
Tế bào gốc (stem cell) là một loại tế bào đặc biệt. Được gọi là gốc (stem)
vì một trong những đặc tính của chúng là có thể sinh sản ra những tế bào
chuyên biệt, mà tính chất sẽ được nói tới ngay sau đây. Trong con người, mỗi
cơ quan như tai, mắt, tim, phổi,... được cấu tạo bởi những tế bào có khả
năng duy trì hình dạng, cấu trúc và hoạt động riêng biệt của cơ quan đó.
Nguời ta gọi chúng là những tế bào chuyên biệt (specialized cells). Trừ một
số trường hợp đặc biệt, thí dụ như hồng huyết cầu (red blood cell), hầu hết
mọi tế bào đều có nhân. Trong nhân có các cặp nhiễm thể (chromosome pairs)
chứa những dây DNA mang tin tức di truyền của mỗi loại tế bào. Nhắc lại là
DNA là một cơ cấu phức tạp, giữ vai trò quyết định trong nhiều hoạt động
quan trọng của tế bào. Thông thường nhân tế bào có 46 dây nhiễm thể, tạo
thành 23 cặp. Tế bào chuyên biệt sinh sản hay tái tạo (reproduce) theo cách
bào phân (chia đôi). Trong quá trình bào phân, vì dây DNA được sao chép, nên
mỗi tế bào con sẽ "giống như đúc" tế bào mẹ. Thí dụ như tế bào da sẽ tái tạo
thành tế bào da, và tế bào bắp thịt thành tế bào bắp thịt. Để tìm hiểu sự
liên hệ giữa tế bào gốc và tế bào chuyên biệt, ta hãy trở lại thời kỳ trứng
nước của mỗi con người. Sự thụ thai và tế bào gốc phôi (embryonic stem cells)
Khi đến tuổi dậy thì, trong cơ thể người nam bắt đầu có tinh trùng
(sperm). Đặc biệt tế bào của tinh trùng chỉ có 23 dây nhiễm thể, thay
vì 46 như trong đa số các tế bào khác. Tương tự, phái nữ bắt đầu có trứng
(egg), và trong tế bào trứng cũng chỉ có 23 dây nhiễm thể. Khi tinh trùng
gặp trứng để bắt đầu giai đoạn thụ thai thì 23 dây nhiễm thể của mỗi bên sẽ
kết hợp để trở thành 46 dây (23 cặp), giống tế bào bình thường. Trứng thụ
tinh được gọi là "zygote," và bắt đầu bào phân sau khoảng 36 giờ. Tiến trình
trên xẩy ra trong ống Fallopian, đường nối giữa buồng trứng và tử cung. Sau đó các tế bào tụ tập thành một bọc và di chuyển vào tử cung. Bọc trên
giống như một trái banh rỗng được gọi là "blastocyst" (phôi bào). Khi vào
trong tử cung, phôi bào tiếp tục phát triển. Bên trong, khoảng trên, dưới
100 tế bào sinh sản từ "zygote" tụ tâp lại thành một khối có tên là khối nội
bào (inner cell mass). Chừng 8 ngày sau khi thụ tinh, phần ngoài của phôi
bào bám vào thành tử cung để sửa soạn tạo thành nhau (placenta). Trong khi
đó những tế bào trong khối nội bào tiếp tục phát triển để tạo nên những cơ
quan trong người. Đến khoảng tuần thứ bốn phôi thai (embryo) thành hình. Mặc
dù chỉ nhỏ bằng hạt đậu, trong đó hầu hết những cơ quan cần thiết của con
người bắt đầu xuất hiện. Đương nhiên những cơ quan trong phôi thai phải được
cấu tạo bởi những tế bào chuyên biệt (specialized cells), và được sinh ra từ
