Bệnh cúm đã được ông tổ của y
khoa hiện đại -Hippocrate mô tả từ năm 420 tr.CN. Tuy nhiên chỉ cho
đến cuối thế kỷ 16 thì đại dịch cúm ở người mới xuất hiện, và lần
lượt sau đó gần như thế kỷ nào cũng có các trận đại dịch cúm xảy ra.
Gần đây nhất, thể kỷ 20, nhân loại hứng chịu ba trận đại dịch cúm:
1918, 1957 và 1968. Khoa học y học hiện đại hiểu biết gần như rất rõ
ràng về đặc tính sinh hoá học của virus cúm, thế nhưng cho đến nay,
bệnh cúm vẫn được coi là một bệnh không chữa được căn nguyên, chỉ
điều trị triệu chứng và chúng ta cũng chưa thanh toán được bệnh cúm
nếu không nói là không thể. Tại sao lại như vậy, hy vọng bài viết
này giúp cho chúng ta hiểu biết rõ về loại virus này để có thể
“sống chung với lũ”.
Virus cúm: cấu trúc và
đặc điểm sinh học
Virus được xếp trong nhóm
các tác nhân gây nhiễm trùng, có cấu trúc rất rất nhỏ so với vi
khuẩn, nên được gọi là siêu vi khuẩn hay virus. Cũng giống như các giống và loài khác, virus cũng có nhiều
loại dựa vào cấu trúc phân tử và mỗi loại cũng có nhiều phân nhóm
nhỏ.
Virus cúm là nhóm có cấu
trúc di truyền chỉ có một nhánh đơn RNA chứ không phải nhánh kép DNA
như vi khuẩn hoặc nhân tế bào các loại khác. Virus cúm có nhiều
phân nhóm nhỏ, giống như người có chủng tộc gốc Á, Âu, Phi…Phân nhóm
này dựa vào cấu trúc kháng nguyên đặc trưng trên bề mặt của nó, như
nước da màu tóc ở người. Có ba loại kháng nguyên bề mặt đặc trưng
của virus cúm đó là M1 (matrix), HA (hemagglutinin) và NA
(neuraminidase).
Dựa vào sự khác biệt chính
trên kháng nguyên M1 người ta phân virus cúm thành ba nhóm A, B và
C. Một điều cần biết, cho đến nay bằng chứng cho thấy rằng tất cả
các dòng virus cúm gây bệnh ở bất kỳ động vật nào, kể cả con người
đều xuất phát từ loại thuỷ cầm và lông vũ (trong 10 giống loài khác
nhau), và nhóm virus cúm nguyên thuỷ đều là virus thuộc nhóm A.
Virus nhóm B và C là loại tiến hoá từ A, và virus B và C chỉ gây
bệnh ở người mà không có gây bệnh cúm ở động vật; chỉ có rất hiếm
một vài đợt lẻ tẻ, người ta tìm thấy virus cúm C gây bệnh ở heo. Và
theo sự tiến hoá đó, virus cúm B và C gây bệnh cúm ở người rất nhẹ,
nhẹ nhất là C, như gây ra chứng cảm thông thường, không có gì đáng
kể. Chỉ có cúm A mới là loại có khả năng gây bệnh nặng.
