Những bài cùng tác giả Các bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật với một bệnh trạng hầu như không
có liên quan gì đến vùng hàm mặt, tình trạng trước khi phẫu thuật (tiền
phẫu) hoàn toàn đủ tiêu chuẩn để trải qua một cuộc phẫu thuật có gây mê
toàn thân (general anesthesia). Sau cuộc phẫu thuật từ khoảng 24 giờ cho
đến 3 ngày, bệnh nhân có biểu hiện liệt mặt, hay chính xác hơn là liệt
dây thần kinh số 7 (LDTK7) từ biểu hiện kín đáo là cứng lưỡi, nói khó
cho tới rõ ràng hơn là miệng bị méo, mắt bị kéo lệch. Như vậy giữa bệnh
cảnh đang tồn tại là bệnh cũ với bệnh cảnh LDTK7 có liên hệ gì với nhau
hay không, hay là hai bệnh cảnh riêng biệt, bệnh sau chỉ là một sự tiến
triển tình cờ trên nền của một bệnh sẵn có? Tai biến LDTK7 sau một phẫu thuật có gây mê là một bệnh cảnh hiếm như
đặc tính đã đề cập, mà y văn lần đầu tiên nhắc đến có lẽ là vào những
năm 1934, 1935 trong các báo cáo của Đức và Nga . Tỷ lệ mới mắc thêm
(incidence) của chấn thương thần kinh ngoại vi xảy ra do quá trình gây
mê đã được công bố trong hai nghiên cứu điều tra hồi cứu lớn là khoảng
0.14 và 0.1% . Đa phần các tai biến đó được tổng kết thường là do tình
trạng kéo căng hoặc chèn ép quá mạnh các dây thần kinh gây nên tình
trạng thiếu máu thần kinh cục bộ, và nếu dây thần kinh chỉ có bị kéo
căng không thôi thì có thể là do vỡ mao mạch bên trong các dây thần kinh
đó .Chấn thương các dây thần kinh thường gặp trong trường hợp dây thần
kinh chạy dọc theo một bề mặt nông và dài, nằm vắt qua một khớp xương
hoặc là trên một bệnh cảnh có sẵn như là bệnh tiểu đường, nghiện rượu,
viêm đa khớp nốt hoặc bị herpes zoster. Các bất thường về cấu trúc giải
phẫu bẩm sinh và các nguyên nhân khác gây bệnh lý thần kinh ngoại vi như
thiếu hụt các vitamin, rối loạn chuyển hoá porphyrin, bạch hầu cũng được
cho là các yếu tố góp phần gây ra ra tình trạng liệt do chèn ép .
Một số bệnh án tổn thương LDTK7 được báo cáo trong y văn:
Dưới đây chúng tôi xin lược trích một vài báo cáo về các trường hợp tai
biến LDTK7 được công bố trên y văn. 1. Hai báo cáo của Fuller và đồng nghiệp đăng trên tập san JAMA năm 1956
:
(a) Một phụ nữ 54 tuổi được phẫu thuật cắt bỏ túi mật. Bệnh nhân có
tầm vóc béo phì ở mức vừa, cổ ngắn. Trong quá trình gây mê sử dụng hỗn
hợp oxyde nitro-oxy-ether, đường hô hấp trên bị tắt nghẽn mà có lẽ là do
lưỡi tụt ngược xuống ép vào thành họng sau, khi dùng canun cao su đường
miệng đặt thì tình trạng tắt nghẽn đường thở chỉ cải thiện được một
phần, do đó phải nâng xương hàm dưới lên cho nhô tới trước bằng thao tác
ấn mạnh ngón tay vào phía sau của góc xương hàm dưới hai bên, tình trạng
tắt nghẽn đường thở cải thiện hoàn toàn sau đó. Sau khi gây mê 30 phút,
bệnh nhân được đặt nội khí quản. Khi bệnh nhân giải thuốc mê, bà cho
biết thấy góc miệng bên trái bị yếu, cả môi trên và dưới và má bên trái
mềm hơn. Bệnh nhân ăn uống bị rơi vãi và có hiện tượng mặt lệch khá rõ.