những tế bào trong khối nội bào - tế bào gốc. Vì nằm trong và là nguồn gốc
của phôi thai nên những tế bào này được gọi là tế bào gốc phôi (embryonic
stem cells). Từ trên ta thấy nhiều điều quan trọng. Thứ nhất, tế bào gốc phôi có thể tự
tái tạo (reproduce - tế bào con giống tế bào mẹ, DNA không đổi) giống như tế
bào bình thường. Thí dụ như từ một "zygote" thành nhiều tế bào trong khối
nội bào. Lưu ý là chúng có thể ở tình trạng chưa chuyên biệt hóa vì chúng
không có cơ cấu mô (tissue) giống như trong các cơ quan chuyên biệt (tim,
phổi, gan,...), vốn cần những tế bào chuyên biệt để duy trì. Hơn thế nữa,
thí nghiệm còn cho biết chúng có thể tự tái tạo vô hạn định. Thứ hai, khi có
đủ điều kiện thích hợp, chúng có thể biệt phân (differentiate - DNA của tế
bào con hoạt động khác với DNA của tế bào mẹ) để tạo ra những tế bào chuyên
biệt, hầu xây dựng những cơ quan khác nhau trong phôi thai. Sự dẻo dai và
tính đa năng của tế bào gốc đã được các khoa học gia chú ý đến từ lâu. Họ hy
vọng rằng tế bào gốc, trong quá trình biệt phân, có thể tái tạo những mô bị
hư hỏng gây nên bởi một số bệnh nan y như Parkinson, tịểu đường, Lou
Gehrig,...Từ đó nhiều kết quả khảo cứu đã được công bố với nhiều kỳ vọng.
Đến đây có một câu hỏi được đặt ra. Khi thai nhi ra đời và sau đó trưởng
thành thì trong người còn tế bào gốc không? Tế bào gốc trưởng (adult stem cells)
Để trả lời ta câu hỏi trên ta hãy trở lại trường hợp hồng huyết cầu. Những
tế bào hồng huyết có đời sống trung bình khoảng ba, bốn tháng và không thể
sinh sản được vì không có nhân. Đến giai đoạn cuối chúng được chuyển về gan
để được phân hủy thành một hợp chất có chứa sắt. Lúc này một tiến trình đặc
biệt xuất hiện. Một loại tế bào khác trong tủy xương (bone marrow) sẽ dùng
sắt vừa kể để tái tạo hồng huyết cầu. Như vậy tế bào trong tủy xương có khả
năng sinh sản, và khác với hồng huyết cầu. Ta thấy ngay là trong sự sinh sản
này có sự biệt phân (differentiation). Những tế bào trong tủy xương của mỗi
người phải là tế bào gốc. Các khoa học gia gọi chúng là những tế bào gốc tạo
huyết (Hematopoietic Stem Cells - HSCs). HSCs cũng biệt phân để tạo bạch
huyết cầu (white blood cells) và tiểu cầu (platelet, có khả năng làm đông
máu). Nguời ta còn tìm thấy tế bào gốc trong nhiều bộ phận khác trong một cơ thể
đã trưởng thành, như trong óc, gan, ruột, bắp thịt, da,....Chúng nằm trong
những vùng riêng biệt, sâu trong mô và có thể duy trì tình trạng chưa chuyên
biệt trong nhiều năm. Chúng chỉ hoạt động khi có nhu cầu tăng số tế bào, hay
khi mô bị tổn thương, hoặc bị bệnh. Tất cả những tế bào gốc tìm được trong
một người trưởng thành được gọi chung là tế bào gốc trưởng (adult stem
cells). Những tế bào gốc trưởng thường không được dẻo dai như những tế bào gốc phôi.