Chính vì thế mà virus cúm
nhóm A được quan tâm và nghiên cứu nhiều nhất. Dựa trên đặc điểm cấu
trúc của kháng nguyên HA và NA, người ta lại phân cúm A thành những
phụ nhóm nữa: HA có 16 phụ nhóm và NA có 9 phụ nhóm. Về mặt lý
thuyết, chúng ta có thể có 16 x 9 = 144 loại virus cúm A khác nhau
dựa vào phụ nhóm H và N, nhưng trên thực tế chưa có nhiều như vậy,
tuỳ thuộc vào sự tiến hoá cũng như khả năng gây bệnh của nó. Tất cả
144 phân nhóm virus A này đều có mặt ở chim, tuy nhiên chỉ có H1,
H2, H3, H5, H7 và H9 và N1, N2 và N7 thì có thể lây nhiễm sang
người, nhưng cho đến hiện nay chỉ còn có thể thấy H1, H2, H3 và N1
và N2 là còn tồn tại và biến thể lây nhiễm giữa người với người mà
thôi. Đối với H5N1 chỉ mới cho thấy có khả năng lây trực tiếp giữa
loài lông vũ và người, rồi dừng ở đó, chứ chưa có bằng chứng lây từ
người này sang người khác

Virus cúm nhóm A, chứa 8 đoạn ARN
Virus cúm A loại đầu tiên
được xác định đó là A(H1N1), và loại này được cho có nguồn gốc từ
heo, nhưng cũng đã được nhiễm từ loại lông vũ (có chứa mầm bệnh
không mắc bệnh) sang gây bệnh cho heo; từ heo nó chuyển sang lây cho
người, thích nghi ở cơ thể người và lây cho nhau, tạo nên đại dịch
cúm 1918. Sơ đồ dưới đây cho thấy sự tiến hoá của virus A. Và như
thế trong quá trình tiến hoá đó, có thể có loại mới sinh ra nhưng
cũng có loại cũ mất đi, không còn tồn tại nữa, ví dụ như virus
A(H3N2)- tác nhân gây đại dịch cúm 1968, hiện không còn tìm thấy.
H2N2 là tác nhân gây đại dịch cúm 1957, H1N1 thì từ lúc xuất hiện
cho đến nay vẫn tồn tại, nhưng lại thay đổi chút ít về bề mặt, có
nghĩa là vẫn thuộc phụ nhóm H1N1, nhưng nó khác đi nhiều, ví như
cũng một con người đó, nhưng họ thay đổi thời trang khác nhau theo
thời gian.

Một đặc điểm đáng lưu ý
nhất của virus cúm nhóm A là khả năng biến đổi đặc tính của H và N
rất nhanh, dù dưới một tác động rất ít.
Virus cúm nhóm A có sự
giao lưu giữa các loại khác nhau, nhưng chủ yếu là giữa ba loài:
nguồn chính là thuỷ cầm và lông vũ. Virus A từ loại này có thể nhảy
sang thích nghi và gây bệnh trực tiếp cho heo hoặc cho người (cúm
gia cầm); từ heo lây sang người, nhưng chưa có bằng chứng thấy có sự
lây ngược giữa người với chim và heo với chim; có bằng chứng cho
thấy có thể virus cúm cũng lây ngược từ người sang heo.

Và như vậy, cơ thể heo gần
như là một nhà máy trung gian, tiếp nhận virus cúm cả từ loài thuỷ
cầm, lông vũ và người vào cơ thể của nó, rồi từ đó nó trộn lẫn, giao
chéo sinh ra dòng virus cúm A mới, kể cả cùng phân nhóm hay khác
phân nhóm.
Tại sao không thể thanh
toán được bệnh cúm?
Cơ thể con người khi bị
nhiễm trùng, có một cơ chế bảo vệ đặc hiệu, để sao cho lần sau nhiễm
bệnh đó trở lại hoặc không phát bệnh hoặc nhẹ đi, gọi là quá trình
tạo miễn dịch và được miễn dịch. Thí dụ như khi người ta bị nhiễm vi
trùng lao lần đầu, cơ thể có thể bị bệnh hoặc không, nhưng cơ thể có
khả năng nhận dạng vi trùng lao và sản sinh ra một chất gọi là kháng
thể chống lại vi trùng lao này. Lần thứ hai vi trùng lao thâm nhập
lại, thì các kháng thể này sẽ ra “chiến đấu” và tiêu diệt vi trùng
lao, giúp cho cơ thể không bị bệnh hoặc nếu có cũng nhẹ.
Dựa trên nguyên lý miễn
dịch này mà chúng ta tạo ra vaccine, tức là chủ động cho cơ thể tiếp
xúc với loại vi trùng gây bệnh trước chỉ ở mức độ nhẹ, hay chỉ cho
tiếp xúc với kháng nguyên của vi trùng đó thôi, cơ thể tạo sẵn cho
mình kháng thể, rồi lần nhiễm thứ hai sẽ không bị hoặc bị nhẹ.