Ba tháng sau bệnh hồi phục.
(b) Một bệnh nhân nam 53 tuổi được tiến hành
phẫu thuật khâu thoát vị bẹn. Bệnh nhân này có tầm vóc dềnh dàng và cổ
ngắn, dày. Gây mê sử dụng hỗn hợp oxyde nitro-oxy-ether, và sau đó đường
hô hấp bị tắt nghẽn ở đoạn họng. Đặt canun qua đường miệng không cải
thiện cho nên phải áp dụng thủ thuật đẩy nhô cằm ra phía trước bằng thao
tác ấn mạnh ngón tay vào phía sau của góc xương hàm dưới hai bên, tình
trạng tắt nghẽn đường thở cải thiện hoàn toàn sau đó. Mười phút sau tiến
hành đặt nội khí quản bằng dụng cụ soi thanh quản. Qua ngày hôm sau, khi
đang cạo râu thì bệnh nhân nhận thấy khi há miệng thì thấy môi phải bị
kéo về phía nhân trung. Khám lâm sàng tức thời thì triệu chứng rất kín
đáo gần như không nhận thấy tổn thương, bệnh nhân nói năng và cả ăn uống
cũng bình thường. Tuy nhiên, khi thăm khám kỹ lưỡng thì nhận thấy nửa
môi dưới bên phải bị yếu hẳn. Ba tuần sau bệnh nhân hồi phục hoàn toàn
sau 3 tuần. Nhận xét của các tác giả: Các tác giả cho rằng hiện tượng tắc nghẽn đường thở ở đoạn họng là
thường xuyên, và thao tác ấn ngón tay vào phía sau góc xương hàm dưới để
đẩy cằm ra phía trước cũng là thao tác thông thường và chuyện tai biến
liệt dây TK số 7 là chuyện rất hiếm. Chính vì thế mà nếu tai biến có xảy
ra thì đôi khi cả bệnh nhân và bác sĩ cũng không nhận ra. Hơn nữa do có
sự không đồng bộ về phân nhánh cũng như đường đi của dây thần kinh này ,
cho nên tại sao tai biến này hiếm gặp. Hai bệnh nhân mô tả trên đây có thời gian hồi phục tương đối ngắn. Một
trong những bệnh nhân của Zäbisch báo cáo là phải mất 6 tháng thì chức
năng dây TK7 mới hồi phục hoàn toàn. Trường hợp này cần chẩn đoán phân
biệt với tổn thương mạch máu não sau phẫu thuật. 2. Một trường hợp bị liệt một bên DTK7 do chèn ép vào trong góc hàm
trong quá trình duy trì đường thở trong lúc gây mê phẫu thuật, gây tổn
thương một nhánh của DTK7--nhánh xương hàm dưới phần rìa, được
Nightingale và Longreen báo cáo dưới nhan đề “Liệt dây thần kinh mặt do
thầy thuốc gây ra” đăng trên tập san Gây mê năm 1982 . Bệnh cảnh: Một phụ nữ 30 tuổi khoẻ mạnh, nhập viện để làm xét nghiệm
sinh thiết cổ tử cung do xét nghiệm phiến đồ cho thấy có tình trạng loạn
sản cổ tử cung ở mức độ trung bình. Toàn trạng khoẻ, không có biểu hiện
bệnh lý tiểu đường, bệnh hệ tạo keo (collagen) hoặc nghiện rượu và bản
thân cũng như gia đình không có ai có biểu hiện bệnh lý thần kinh ngoại
vi hoặc thần kinh mặt. Khi tiến hành thủ thuật, bệnh nhân được gây mê bằng thiopenthone 200mg
và duy trì với diazepam 10mg, pentazocine 60mg và sau đó có cho liều
thiopenthone tăng cường. Bệnh nhân được cho thở oxy 3lít/phút kết hợp
với oxyde nitro (nitrous oxide) 6lít/phút qua mặt nạ (mask) và hô hấp tự
nhiên trong suốt quá trình thủ thuật. Do việc kiểm soát đường thở khá
khó khăn do đó cần phải thông khí qua đường miệng bằng cách đè chặt vào
