầu đời Tùy,
nhã nhạc
được chỉnh
đốn, pha
trộn cổ nhạc
của Nam
Triều với Hồ
vũ (vũ đạo
của người
Hồ) của Bắc
Triều. Đời
Đường kế
thừa nhã
nhạc đó và
du nhập thêm
vũ đạo của
Ba Tư, phân
làm hai nhóm
biểu diễn.
Nhóm ngồi và
nhóm đứng.
Nhóm ngồi
biểu diễn ở
trên thềm
cung điện,
nhóm đứng
biểu diễn ở
dưới thềm.
Đời Đường là
đỉnh cao của
sự dung hợp
các nền văn
hoá, âm
nhạc, vũ đạo
của các dân
tộc và các
địa phương.
Từ đời Tống
về sau, vũ
đạo Trung
Quốc đã phát
triển hoàn
toàn khác.
Vũ đạo với
vị thế độc
lập bị suy
yếu bởi vì
nhiều hình
thức hí
khúc, kể
chuyện,
v.v... đã
phát triển
mạnh. Những
tiết mục độc
lập của vũ
đạo có từ
đời Đường đã
biến thái và
nhập vào ca
vũ kịch hoặc
tạp kỹ
(xiếc, nhào
lộn). Vũ đạo
chuyên
nghiệp đã
suy thoái
tại cung
đình còn vũ
đạo dân gian
thì thịnh
hành vào
thời này.
4. TẠP
KỸ
Tạp kỹ
(xiếc, nhào
lộn) là một
thể loại
nghệ thuật
biểu diễn
lâu đời tại
Trung Quốc.
Những phát
hiện khảo cổ
cho thấy
ngay từ thời
đồ đá mới đã
có những
dụng cụ biểu
diễn tạp kỹ
như quả cầu
bằng đá, dây
để ném,
v.v...
Sau khi Tần
Thủy Hoàng
Đế thống
nhất Trung
Quốc, ông
quy tụ hầu
hết
nhân tài của
các nước cũ
về Hàm
Dương, trong
số đó có cả
nghệ nhân
tạp kỹ. Đời
Hán phát
triển một
hình thức
gọi là bách
hí, bao gồm
nhạc vũ và
tạp kỹ. Tạp
kỹ từ đó trở
thành bộ môn
nghệ thuật
biểu diễn
được phát
triển thành
thục. Các
tiết mục tạp
kỹ đời Hán
bao gồm: leo
sào, leo
dây, phóng
dao, lăn
vòng lửa,
trồng chuối
ngược,
v.v... Ngoài
ra còn một
số tiết mục
du nhập từ
Tây Vực như
ảo thuật,
nuốt dao,
phun lửa,
v.v...

Tiết mục
đi dây
của tạp
kỹ |
Đời Nguỵ-Tấn
và Lục
Triều, các
tiết mục của
dân du mục
như cưỡi
ngựa và đấu
võ được phát
triển ở
Trung
Nguyên. Ở
Lạc Dương
đời Bắc Nguỵ
có múa sư
tử. Đời
Tùy-Đường,
tạp kỹ cung
đình đỉnh
thịnh. Tại
Trường An và
Lạc Dương
qui tụ rất
nhiều nghệ
nhân biểu
diễn tạp kỹ.
Tiết mục tạp
kỹ đời Đường
còn được
truyền sang
Triều Tiên
(như ảo
thuật) và
Nhật Bản
(như múa sư
tử, phóng
dao, leo
dây).
Đời
Tống-Nguyên,
bách hí bị
thu hẹp và
phân hoá
thành các bộ
môn độc lập.
Nhiều rạp
hát và sân
biểu diễn
được hình
thành tại
các đô thị.
Thời Nam
Tống các
nghệ nhân
kịch và tạp
kỹ quy tụ
thành những
gánh hát gọi
là xã hoà.
Những nghệ
nhân phiêu
bạt, không
có cơ hội
biểu diễn
trong rạp
hát, thì
biểu diễn
rong trên
đường phố,
gọi là lộ
kỳ. Đại khái
như các đoàn
hát rong Sơn
Đông mãi võ
sau này.
Đời
Minh-Thanh,
tạp kỹ suy
thoái, nghệ
nhân chủ yếu
thuộc loại
lộ kỳ, tức
đi biểu diễn
rong ở hang
cùng ngõ
hẻm, bến
tàu, v.v...
Đầu đời
Thanh, phần
lớn các nghệ
nhân tạp kỹ
bị bức hại
(có lẽ vì lý
do chính
trị: triều
đình truy
quét các
phong trào
phản Thanh
phục Minh).
●
LÊ ANH MINH
TƯ LIỆU THAM
KHẢO CHÍNH
1. E.L.
Shaughnessy,
China,
Oxford,
2000.
2. Wolfram
Eberhard,
A History of
China,
University
of
California
Press, 1977.
3. Jacques
Gernet, A
History of
Chinese
Civilisation,
Cambridge
University
Press, 1987.
(Bản dịch
tiếng Anh
của J.R.
Foster).
4. Một số
trang Web
của Trung
Quốc về đề
tài này. Các
hình ảnh vay
mượn từ các
trang web
này.
|