Như vậy chúng ta có thể
thấy rằng, đối với một loại vi trùng nào có cấu trúc bền vững, và ổn
định, thì chúng ta chỉ cần cho chích vaccine một lần thôi, lần sau
vi trùng đó vào cơ thể là chết ngay, rồi sau đó không còn nơi để cư
trú nữa, và tiệt chủng. Trên thế giới, vi khuẩn loại này rất ít, chỉ
có thể có đó là đậu mùa, bại liệt. Đó là lý do tại sao thế giới đã
thanh toán được bệnh đậu mùa từ 1979 và đang tiến tới thanh toán
bệnh bại liệt.
Trong khi đó, các vi trùng
còn lại, sau một lần vào cơ thể, bị cơ thể đánh “tơi bời” chúng sẽ
tìm cách thích nghi để tồn tại, bằng cách phải thay hình đổi dạng,
như vậy dù cơ thể có kháng thể rồi, nhưng lần xâm nhập sau con vi
trùng đã khác, cơ thể chúng ta không kịp nhận dạng được nó, chúng ta
lại bị bệnh mặc dù đã tiêm phòng.
Như đã nói trên, virus cúm
A là một loại virus cúm có khả năng thay hình đổi dạng và thích
nghi rất nhanh, mỗi mùa mỗi năm chúng hiện diện ở một hình thức khác
của cùng một phân nhóm hoặc một phân nhóm khác. Cùng một loại H1N1
nhưng ở địa dư khác nhau, nó cũng khác nhau.
Thí dụ
A/Memphis/8/88(H3N2), có nghĩa là virus cúm A(H3N2) nhưng tìm được
ở Memphis (Mỹ), gắn nhãn số 8, và phát hiện vào năm 1988. Cho nên,
dù chúng ta có sản xuất ra bao nhiêu loại vaccine cúm đi nữa, chúng
ta cũng chỉ dự đoán chứ không thể biết trước được mùa cúm (đông
xuân) năm sau loại cúm A nào sẽ hiện diện trong hằng hà sa số phân
nhóm cúm A. May lắm là chúng ta có thể tạo được một lượng kháng thể
có thể đối kháng một phần nào đó khi virus cúm xâm nhập hoặc virus
có cấu trúc tương đồng, thì cơ thể có thể không mắc bệnh hoặc bị
nhẹ. Một khó khăn nữa là ngay cả chúng ta chế và sử dụng vaccine, đó
lại là một nguy cơ kích thích cho con virus cúm A nó biến đổi nhanh
lẹ hơn và có thể chuyển sang dạng nguy hiểm hơn, nhưng cũng có thể
nhẹ hơn để cùng tồn tại như virus cúm B và cúm C chẳng hạn.
Xét về mặt nghiêm trọng nó
hoàn toàn phụ thuộc vào sự ổn định hay biến đổi của kháng nguyên bề
mặt này của con virus cúm. virus cúm B và C là loại tiến hoá “cao
cấp” nhất và đã ổn định, chỉ lây bệnh ở người nên con người đã quen
và có kháng thể đẻ chống lại nó, nên có nhiễm cũng chỉ nhẹ qua loa.
Với đặc tính biến đổi liên
tục, nên virus cúm A luôn tránh được sự đề kháng của vật chủ, và
nếu là loại mới xuất hiện và gây bệnh ở người thì mức độ sẽ nặng.
Như vậy nếu một loại virus
cúm A dòng mới-chưa từng thấy trước đây xuất hiện, thích nghi được ở
người, lây lan giữa người và người, tiến đến lan rộng, là một nguy
cơ đại dịch và khi đó cảnh báo đại dịch được phát động.
Một chủng mới của tác nhân
gây đợt dịch cúm nặng đang hoành hành ở Mexico, Mỹ và 13 quốc gia
khác trong dòng H1N1 kỳ này là virus A/Veracruz/2009(H1N1), tức là
virus này nhóm A, mới phát hiện vào năm 2009 lần đầu tiên ở
Veracruz (Mexico) thuộc nhóm H1N1 (gọi tắt là V09, theo quy định
của giới virus học). Hơn nữa H1N1 này là chủng cúm có nguồn gốc từ
heo, đã tiến hoá thành các dòng gây bệnh riêng biệt cho người, heo
và chim chóc. Tuy nhiên, với H1N1 này, người ta tìm thấy có sự tích
hợp giữa gene của kháng nguyên HA giống với virus ở heo tại Mỹ năm
1999, còn cấu trúc NA và M1 lại giống với virus gây bệnh cho heo ở
Âu châu. Chính vì loại virus mới mẻ này mà chúng ta đang đứng trước
một nguy cơ đại dịch toàn cầu.
