Lăng Đan Dương
của
vua Quang Trung ở đâu ?
Xin góp một câu trả lời
*******
Cung điện Đan Dương thời Quang
Trung
Mỗi độ
Xuân về, tâm trí tôi lại bận rộn với những ngày kỷ niệm lịch sử trong năm
mới. Năm 2007, đúng 215 năm (1792-2007) vua
Quang Trung qua đời
tại Huế và tiếp đến 2008, sẽ kỷ niệm 220 năm (1788-2008) Nguyễn Huệ lên ngôi
tại Phú Xuân và lấy niên hiệu Quang Trung. Do đó, nhiều bạn bè nghiên cứu ở
trong và ngoài nước hối thúc tôi phải làm rõ hơn lời giải đáp cho câu hỏi
«Dấu tích lăng mộ vua Quang Trung ở đâu ? » mà tôi đã công bố trong cuốn
sách Đi Tìm Lăng Mộ Vua Quang Trung do Viện Sử học Việt
Nam xuất bản đúng 15 năm trước (1992).
Trong quá trình
nghiên cứu, tôi đã khai thác các nguồn tư liệu trong và ngoài nước, tư liệu
sử học, văn học cổ, địa lý lịch sử, bút ký lịch sử, thảo mộc học, thuật
phong thủy, tư liệu điền dã để hoàn thành công trình trên. Công trình đã
được nhiều học giả (như Hoàng Xuân Hãn, Lê Thành Khôi, Trần Quốc Vượng,
Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Nhã .v.v) đánh giá cao, xem như
một giải pháp khả thi nhất so với tất cả những công trình nghiên cứu lăng mộ
vua Quang Trung có trước và sau đó. Đầu thập niên chín mươi của thế kỷ
trước, Thành phố Huế đã nổ lực đầu tư nghiên cứu với cố gắng chứng minh
lăng Ba Vành ở phía sau Tu viện Thiên An là lăng mộ vua Quang Trung và dự
định đầu tư để tôn tạo ngôi lăng « lịch sử » nầy để ra mắt đồng bào cả nước
vào dịp kỷ niệm 200 năm vua Quang Trung qua đời (1792-1992). May sao, nhà
nghiên cứu Trần Đại Vinh đã kịp thời chứng minh lăng Ba Vành là lăng mộ «Hộ
bộ kiêm Binh bộ Lê Quang Đại » thời chúa Nguyễn Phúc Hoạt (Khoát) và công
trình nghiên cứu của tôi chứng minh lăng mộ vua Quang Trung có thể ở ấp Bình
An gần chùa Thiền Lâm (78B Điện Biên Phủ, Huế ngày nay) ra đời, việc đầu tư
của Thành phố Huế phải dừng lại. Và, từ đó các nhà nghiên cứu không còn quan
tâm đến lăng Ba Vành nữa. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của tôi cũng
chưa có câu trả lời dứt khóat « lăng mộ vua Quang Trung cụ thể nằm ở tọa độ
nào » vì còn phải chờ khai quật khảo cổ học. Các vị trách nhiệm ở Viện Khảo
cổ Việt Nam, ở viện Sử học Việt Nam, ở sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên
(cũ)… hứa sẽ đưa vào chương trình khai quật ngay sau năm 1992. Nhưng đã 15
năm trôi qua lời hứa đó đã rơi vào quên lãng, nhiều người hứa đã qua đời (GS
Trần Quốc Vượng), hay đã hưu trí (GS Hòang Xuân Chinh, Viện Khảo cổ, Nguyễn
Minh Hằng - Giám đốc sở VHTT TTH). Đã có nhiều lời giải thích về sự « quên
lãng » lịch sử ấy. Trong đó có một vị quan chức nói nhỏ với tôi : «Không ai
nói công trình của anh không khả thi cả, nhưng ….anh cứ thử chết đi thì
người ta sẽ …..». Vì thế hôm nay, tôi có tái bản cuốn sách của tôi cũng
không giải quyết được vấn đề gì khi các cơ quan chức năng chưa vào cuộc,
chưa khai quật khảo cổ học địa điểm mà tôi đã chứng minh bằng tư liệu lịch
sử và hiện vật điền dã. Cho nên tôi vẫn tiếp tục chờ. Nếu tuổi thọ tôi kém
thì các con, các cháu tôi cũng sẽ tiếp tục chờ. Trong loạt bút ký nầy tôi
không dám đề cập đến những vấn đề ngoài tầm tay của tôi.