Khả năng tái tạo (reproduce) và biệt phân (differentiate) của chúng rất giới
hạn. Nhìn vào tính biệt phân của tế bào gốc đầu tiên, "zygote," ta thấy tế
bào này có thể tạo ra phôi bào và sau đó, tất cả những loại tế bào chuyên
biệt của các cơ quan trong con người. Các khoa học gia gọi loại tế bào này
là "totipotent stem cell" (tế bào gốc toàn năng). Trong phôi thai, như trên
đã trình bầy, ta có những tế bào gốc kém "zygote" một bậc. Đó chính là tế
bào gốc phôi (embryonic stem cells). Chúng có thể biệt phân thành mọi loại
tế bào chuyên biệt trong cơ thể, và được gọi là "pluripotent stem cells" (tế
bào gốc đa năng). Cuối cùng có những loại tế bào gốc chỉ có thể biệt phân
thành một số loại giới hạn tế bào chuyên biệt. Phần lớn tế bào gốc trưởng
thuộc loại này. Chúng được gọi là "multipotent stem cells"(tạm dịch: tế bào
gốc bội năng/phức năng). Tóm lại ta có ba loại tế bào gốc chính, và ta có
thể tự hỏi, nếu những loại tế bào gốc vừa kể có thể biệt phân thành những tế
bào chuyên biệt thì liệu ta có thể làm ngược lại, biến tế bào chuyên biệt
thành tế bào gốc được không? Tế bào gốc đa năng cảm (Induced pluripotent stem cells) và SCNT
Từ lâu, các khoa học gia đã cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi trên. Sau
nhiều năm thí nghiệm trên loài chuột, mãi đến năm 2007 các khoa học gia tại
đại học Kyoto (Nhật) và Wisconsin (Mỹ) mới thành công trong việc chuyển một
số tế bào bình thường thành tế bào gốc đa năng. Họ dùng vi khuẩn/virut
(virus) để cấy một số gen đặc biệt của tế bào gốc đa năng vào tế bào bình
thường. Với DNA được thay đổi, những tế bào này trở nên có tính đa năng,
giống tế bào gốc phôi. Phuơng pháp trên được gọi là phuơng pháp cảm ứng
(induction) và những tế bào gốc sinh ra được gọi là tế bào gốc đa năng cảm
(induced Pluripotent Stem Cells, iPSCs). Cho đến nay, nhiều nhóm nghiên cứu, với những phương pháp khác nhau, đã
thành công trong quá trình ngược: biến tế bào chuyên biệt thành tế bào gốc.
Ngoài ra, họ còn tạo ra những tế bào gốc đặc chế (customized) bằng một
phương pháp tương tự như phương pháp "cloning" (tạo sao bản/sinh sản vô
tính). Trong phương pháp này, nhân của một tế bào bình thường trong cơ thể
(somatic cell - có 46 dây nhiễm thể) sẽ được cấy vào một trứng (egg) đã được
lấy nhân đi. Như vậy nhân của trứng, vốn gồm 23 dây nhiễm thể, đã được thay
bằng một nhân có 46 dây nhiễm thể. Không cần tinh trùng, trứng đã có DNA
giống như trứng đã được thụ tinh. Nếu trứng được cấy vào tử cung thì trứng
sẽ phát triển và ta sẽ tạo được tế bào gốc phôi. Phương pháp trên được gọi
là "somatic cell nuclear transfer" (SCNT, chuyển nhân từ tế bào thân). Tóm lại ta có thể tạo tế bào gốc từ nhiều nguồn và bằng nhiều phương pháp
khác nhau. Mỗi tế bào gốc đầu tiên sẽ tái tạo thành một nhóm nhiều tế bào
tương tự, thường được gọi là một dòng tế bào gốc (stem cell line). Với sự
tìm tòi ráo riết của những phòng thí nghiệm trên khắp thế giới, hiện ta đã
có khá nhiều dòng tế bào gốc. Như vậy ta đã có tế bào gốc sẵn sàng để trị
bệnh, nhưng vấn đề đặt ra là ta sẽ gặp trở ngại gì khi mang tế bào gốc vào
cơ thể. Phản ứng cự thu (rejection) của cơ thể và rủi ro ung thư (cancer risk)
Khi mang tế bào gốc vào cơ thể để chữa bệnh, ưu tư đầu tiên của các khoa học
gia là phản ứng cự thu (rejection) của hệ miễn nhiễm. Là một tập hợp của