Vì lẽ đó, cho đến nay khoa
học vẫn còn chịu bó tay trước các đợt cúm hàng năm, cứ đến hẹn lại
lên, không nặng thì nhẹ nhưng không có cách nào ngăn cản được, chỉ
cố gắng giảm thiểu mức nguy hại của chúng mà thôi.
Tại sao bệnh cúm không
trị được?
Không chỉ chúng ta không
thể trị được bệnh cúm ở người mà các loại bệnh do virus nói chung
gây nên, khoa học đều “bó tay”. Cần biết qua cơ chế tấn công của
virus vào vật chủ- như người để hiểu được lý do này.
Đối với vi khuẩn, khi vào
cơ thể chúng lưu thông theo tuần hoàn, hoặc sinh sôi nảy nở ở đó
hoặc cư trú vào một cơ quan hay một nơi nào đó trong cơ thể để sinh
sôi nảy nở và với một số lượng nhất định nào đó sẽ gây bệnh thông
qua việc phóng thích độc tố hay tiêu hao chất liệu sống của cơ thể.
Kháng sinh được điều chế có tác dụng khi đưa vào cơ thể sẽ lưu thông
trong máu hoặc được đưa đến đúng nơi có vi khuẩn trú ngụ, tại đó
kháng sinh có thể diệt vi khuẩn (gọi là kháng sinh có tác dụng diệt
khuẩn) hay kiềm hãm sự phát triển của vi khuẩn (kháng sinh kiềm
khuẩn), có loại có tác dụng cả hai. Như thế, vi khuẩn sẽ bị tiêu
diệt hay bị bất hoạt, cơ thể sẽ dần hồi phục và khỏi bệnh.

Quy trình virus tấn
công, xâm nhập vào tế bào người, nhân lên và tạo virus mới
Ngược lại, virus (hay siêu
vi khuẩn) có cơ chế phát triển trong cơ thể vật chủ hoàn toàn khác
với vi khuẩn. Virus cúm xâm nhập qua đường mũi họng và tấn công vào
cơ thể người hay vật vào đường hô hấp trên. Sau khi xâm nhập vào
cơ thể, virus không sinh sôi ngay trong dòng máu hay tại một nơi
nào đó, mà từng con một, đến gắn vào màng tế bào, với virus cúm A
là các tế bào của hệ hô hấp. Sau đó chúng mới đục lỗ các màng tế bào
của người và phóng thích cái nhân RNA của mình, gửi vào tế bào người.
Tất cả đồng loạt như vậy. Sau khi gửi nhân vào tế bào người rồi,
thì nhân này mới sinh sôi nảy nở trong lòng từng tế bào của người,
rồi lại phát tán ra bên ngoài. Với một cơ chế tấn công quá đặc
biệt như vậy, chúng ta không có cách nào trị được chúng cả. Vì một
lẽ đơn giản thuốc dùng phải diệt hoặc kiềm hãm được virus, mà chúng
lại trốn cả ở trong tế bào của con người, và chúng ta không thể diệt
tế bào của mình để giết con virus, giống như “ném chuột vỡ lọ cổ”
vậy!
Câu hỏi được đặt ra là tại
sao vẫn có thuốc trị virus, vậy nó hoạt động như thế nào? Thực sự
là không có thuốc trị hay diệt được virus mà chỉ có kiềm hãm khả
năng tăng sinh của virus sau khi chui vào tế bào của cơ thể mà
thôi.
Như đã đề cập ở trên, cấu
trúc bề mặt virus cúm có ba loại kháng nguyên: M1, H và N.
Kháng nguyên M1 có tác dụng
gắn các phân đoạn di truyền của virus; HA đóng vai trò kết gắn
virus vào các thụ thể (receptors) của vật chủ (người) và hoà vào
màng tế bào của vật chủ để tiến hành chu kỳ nhân bản. Còn NA thì
được cho rằng có vai trò giải phóng các thế hệ virus con cháu đó ra
khỏi các tế bào của vật chủ và trợ giúp cho các virus có thể xâm
nhập được vào lớp màng bọc ở các tế bào biểu mô hô hấp.