*
* *
Như các nhà nghiên cứu văn học cổ
từng biết Ngô Thì Nhậm là một trọng thần của vua Quang Trung. Bài
CẢM HOÀI
(Xúc cảm trong lòng) trong tập
thơ đi sứ (1793) HOÀNG HOA ĐỒ PHẢ, Ngô Thì Nhậm có một nguyên chú cho biết
“Cung điện Đan Dương
là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàn ta” [1].
Đây là một thông tin lịch sử quí giá
không ai có thể phủ nhận được. Thông tin đó chứng tỏ lăng Đan Dương của vua
Quang Trung ở ngay trong cung điện Đan Dương hay nói cách khác Cung điện Đan
Dương là nơi táng vua Quang Trung và từ đó nó trở thành lăng Đan Dương/lăng
vua Quang Trung, giống như Khiêm Cung của vua Tự Đức sau trở thành Khiêm
Lăng vậy. Lăng Đan Dương nằm trong khu vực Cung điện Đan Dương. Có thế ví
như cái bu-gi gắn trong ổ máy một chiếc ô-tô. Trong lúc chờ khai quật để
biết cái bu-gi (lăng Đan Dương) nằm vào chỗ nào, qua tài liệu và hiện vật
điền dã tôi mời độc giả cùng tôi đi tìm chiếc ô-tô (cung điện Đan Dương).
Tìm được Cung điện Đan Dương thì cũng đã là tặng vật vô giá cho lịch sử Việt
Nam rồi.
*
* *
Các vua chúa ngày xưa,
ngòai cung điện chính ở Kinh đô, luôn có những
cung hành tại
ngòai Kinh thành. Cũng giống như vua chúa bên
phương Tây có các cung điện mùa Hè, cung điện mùa Đông vậy. Vua Quang Trung
cũng có những cung hành tại, nhưng rất tiếc sử sách viết về những cung điện
ấy đã bị thiêu hủy hết từ đầu triều Nguyễn. Nhưng may sao, các nhà thơ trọng
thần của vua Quang Trung như Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm đã để lại cho chúng
ta ít nhiều thông tin về những cung điện bên ngòai Đô thành Phú Xuân thời
ấy.
Lời nguyên dẫn bài thơ Phụng thị
ngự doanh khâm ngọan nhãn kính (vào hầu ở ngự doanh vua xem kính đeo
mắt, kính ghi), Ngô Thì Nhậm viết: “xa
giá về cung hành tại, tôi ngồi chờ ở Phù Bảo viện
(nơi giữ ấn tín của vua)”[2]
Lời nguyên dẫn cho biết vua Quang
Trung có một cung hành tại để “về”. Cung hành tại phải lớn thì ở đó mới có
một Phù Bảo viện riêng.
Vậy thì Cung hành tại ấy của vua
Quang Trung tên gì? và ở đâu ?
Ngày 29.7 (nhuận) năm Nhâm
Tý (1792), vua Quang Trung mất. Ngô Thì Nhậm được cử sang Trung Quốc báo
tang và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh (Quang Toản). Vì uy tín của vua Quang
Trung rất lớn, nhà nước Trung Hoa lúc ấy đã có những nghi lễ đón tiếp trọng
thị. Điều đó làm cho Ngô Thì Nhậm càng cảm niệm công ơn to lớn của vua Quang
Trung. Trong khi đang xúc động ấy, ông đã viết bài
Cảm hoài
(xúc động trong
lòng) và ghi một lời chú ở dưới bài thơ. Câu 8 bài thơ: “Đan
Dương cung điện nhật tam thu”
(Trông về điện Đan Dương một ngày coi bằng ba
thu). Tác giả chú : “Cung
điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”
như tôi đã dẫn ở trên. Đây là một nguyên
chú ở dưới bài thơ chứ không phải là một câu thơ trong một bài thơ. Nguyên
chú nầy là một tư liệu lịch sử vô giá.
Bài thơ và lời chú cho biết vua Quang Trung có
một cung điện tên là Đan Dương, cung điện này ở vùng núi, sau
đó được sử dụng làm lăng cho vua Quang Trung, nên gọi là Sơn Lăng.
Không những trong bài
Cảm hoài mà trong nhiều bài thơ khác, Ngô Thì Nhậm cũng nhắc đến
Đan Dương Lăng, Đan Lăng. Xin trích một số dẫn
chứng:
- Bài thơ “Đạo ý”
có viết "Vọng Đan Dương” [3]
- Bài “Khâm vãn Đan
Dương Lăng” (Kính viếng lăng Đan Dương)
- Bài “Sóc vọng thị tấu
nhạc, Thái Tổ miếu, cung ký”[4] (Ngày lễ rằm, mồng một tấu nhạc miếu
Thái Tổ, kính ghi) có câu: "Đan Lăng thức mục tử vân thâm”
(Chốn Đan Lăng ngước mắt, áng tử vân âm u)
- Bài “Tòng giá bái
tảo Đan Lăng, cung ký" (Theo xa giá đi bái tải Đan Lăng, kính
ghi)
[5].Trong
bài thơ này lại có câu: “Sơn Lăng vạn cổ điện Thần kinh”
(Sơn Lăng muôn thuở là nơi yên nghỉ tinh thần).