những tổ chức và quá trình sinh học, hệ miễn nhiễm (immune system) có nhiệm
vụ bảo vệ cơ thể bằng cách nhận dạng và vô hiệu hóa những vật lạ có tiềm
năng tạo mầm bệnh trong người. Thông thường những vật được gọi là "lạ" khi
có DNA khác DNA của tế bào chủ. Phản ứng cự thu thường xẩy ra khi một bệnh
nhân cần phải thay cơ quan hư hại bằng một cơ quan do một người khác hiến
tặng (transplant). Đương nhiên khi ta mang tế bào gốc vào một cơ quan, dù
với thiện ý là chữa bệnh, hệ miễn nhiễm vẫn "điều tra" một cách rất máy móc. Những khoa học gia theo đuổi cách tạo tế bào gốc phôi bằng phương pháp SCNT
(chuyển nhân từ tế bào thân) ở trên cho rằng tế bào gốc của họ sẽ không bị
cự thu vì DNA của tế bào này chính là DNA của tế bào chủ. Ưu tư thứ hai của các khoa học gia là tính "quá dẻo dai" của tế bào gốc. Như
trên đã trình bầy, tế bào gốc có thể ở trạng thái chưa chuyên biệt
(unspecialized) trong một thời gian dài, và trong điều kiện thích hợp có thể
tái tạo vô hạn định. Điều đáng lo ngại là, trong một số thí nghiệm, khi mang
tế bào gốc vào cơ thể để chữa bệnh người ta thấy xuất hiện bướu ung thư. Tại
sao vậy? Ta biết rằng tế bào ung thư có ba đặc tính quan trọng. Thứ nhất chúng có thể
tăng trưởng một cách không thể kiểm soát được (uncontrolled growth - bào
phân ngoài giới hạn bình thường). Thứ hai chúng có tính xâm lăng (invasion -
xâm nhập và hủy diệt nhưng mô chung quanh). Cuối cùng, chúng có thể di căn
(metastasis - di chuyển đến nhiều vị trí khác của cơ thể qua máu). Từ lâu
một số khoa học gia đã cho rằng trong những mô lành mạnh có sự thăng bằng
giữa sự sinh sản và hủy diệt tự nhiên của các tế bào. Sự hủy hoại của tế bào
đã được lập trình (program) trong một số gen đặc biệt để cân bằng với số tế
bào mới được sinh ra. Do đó sự phát triển của tế bào được kiểm soát triệt
để. Như vậy, sự phát triển hỗn loạn của tế bào khi trở thành ung thư có thể
là do sự trục trặc của những gen vừa kể. Như trên đã đề cập, tương tự như tế
bào ung thư, tế bào gốc có khả năng bào phân vô hạn định khi ở điều kiện
thích hợp. Phải chăng khi những gen điều khiển này bị trục trặc, ở điều kiện
nào đó, tế bào gốc sẽ có thêm tính xâm lăng và di căn? Những kết quả khảo cứu gần đây về tế bào gốc
Những trở ngại trong việc sử dụng tế bào gốc ở trên đã khiến nhiều nhóm khảo
cứu khác nhau đào sâu hơn trong việc nghiên cứu cơ cấu và hoạt động của DNA
trong loại tế bào này. Khi hiểu rõ cơ chế hoạt động của DNA trong tế bào
gốc, ta có thể sử dụng chúng một cách an toàn hơn trong việc chữa bệnh. Đồng
thời ta cũng có thể hiểu thêm nguyên nhân và hoạt động của tế bào ung thư.
Từ đó có hy vọng chữa trị căn bệnh nan y này. Vào khoảng tháng 4 năm 2006 nhóm khảo cứu tại Broad Institute, gồm các khoa
học gia thuộc hai đại học Massachusetts Institute of Technology (MIT) và
Harvard, trong những thí nghiệm trên loài chuột đã tìm ra những ký hiệu
(signatures) đặc biệt ở những dây nhiễm thể trong tế bào gốc phôi. Những ký
hiệu này không ở trong dây DNA chính (hình xoắn ốc như ta đã biết) mà nằm
bên cạnh. Nhắc lại là dây DNA rất dài. Để có thể thu gọn trong nhân, dây
được cuộn lại quanh những viên tròn protein, và có dạng giống như một chuỗi
hạt. Các viên protein trên gồm nhiều chất có những hoạt động khác nhau.