mặt và dưới xương hàm dưới chặt và động tác này tác động đến phần thân
và các góc của xương hàm dưới ở cả hai bên. Quá trình gây mê kéo dài
trong 40 phút. Ngày hôm sau khi phẫu thuật, bệnh nhân phàn nàn là khó nói và bị rơi
thức ăn, không có khả năng cử động được phần môi dưới bên trái. Khi thăm
khám thì môi dưới cử động không cân xứng và không thể làm được động tác
huýt sáo. Cảm giác xúc giác của hai phần ba lưỡi trước không bị ảnh
hưởng, cũng như phần chức năng vận động còn lại do dây TK7 điều khiển
không bị tổn thương. Các triệu chứng LDTK7 kể trên thuyên giảm từ từ trong vòng ba tháng, sau
đó thì bệnh nhân trở lại trạng thái bình thường. Trường hợp này không có
giải quyết gì liên quan đến pháp lý. Phần bàn luận, các tác giả nhận xét: Đã có báo cáo là nhánh má của dây thần kinh mặt khá nhạy cảm với tổn
thương do đè ép như mặt nạ (mask) đeo chặt, đặc biệt khi dây thần kinh
có một nhánh nối nông không như bình thường với tuyến mang tai và vì thế
nó có thể bị chèn ép vào thân của xương hàm dưới . Trường hợp bệnh nhân
này biểu thị tình trạng liệt nhánh rìa hàm dưới của dây thần kinh mặt,
gây tình trạng liệt các cơ cằm, cơ dưới góc miệng và cơ môi trong dưới
và tổn thương một phần cơ vòng miệng. Trong 100 lần phẫu tích nhánh rìa hàm dưới của dây thần kinh mặt,
Dingman và Grabb nhận thấy rằng 19 trường hợp (19%) nó nằm ở vị trí 1cm
phía dưới bờ dưới của xương hàm dưới. Tuy nhiên, trong tất cả các trường
hợp phẫu tích thì sau khi đi ngang qua động mạch mặt, nhánh thần kinh
này lại nằm lên trên bờ dưới của xương hàm dưới. Và vì thế khi có sức ép
thẳng lên ở vị trí góc hàm thì có thể gây chèn ép mạnh vào dây thần
kinh. Trên đây là trích ba bệnh án từ hai trong số các báo cáo về các trường
hợp tai biến liệt dây thần kinh số 7 sau khi phẫu thuật có gây mê trên
người lớn. Ở trẻ em, trường hợp lần đầu tiên được báo cáo trên y văn thế
giới là vừa mới tháng 7 vừa qua do Duggan và cộng sự đăng trên tập san
Gây mê Nhi khoa tháng 7 năm 2004 . Tuy nhiên bệnh cảnh này khá đặc biệt
là xảy ra trên một bệnh nhi và bệnh nhân này bị hội chứng Treacher
Collin.Vắn tắt, hội chứng Treacher Collin là một rối loạn về di truyền
trên nhiễm sắc thể thường gen mang tính trội, gây rối loạn phát triển
nền sọ mặt. Biểu hiện lâm sàng là giảm sản phần giữa mặt, hàm nhỏ, tai
nhỏ, mất đường thính giác dẫn truyền và hở hàm ếch. Bệnh nhân cụ thể này
là một bệnh nhi nữ 18 tháng tuổi, nặng 9.6kg, mắc hội chứng Treacher
Collin có các triệu chứng điển hình như đã mô tả và kèm thêm lưỡi to.
Bệnh nhân được chuẩn bị mổ giải quyết hỗ trợ thính giác dẫn truyền (chức
năng nghe nhờ dẫn truyền qua xương). Vì đặc điểm của bệnh nhân này như
vậy nên đã gặp phải một khó khăn rất lớn trong việc tiến hành đặt nội
khí quản, duy trì chức năng hô hấp trong gây mê. Kíp gây mê và hồi sức
đã phải bằng mọi cách để duy trì được mọi chức năng sống cho bệnh nhân.