Người em rể của Ngô
Thì Nhậm là Phan Huy Ích cũng đã nhiều lần đề cập đến Đan Lăng. Trong một
bài thơ xướng họa với ông anh vợ đồng triều, Phan Huy Ích tâm sự về nỗi nhớ
tiếc cuộc gặp gỡ của hai người với vua Quang Trung, khó lòng tìm được một
cuộc gặp gỡ như thế nữa. Trước khi viết bài thơ mang số 282, ông đã viết một
nguyên dẫn với câu:
“Khúc Đan Dương
ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài
”. [6]
Năm 1799, bà Thái Vũ hoàng hậu Lê
Ngọc Hân mất, Phan Huy Ích viết hộ cho vua Quang Toản một điếu văn, tác giả
đã để lộ cho biết triều Quang Toản đã thỏa mãn nguyện vọng muốn được mãi mãi
ở cạnh Quang Trung của bà Ngọc Hân, triều đình đã cho táng bà bên cạnh lăng
vua Quang Trung, tức Đan Dương. Điếu văn có đọan:
“Nguyện cũ hẳn nay lọn vẹn
Bên
Đan Lăng
quanh quất mạch liên châu”
[7]
Ngoài kinh thành Phú Xuân, không rõ
vua Quang Trung có mấy cung hành tại (hành cung); qua thơ văn của Ngô Thì
Nhậm và Phan Huy Ích, chúng ta biết được vua Quang Trung có ở vùng núi một
cung điện có tên là Đan Dương. Sau ngày vua Quang Trung mất,
cung điện Đan Dương được chuyển làm lăng của vua Quang Trung
với cái tên gọi Đan Lăng, Đan Dương Lăng hay Sơn Lăng.
Đan Lăng là lăng đỏ. Ngày xưa đặt tên đất theo Ngũ hành (kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ), những di tích phía nam có mang ý nghĩa đỏ (phía bắc màu
đen, phía đông màu xanh, phía tây màu trắng và trung tâm màu vàng). Như thế,
vị trí của Đan Lăng nằm về phía nam của Kinh đô Phú Xuân lúc
ấy.
Hai chữ Sơn Lăng
cũng gợi lên hình ảnh cái lăng ở vùng núi. (Trong thực tế, vùng đồng bằng xứ
Huế hay bị ngập lụt, lăng mộ của vua chúa thường nằm trên vùng núi cả). Đan
Lăng tọa lạc ở vùng núi nào ?
Đứng trước câu hỏi nầy tôi bổng
nhớ đến chuyện ông Heinrich Schliemann - một thương gia Đức đã dựa
vào hai bộ sử thi Illiade và
Odyssée của Homère để khai quật (1870) di chỉ Thành Troie bị
vùi sâu trong lòng đất hơn 2000 năm trước và tìm thấy "Kho báu Priam"
ở phía Đông Bắc bán đảo Xiasia.
Heinrich Schliemann
và sơ đồ Thành Troie. TL Internet
Heinrich Schliemann là người Đức, đi khai quật
một di chỉ được biết đến trong chuyện thần thọai ở Thổ Nhĩ Kỳ hơn hai ngàn
năm trước mà thành công. Chúng ta có đến hàng chục câu thơ và nguyên chú của
các trọng thần thời Quang Trung và nhiều tài liệu khác nữa về lăng Đan
Dương, và chỉ cách chúng ta mới hơn hai trăm năm (1/10 thời gian của Thành
Troie với Heinrich Schliemann) ở ngay trên đất Huế, vô lẽ chúng ta không
trả lời câu hỏi nầy được sao ?
Khát vọng trả lời câu hỏi nầy cháy bỏng trong
tôi gần 1/4 thế kỷ qua.
Chú thích
[2]Tuyển
tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Nxb KHXH, H. 1978, t.I, tr.213-214
[6]Thơ văn Phan Huy
Ích, t.III, Dụ Am ngâm lục, KHXH, H. 1978, tr.43
[7] Hoàng Thúc Trâm,
Quốc văn đời Tây Sơn, Vĩnh Bảo, Sg. 1950, tr.40.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Đắc Xuân
|