Chúng được chia ra làm hai loại chính và có tên: "histones" và "non-histone"
protein. Toàn bộ cơ cấu DNA và các viên protein này thường được gọi là
"chromatin" (chất nhiễm sắc/crômatin). Từ lâu các khoa học gia chỉ chú ý
nhiều đến tính di truyền ở dây DNA chính, nay các khoa học gia ở Broad
Institute cho thấy phần crômatin bên cạnh - những viên protein - giữ vai trò
quan trọng trong việc điều hòa sự phát triển của tế bào gốc phôi. Chúng chứa
những bộ phận điều khiển, có khả năng kích hoạt hoặc kiềm chế hoạt động của
gen mà ta có thể thấy được qua những ký hiệu kể trên. Họ tin rằng khi hiểu
rõ cơ chế điều khiển vừa kể, không những ta có thể hiểu rõ sự phát triển của
tế bào gốc phôi mà còn có thể biết được tại sao một tế bào bình thường lại
trở thành tế bào ung thư. Những tin tức di truyền từ phần crômatin bên cạnh
mà ta vừa đề cập được các khoa học gia gọi là "epigenetic" (cận di truyền). Tiếp tục khảo cứu trong chiều hướng trên, tháng 11 năm 2008, các khoa học
gia tại đại học MIT đã đi sâu vào bộ phận điều khiển. Họ thấy rằng một loại
"histone" biến đổi có tên tắt H2AZ đã tham gia vào việc kích hoạt những gen
trong quá trình phát triển của tế bào gốc phôi. Trong những thí nghiệm khác
họ cũng thấy H2AZ cũng là một "nghi can" trong việc tạo ra tế bào ung thư!
Các khoa học gia đang cố tìm xem H2AZ hoạt động ra sao trong những tế bào bị
bệnh này. Đồng thời họ cũng thấy một loại "non-histone" protein có tên
Polycomb hoạt động ngược lại với H2AZ. Thay vì kích hoạt, Polycomb lại kiềm
chế hoạt động của gen. Như vậy H2AZ và Polycomb đã giúp tế bào gốc hoạt động
điều hòa, và trong điều kiện nào đó khi có sự mất thăng bằng, nguy cơ ung
thư xuất hiện. Song song với hoạt động kể trên, vào tháng 10, năm 2008, nhóm khảo cứu tại
Florida State University (FSU) đã công bố những kết quả thí nghiệm trên tế
bào gốc phôi của chuột và người. Dựa vào cách thu hình tân tiến và kỹ thuật
gen hiện đại họ đã chụp được những hình ảnh có độ phân giải cao của những
dây nhiễm thể trong những giai đoạn tái tạo (reproduce/replication) và biệt
phân (differentiation). Họ thấy rằng DNA của tế bào chuyên biệt và tế bào
gốc phôi rất giống nhau, chỉ khác là sau khi biệt phân DNA của tế bào gốc
phôi được kết hợp (package) với những protein bên cạnh để có một loại
crômatin riêng biệt cho mỗi loại tế bào. Họ cũng cho rằng khi chưa biệt phân
crômatin của tế bào gốc có nhiều nhóm hoạt động nhỏ, gọi là "domain" (vùng).
