Trái thơm vị chua, ngọt, ngoài việc dùng để ăn tráng
miệng, làm nước uống, làm bánh, người ta còn dùng để trị bệnh
Tên thông thường: Pineapple, Ananas, Nanas, Pina.
Tên khoa học:
Ananas comosus, họ Bromeliaceae
Cùng giống:
Ananas ananassoides
, Ananas
bracteatus...
I/
Nguồn gốc:
Nguồn gốc từ Brazil và
Paraguay, được người da
đỏ trồng , lan rộng từ Trung và Nam Mỹ đến miền Tây trước khi
Christopher
Columbus tìm thấy trái thơm trên hòn đảo Guadaloupe
(1493) rồi đưa về Tây Ban
Nha. Sau đó người Tây Ban Nha mang trái thơm theo tàu, để thủy thủ khỏi bị bịnh
Scorbut, thành ra trái thơm được phổ biến khắp thế giới. Họ nhập trái thơm
vô Phi Luật Tân và có thể qua tới Hawaii và Guam những thập niên đầu thế
kỷ thứ 16 . Trái thơm được nhập qua nước Anh năm 1660 và được trồng trong nhà
kiếng khoảng năm 1720.
Vào năm 1800 người ta bắt đầu
trồng và bán ở Açores, Australie, ở Hawaii và Nam Phi châu. Thái Lan và Phi luật
Tân hiện nay là những nước sản xuất thơm quan trọng nhất.
Ngày nay thơm
được trồng trong hầu hết các nước vùng nhiệt đới, không những tại Nam Mỹ, Trung
Mỹ, Caraibes mà còn ở Úc, các đảo của Thái Bình Dương và nhiều nước châu Á và
Châu Phi
Người Pháp gọi là "ananas" từ
chữ "nana nana" của người da đỏ và thổ dân Paraguay, có
nghĩa là "thơm", . Người Tây Ban Nha đặt tên là piña
vì nó giống trái thông. Người Anh lấy ý nghĩa này và
đặt tên trái này là pineapple.
Thơm là trái cây nhiệt đới,
thích hợp với môi trường ẩm thấp, nhưng có thể chịu đựng tới nhiệt độ
28°F (-2°C), nhưng ở nhiệt độ lạnh, cây lớn chậm và trái chua
 
Hoa thơm

Hoa hơm rụng đi, thành
mắt thơm
II/ Thành phần
Trái thơm chứa nhiều
enzyme: pectase, invertase, peroxydase, desmolases và
nhất là broméline, enzyme đặc biệt nhất của trái thơm. Chất này có trong trái
thơm, cộng thơm và lá thơm. Sở dĩ nó làm mềm thịt là nhờ
nó có khả năng chia cắt các
protéine ra làm những phân tử đơn giản hơn tức là nhỏ hơn (cũng
như thể nó "tiêu hóa" giùm ta phần đầu)
Thành phần trung bình cho 100 g thơm
Thành phần |
(g) |
Glucide |
11.6 |
Protide |
0.50 |
Lipide |
0.20 |
Acide hữu
cơ |
0.90 |
Nước |
84.8 |
Chất xơ |
1.40 |
Khoáng chất |
(mg) |
Potassium (K) |
146.0 |
Phosphore (P) |
11.00 |
Calcium (Ca) |
15.00 |
Magnésium (Mg) |
5.000 |
Lưu
huỳnh (S) |
3.000 |
Sodium (Na) |
2.000 |
Sắt (Fe) |
0.300 |
Đồng (Cu) |
0.080 |
Kẽm (Zn) |
0.090 |
Manganèse (Mn)
|
0.400 |
Fluor (F) |
0.010 |
Iode (I) |
0.010 |
|
|
Vitamin |
(mg) |
Vitamin C (ac. ascorbique) |
18.00 |
Provitamin A (carotène) |
0.060 |
Vitamin B1 (thiamine) |
0.080 |
Vitamin B2 (riboflavine) |
0.030 |
Vitamin B3 ou PP (nicotinamide) |
0.300 |
Vitamin B5 (ac. panothénique) |
0.160 |
Vitamin B6 (pyridoxine) |
0.090 |
Vitamin B9 (ac. folique) |
0.014 |
Vitamin E (tocophérols) |
0.100 |
|
So sánh khả năng thủy giải:
Enzyme |
Khả
năng thủy giải tương đương |
Pancréatine |
100 mg
|
Trypsine |
24 mg
|
Chymotrypsine |
1 mg
|
Bromélaïne |
45 mg
|
Papaïne |
60 mg
|
III/ Công
dụng của
broméline
Broméline hiện
diện trong thân, lá, cuống thơm nhiều hơn trong thịt
trái thơm. Người ta ly trích chất broméline từ vỏ
trái thơm, cuống thơm, cọng thơm... , còn thịt trái
thơm dùng để ăn.