Dựa vào đặc tính này mà các
thuốc chống virus được sản xuất. Hiện nay trên thị trường có hai
nhóm chính, nhóm thuốc có tác dụng ức chế M1. Nhưng loại này rất dễ
bị virus cúm A kháng lại, không những vậy mà chúng còn có khả năng
tạo ra một gene đề kháng với thuốc này di truyền lại cho thế hệ con
cháu. Do đó loại thuốc được cho là có tác dụng nhât đối với virus
cúm nhóm A hiện nay là loại ức chế NA, đó là ra zanamivir có biệt
dược là Relenza (loại hít vào mũi) và oseltamivir có biệt dược là
Tamiflu (viên uống). Chính vì có khả năng ức chế NA, nên chúng ức
chế sự tăng sinh của virus trong cơ thể người bệnh.
Nhưng như đã đề cập, thuốc
chỉ có tác dụng khi virus mới xâm nhập vào cơ thể, thời gian đó chỉ
diễn ra khoảng 48-72 giờ đầu, khi virus chưa chui vào trong tế bào
của người. Nhưng đó lại là thời gian ủ bệnh, tức là người bệnh chưa
có triệu chứng gì cả, không thể biết mà uống thuốc được. Khi người
bệnh bắt đầu ho, sốt, sổ mũi thì khi đó, gần như virus đã xâm nhập
vào trong tế bào rồi, mới bắt đầu uống thuốc thì mức độ tác dụng của
nó không còn nữa.
Thuốc chống virus
Tamiflu và Relenza có ngăn ngừa được đại dịch không?
Câu trả lời là chưa có bằng
chứng. Tên gọi đại dịch cúm là để nói lên tầm vóc nguy hiểm của nó ở
chỗ nó có thể gây tử vong ở số lượng lớn, trên nhiều quốc gia trong
một thời gian ngắn.
Cho đến nay, tất cả các
nghiên cứu cho thấy rằng Tamiflu chỉ có tác dụng làm giảm triệu
chứng và có khả năng rút ngắn ngày bị bệnh hơn là làm giảm bớt độ
nguy kịch của triệu chứng. Dùng Tamiflu không làm giảm được số lượng
bệnh nhân tử vong do cúm A so với người không dùng, trong khi đó mục
đích chặn đại dịch cúm là làm giảm số lượng tử vong do cúm. Hơn nữa,
sử dụng Tamiflu cũng cho thấy không có hiệu quả kinh tế trên bình
diện quốc gia. Cho nên, Tamiflu chỉ được chỉ định cho một số bệnh
nhân nào đó chứ không thể sử dụng đại trà, không dùng để phòng ngừa,
vì có thể sinh kháng thuốc. Đã có bằng chứng cho thấy virus cúm
A(H1N1) kháng lại Tamiflu, đặc biệt dòng H1N1 gây bệnh ở châu Âu. Và
rõ ràng, cũng không nên coi nặng Tamiflu là phương tiện cứu cánh để
ngăn ngừa một vụ đại dịch.
Vaccine cho loại cúm mới
xuất hiện không thể có sớm được, mà cần phải có thời gian. Trong khi
đợi được một loại vaccine mới ra đời thì có thể con virus cúm A đã
thay hình đổi dạng rồi. Nhưng nhiều chuyên gia cho rằng ít ra cũng
tạo được một sự đề kháng nào đó đối với virus cúm A dù không phải
đúng loại. Tuy nhiên, cũng phải nghĩ đến một khả năng kích thích cho
virus cúm biến đổi sớm hơn.
Ngăn ngừa bị nhiễm cúm và
ngăn ngừa đại dịch cúm nó hoàn toàn phụ thuộc vào phương pháp phòng
bệnh nhiễm trùng căn bản. Đó là phát hiện sớm, cách ly người bệnh,
xử trí hạn chế lây lan trong cộng đồng. Thực hành vệ sinh cá nhân,
đặc biệt rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng, không nên có thói quen đưa
tay lên vuốt mặt hay ngoáy mũi. Giữ chế độ sinh hoạt lành mạnh, tăng
cường sức khoẻ thể lực, chế độ ăn uống bổ dưỡng là biện phóng phòng
bệnh cá nhân tốt nhất và ngăn ngừa đại dịch tốt nhất.
Nguyễn Đình Nguyên