Sau khi biệt phân, các vùng củng cố (consolidate) lại với nhau thành những
vùng lớn hơn. Do đó, vì có ít vùng hơn nên tế bào chuyên biệt không có nhiều
khả năng như tế bào gốc. Ta thấy sự phân tích của nhóm FSU giống của như
nhóm Broad Institute. Cả hai đều tập trung vào những protein bên cạnh dây
DNA chính. Trong khi một nhóm đi sâu vào hoạt động của những "histones," thì
nhóm kia khảo sát hình ảnh và hoạt động của các vùng. Nhóm FSU cho rằng nếu
họ có thể giải tỏa những vùng đã được củng cố trong tế bào chuyên biệt thì
họ sẽ có thể trở lại tế bào gốc (giống phương pháp tạo tế bào gốc đa năng
cảm, iPSCs). Họ tin rằng nếu có thể thay đổi cơ cấu và hoạt động của những
vùng, việc chữa bệnh sẽ hữu hiệu và an toàn hơn. Trong khi các khoa học gia thận trọng tìm giải pháp an toàn trong việc trị
bệnh dùng tế bào gốc thì một số bệnh viện đã mạnh dạn sử dụng tế bào gốc
trong những trường hợp cần thiết. Những thành công trong việc sử dụng tế bào gốc
Như đã đề cập ở phần trên, tủy xương chứa tế bào gốc, nguồn sinh sản ra các
loại tế bào máu. Phần lớn những bệnh nan y như leukemia (ung thư máu),
Hodgkin (tăng trưởng bất thường của các hạch bạch huyết, gan , lá lách), ung
thư hạch bạch huyết,... đã làm hư hại tủy xương và hủy hoại tế bào gốc trong
đó. Từ lâu các nhà thương đã dùng phương pháp ghép tủy để hồi phục tủy xương
(và tế bào gốc) của người bệnh. Tủy có thể lấy từ phần cơ thể lành mạnh của
chính bệnh nhân hay từ những người sẵn sàng hiến tặng. Để tránh phản ứng cự
thu (rejection), tủy từ bên ngoài phải được chọn lựa kỹ càng để phù hợp
(match) với tủy của người bệnh. Năm 2008, tại Tây Ban Nha, một cuộc ghép khí quản dùng tế bào gốc trưởng đã
được coi là trường hợp thành công đầu tiên. Để thay thế khí quản đã bị hư
hại của một bệnh nhân tên Claudia Castillo, các bác sĩ dùng một khí quản đã
được hiến tặng. Họ cẩn thận tước bỏ tất cả những tế bào có tiềm năng gây
phản ứng cự thu, và chỉ giữ lại phần sụn. Sau đó họ cấy vào ống sụn này
những tế bào gốc trưởng lấy trong tủy xương của chính bệnh nhân. Cuối cùng
họ giữ ống sụn trong phòng thí nghiệm bốn ngày trước khi ghép vào cơ thể
người bệnh. Kết quả rất mỹ mãn. Gần đây, tháng 4 năm 2009, bác sĩ Richard Burt tại Northwestern University,
Hoa kỳ, đã công bố những kết quả mới nhất về cách trị bệnh tiểu đường bằng
tế bào gốc mà ông đã nghiên cứu trên 20 năm. Trong mấy năm gần đây, ông và
một nhóm bác sĩ Ba Tây đã thực hiện những thí nghiệm chữa trị bệnh tiểu
đường (giai đoạn đầu) của trên hai chục bệnh nhân. Trước hết ông trích máu
của bệnh nhân ra rồi dùng hóa chất để kích thích những tế bào gốc trong đó
để chúng trở nên có khả năng tạo ra insulin. Sau đó ông tiêm máu này trở lại
cơ thể của bệnh nhân. Vì dùng chính tế bào gốc của bệnh nhân, ông đã hầu như
hoàn toàn loại bỏ được phản ứng cự thu. Kết quả rất khả quan. Hai chục bệnh
nhân, trước kia phải chích insulin hàng ngày, nay có thể sống bình thuờng mà
không cần chích trong vòng một năm hay lâu hơn. Một bệnh nhân sau đó đã
chứng tỏ là có thể không cần chích insulin trong một thời gian thật dài -
trên bốn năm. Hy vọng sau khi qua được những thử nghiệm cần thiết khác, cơ
quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (Food and Drug Administration, FDA) sẽ chấp
thuận kỹ thuật mới mẻ này. Với một viễn tượng đầy hứa hẹn cùng với những thành tựu tốt đẹp kể trên,
nhiều bệnh nhân đang bị chứng nan y đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào phương pháp
chữa trị dùng tế bào gốc. Do đó nhiều cơ sở y tế đã thương mại hóa công việc
trị liệu, và dùng những phuơng pháp chưa được nghiên cứu, thử nghiệm kỹ
càng. Dĩ nhiên kết quả rất may rủi. Dù vậy người ta ước lượng là đến năm
2018 dịch vụ chữa bệnh dùng tế bào gốc sẽ đạt tới 8 tỉ Mỹ kim. Ngoài ra
những lạm dụng trong những thí nghiệm trên tế bào gốc phôi (embryonic stem
cells) đã lôi kéo sự chú ý của công luận và trở nên một đề tài chính trị.