Nhưng sau đó bệnh nhi đã bị liệt dây TK7, và trường hợp này cũng được
cho là tai biến do gây mê hồi sức. Tuy nhiên, tình trạng LDTK7 đã khỏi
hoàn toàn sau hai tháng. Một vài nhận xét:
Tuy là tần suất hiếm, nhưng tai biến liệt dây thần kinh số 7 (biểu hiện
là nói khó, méo môi miệng, ăn uống chảy ra ngoài, mặt lệch tuỳ theo mức
độ) không phải không gặp. Rải rác trong mỗi thập niên đều có những báo
cáo trên y văn về loại tai biến này. Mặc dù bệnh nhân được mổ vì một
bệnh không có liên quan gì đến dây thần kinh số 7 cả nhưng tất cả những
bệnh nhân này đều phải trải qua quá trình gây mê toàn thân. Vì bị gây mê
nên bệnh nhân không hoàn toàn thực hiện được chức năng hô hấp của mình
bình thường, do đó cần phải hỗ trợ hô hấp bằng cách khai thông tắc nghẽn
đường thở, đặt ống thở phụ qua miệng hoặc đặt nội khí quản, tức là đặt
một ống thở trực tiếp vào đường thở để rút ngắn khoảng chết không khí
không cần thiết từ thanh quản đến khoang mũi miệng. Quá trình thực hiện
những thao tác này có động tác nâng cằm đẩy ra trước nhằm làm cho đường
thở từ khí quả thông ra ngoài theo một đường thẳng thì bệnh nhân sẽ dễ
thở hơn. Chính vì thế mà có thể gây tổn thương dây thần kinh số 7, mà
nguyên do đã được trình bày ở trên. Đường đi và phân bố của dây thần kinh số 7 hay dây thần kinh mặt. I.
Điểm xuất phát của TK mặt ở trong cầu não. II. Điểm thoát của dây TK mặt
ra khỏi hộp sọ qua lỗ rách trâm chũm. 1, nhánh thái dương. 2, nhánh gò
má. 3, nhánh mặt. 4, nhánh hàm dưới. 5, nhánh cổ. (Source:
http://www.bellspalsy.ws/nerve.htm) Về đặc điểm dây thần kinh số 7, hay còn gọi là dây thần kinh mặt, là một
dây thần kinh hỗn hợp vừa điều khiển vận động vừa là dây thần kinh cảm
giác, từ trong sọ não thoát ra nền sọ đi cùng với dây thần kinh số 8 qua
tai trong, sau đó TK7 chui qua một ống xương hẹp gọi là ống Fallop, sau
đó thoát ra ngoài nền sọ qua qua lỗ rách trâm chũm. Như vậy tổn thương
dây thần kinh số 7 phía trước ống Fallop được gọi là tổn thương dây thần
kinh 7 trung ương; và tổn thương từ đoạn ống Fallop trở ra thì gọi là
tổn thương thần kinh 7 ngoại biên. Theo mô tả của Fuller và đồng nghiệp,
dây thần kinh 7 ngoại biên khi thoát ra khỏi lỗ trâm chũm thì chạy rất
nông cho đến nhánh xương hàm dưới, sau đó nó đi vào tuyến mang tai và
tại đó nó phân làm ba nhánh chính để phân bổ về các cơ mặt Đó là nhánh
gò má (bao gồm nhánh thái dương và gò má), nhánh miệng và nhánh hàm dưới
(bao gồm nhánh hàm dưới và nhánh cổ). Tuy nhiên các nhánh tận và nhánh
phụ của dây TK7 có thể lên đến 7000 nhánh nhỏ dẫn đến khắp mặt, cổ, các
tuyến nước bọt và ống tai ngoài. Các dây thần kinh này kiểm soát vận
động của các cơ vùng cổ, trán và cơ biểu lộ cảm xúc vùng mặt, cũng như
kiểm soát cường độ phát âm. Dây TK7 cũng đóng vai trò kiểm soát bài tiết
nước mắt, nước bọt vùng trước miệng. Kiểm soát vị giác của 2/3 lưỡi phía
trước và cảm giác vùng ống tai ngoài. Tại chỗ phân chia, nhánh thái
dương và nhánh gò má chạy dốc lên, nhánh miệng và đặc biệt là các nhánh
xương hàm dưới chúi xuống dưới, chạy lên trên hoặc ra sau ngành xương
hàm dưới cho nên dễ bị tổn thương khi có sức ép đè vào vùng này. Thêm
nữa, tổn thương có thể xảy ra khi có tác động kéo xương hàm dưới ra phía
trước làm cho nhánh dây thần kinh mặt đoạn xương hàm dưới bị kéo dãn.