Ngoài việc phân cắt
protéine, (các bạn đừng sợ, vì dạ dày có chất nhờn che
chở), ngày nay broméline được trích ra để điều chế thuốc
tây, để trị nhiều chứng bịnh. Có
hai cách trị liệu:
-
Uống:
làm giảm đau khớp, làm cho dễ tiêu hóa, tham dự vào việc giải tỏa sự bế
tắt đường hô hấp, chữa bịnh viêm xoang, bịnh viêm tĩnh mạch, bớt sự trở lại
chứng nhồi máu và những cơn viêm họng, giúp cho một số thuốc hấp thụ được,
hỗ trợ cho việc trị các khối ung thư
-
Xức bên ngoài:
giúp mau lành sẹo các vết thương dưới da:
broméline dùng để làm lành vết
thương và thành sẹo nhanh chóng sau khi giải phẫu
hay bị thương vì thể thao.
IV/ Những nghiên
cứu lâm sàng:
1) Chữa trị chấn
thương
Dùng
broméline
để chữa bệnh sưng phù sau khi bị chấn thương. Dùng
với liều lượng cao, sẽ làm giảm đau, sưng phù. Năm
1960 một nghiên cứu trên 146 võ sĩ quyền anh đau vì
bị đụng giập và bọc máu thì 78% được chữa trị với
broméline thì sau 3-4 ngày là hết ,trong lúc
không dùng broméline thì chỉ 14%
người lành. Số còn lại thì những người uống
broméline hoàn toàn lành hẳn sau 8 ngày so với
14 ngày cho những người không dùng broméline.
2) Chữa thấp
khớp:
Hôm tháng 2 vừa qua, những nhà khoa học
đã thử nghiệm một tổng hợp mới và hy vọng rằng chất
broméline có thể làm giàm đau nhức các chứng thấp khớp
(Arthrose)
nơi đầu gối hay bả vai
a) Đau nhức xương đầu gối
Các nhà khoa học phân tích kết quả
của 10 cuộc nghiên cứu trên tác dụng của chất
broméline trên
chứng đau khớp đầu gối, với lượng hàng ngày là 60 mg tơi 1890
mg.
Một trong số 10 nghiên cứu đó mang lại
kết quả là broméline làm giảm sưng cho 18 bệnh nhân trong số 29
người đau chứng thấp khớp. Một nghiên cứu khác để mở ngõ cho mọi
người tham gia, dùng broméline 200 mg, hay 400 mg mỗi
ngày và họ cảm thấy rằng sự cử động các khớp xương dễ dàng hơn
và đồng thời giảm bớt sự cứng ngắc.
b)
Đau nhức bả vai:
Có hai nghiên cứu lâm sàng trên thấp
khớp nơi bả vai là cho bệnh nhân dùng liều lượng 540 mg
broméline mỗi ngày thì hình như có hiệu quá gấn như chất
diclofénec
V / Ăn trái thơm có làm giảm cân không ?
Người ta
quảng cáo rằng ăn thơm làm giảm cân vì chất broméline là một "enzyme tiêu mỡ" . Nhưng thực tế thì
những cây họ broméliacée có chứa enzyme
broméline hầu hết
ở trong thân cây, trong cuống, lõi thơm
nhưng có ít trong
thịt trái thơm.
Broméline là một
protéase
nên
chỉ tác dụng trên các
protéine. Công dụng của
broméline không
đáng kể so với các
enzyme do cơ thể chúng ta tạo ra. Bởi vậy ăn thơm
hay uống các viên thuốc
broméline trích từ cây thơm, đều
không có tác dụng làm giảm cân.
|