Tế bào gốc phôi và chính trị
Ta hãy trở lại một số thời điểm quan trọng trong quá trình khám phá và phát
triển tế bào gốc. Năm 1981, các khoa học gia đã cô lập được tế bào gốc phôi
trong loài chuột. Năm 1995, các nhà khảo cứu tại đại học Wisconsin, Hoa Kỳ,
đã cô lập được tế bào gốc phôi trong loài khỉ và dự đoán rằng thí nghiệm vào
người sẽ thành công sau đó. Năm 1998, hai nhóm khảo cứu tại đại học
Wisconsin và Johns Hopkins đồng công bố là họ đã có thể cô lập được tế bào
gốc phôi trong con người, và nêu ra tiềm năng chữa bệnh của loại tế bào đa
năng này. Từ đó tế bào gốc phôi trở thành đề tài nóng bỏng. Tuy nhiên trong
quá trình cô lập tế bào gốc phôi họ thuờng làm chết phôi bào - giai đoạn đầu
của một thai nhi. Mặc dù họ chỉ dùng những phôi bào đã được phế bỏ, họ vẫn
dính dáng vào một vấn đề vô cùng nhạy cảm: phá thai (abortion). Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phá thai. Đại cương có hai phong trào.
Một có tên là "pro-choice" (ủng hộ quyền chọn lựa). Những người ở trong
phong trào này cho rằng mỗi phụ nữ có quyền kiểm soát hoàn toàn sự thụ thai
của họ, và do đó họ có quyền chọn lựa hoặc tiếp tục, hoặc chấm dứt việc mang
thai. Quyền chọn lựa này đã được Liên Hiệp Quốc bảo vệ dưới tên quyền sinh
sản (reproductive right) trong đó cá nhân hay vợ chồng có quyền quyết định
số con cái, được quyền hưởng sự trợ giúp về giáo dục, y tế trong việc sinh
sản, và dĩ nhiên có quyền được phá thai một cách hợp pháp và an toàn. Phong
trào kia có tên là "pro-life" (ủng hộ quyền được sống). Họ cũng dựa vào một
điều khoản - quyền được sống (right to life) - trong bản tuyên ngôn nhân
quyền (human rights) của Liên Hiệp Quốc. Cho rằng "zygote," phôi bào hay
phôi thai chính là những con người chưa được ra đời (unborn human beings)
nên họ khẳng định là chúng có quyền được sống. Hơn nữa chúng không thể tự vệ
(giống như trẻ con) nên họ có bổn phận giúp đỡ, và do đó chống phá thai. Sự
chống đối này cũng liên hệ đến niềm tin tôn giáo hay những quan niệm về đạo
đức. Cuối cùng, vào năm 1973 Tối cao pháp viện Hoa kỳ, qua nhiều tranh cãi, đã
hợp pháp hóa việc phá thai trên toàn quốc. Tuy nhiên, các tiểu bang vẫn có
quyền đưa ra những quy định để điều chỉnh. Vào năm 2000, khi Viện y tế quốc
gia (National Institutes of Health, NIH) đưa ra những quy tắc chỉ đạo để tài
trợ những khảo cứu tế bào gốc phôi từ quỹ liên bang thì tổng thống Clinton,
thuộc đảng Dân chủ, ủng hộ ngay. Nhưng đến tháng hai năm 2001, sau khi nhậm
chức được một tháng, tổng thổng Bush, thuộc đảng Cộng hòa và là người có
khuynh hướng "pro-life," đòi duyệt xét lại những quy tắc trên và giới hạn
việc tài trợ từ quỹ liên bang vào một số dòng tế bào gốc phôi đặc biệt. Đó
là những dòng tế bào gốc đã được nuôi và trích từ (và đã làm chết) phôi bào
trước ngày duyệt xét. Còn những dự án sau này nếu làm nguy hại đến phôi bào
sẽ không được tài trợ. Với kỳ vọng lớn lao vào khả năng chữa bệnh của tế bào gốc phôi, nhiều người
đã mạnh mẽ chỉ trích chính sách của tổng thống Bush mặc dù ông này đã cho
thấy, như ở phần trên đã đề cập, là đã có nhiều triển vọng trong việc sử
dụng tế bào gốc mà không cần hủy hoại đời sống ban đầu của con ngưới. Tuy
nhiên, lại có một số người cho rằng ông Bush đã tỏ ra mềm dẻo hơn so với
những nhà chính trị bảo thủ khác. Thật vậy, năm 1995 thượng viện Mỹ đã thông
qua một dự luật trong đó có tu chính án tên "Dickey-Wicker amendment"
(Dickey và Wicker là tên của hai dân biểu/nghị sĩ), và chính tổng thống
Clinton lúc đó đã ký tên chấp thuận. Tu chính án này đã cấm bộ y tế và phục
vụ quần chúng (department of Health and Human Services, HHS) không được tài
trợ những khảo cứu hướng đến việc tạo ra các phôi thai (embryo) trong phòng
thí nghiệm hay hủy hoại chúng. HHS chính là cơ quan đã cung cấp tiền bạc cho
viện y tế quốc gia (NIH) kể trên. Tu chính án này sẵn sàng là một rào cản
trước một số khảo cứu "quá mức" trên tế bào gốc phôi. Tháng ba năm 2009, hai tháng sau khi nhậm chức, tân tổng thống Obama ký một
nghị định vô hiệu hóa tất cả những quyết định trước kia của tổng thống Bush
về tế bào gốc phôi. Ngoài cả trăm dòng tế bào gốc hiện có, nghị định này cho
phép tạo thêm những dòng tế bào gốc mới từ những phôi thai còn dư (và sẽ bị
phế bỏ) trong tiến trình thụ thai nhân tạo. Mặc dù được nhiệt liệt ủng hộ
bởi một số bệnh nhân và khoa học gia, mọi người đều biết ông Obama khó có
thể đảo ngược những điều cấm kỵ trong tu chính án Dickey-Wicker. Do đó có
rất ít hy vọng quỹ liên bang có thể dùng tiền trong ngân sách phục hồi kinh
tế để tài trợ cho những khảo cứu "mạnh tay" trên tế bào gốc phôi. Ngoài ra,
sau khi đọc những quy định mới của cơ quan NIH, người ta thấy chính quyền
Obama không quá cấp tiến như người ta tưởng. Thí dụ như cơ quan này đã công
bố là sẽ không tài trợ cho những thí nghiệm liên hệ đến tiến trình sao
bản/sinh sản vô tính (cloning). Như vậy, một phương pháp được nhiều người
tán tụng, "somatic cell nuclear transfer," SCNT sẽ bị "lọt sổ."
Kết luận
Sau trên 50 năm kể từ ngày hai nhà sinh hoá J.D. Watson và F.H.C. Crick khám
phá ra dây DNA, ngành sinh học phân tử (molecular biology) đã có những tiến
bộ ngoạn mục. Nhìn vào những thành quả của các nhóm khảo cứu trên khắp thế
giới ta càng ngày càng hiểu thêm cơ cấu và hoạt động của các tế bào gốc ở
mức thật nhỏ - phân tử. Dựa vào đó, dần dần những nhà chuyên môn có thể sử
dụng chúng một cách hữu hiệu và an toàn hơn trong việc chữa bệnh. Cũng từ đó
người ta có hy vọng tìm ra nguyên nhân sâu xa của nhiều bệnh nan y (như ung
thư) và nghĩ ra những phuơng cách đơn giản để chữa trị. Tham khảo - Alberts, Bruce et al., Molecular Biology of the Cell, Garland Publishing,
1994 - National Institutes of Health (NIH) Home Page Sherman Oaks, tháng 7, năm 2009 Nguyễn Trọng Cơ
|