Theo mô tả qua 20 lần phẫu tích dây TK7 của Lisitsyn thì có một số sự
khác biệt trong cấu trúc giải phẫu phân bố các nhánh của dây thần kinh
này. Thứ nhất, chỗ phân nhánh có thể cao hay thấp tuỳ theo vị trí cao
hay thấp của tuyến mang tai. Thứ hai, dây thần kinh có thể nằm nông hơn
so với tuyến. Thứ ba, các nhánh xương hàm dưới đôi khi chạy ở vị trí
thấp hơn bình thường, khi nó nó ôm vòng quanh mép chỗ góc của xương hàm.
Do đó khi đè nén vào vùng xương hàm dưới có thể gây tổn thương nhánh
xương hàm dưới. Nhánh xương hàm dưới có chức năng điều phối các cơ của
môi dưới, cho nên các thương tổn có thể hay gặp ở môi dưới hơn; cũng như
các tổn thương nhẹ như nói khó, ăn uống khó. Tuy nhiên các nơi khác cũng
có thể gặp tuỳ theo nhánh nào của dây thần kinh 7 bị ảnh hưởng. Về mặt chẩn đoán trên lâm sàng: Lý thuyết mà nói thì trên một cơ thể,
bao giờ cũng có một khả năng là hai bệnh không có liên hệ gì với nhau về
mặt chức năng, nhân quả, cùng một cơ chế bệnh có thể xuất hiện cùng một
thời điểm hoặc gối đầu hoặc kế tục nhau. Những bệnh cảnh xuất hiện như
thế này thường là một bài toán hóc búa cho người thầy thuốc, thế nhưng
may mắn là xác suất để có những bệnh cảnh phối hợp như vậy trên thực tế
là rất thấp. Cho nên đối với người làm công việc chẩn đoán và chữa trị
bệnh, khi gặp một bệnh cảnh mà có nhiều triệu chứng có thể của cùng một
cơ chế bệnh lý hoặc không thì nguyên tắc đầu tiên là phải xem xét chúng
trong một quá trình bệnh lý chung trước, ít nhất là cùng một cơ chế bệnh
sinh bệnh nguyên, không được thì cũng trong một tiến trình bệnh, không
được nữa thì là biến chứng, không được nữa thì là có liên hệ ngang, liên
hệ gián tiếp; và cũng với nguyên tắc loại suy cho tới khi không ghép
chúng với nhau được nữa thì mới tạm chấp nhận là chúng đứng riêng lẻ với
nhau để rồi cân nhắc, xem xét lại sau đó. Trong một ngữ cảnh tình huống như vậy thì xác suất cho một bệnh nhân
được đi chỉ định phẫu thuật vì một bệnh lý nào đó trong cơ thể (thí dụ
như phẫu thuật tạng bụng) sau đó thì bị LDTK7 (dù có mối liên kết với
nhau trực tiếp hay gián tiếp đi nữa) là rất hiếm, nhưng không phải không
gặp. Và nếu LDTK7 xảy ra ngay sau khi phẫu thuật có gây mê toàn thân,
trên một cơ thể trước đó hoàn toàn khoẻ mạnh về mặt chức năng thần kinh
thì căn nguyên nên nghĩ đến trước tiên là tai biến. Trở lại một trường hợp bệnh nhi ở Việt nam mà báo chí có đưa tin , bệnh
nhân được tiến hành làm thủ thuật giải quyết chít hẹp bao quy đầu
(phimosis) có gây mê toàn thân. Sau ca mổ thì cháu xuất hiện tình trạng
nói khó, lưỡi bị vẹo, và được giới chuyên môn xác định là có tình trạng
liệt kín đáo dây TK 7. Như thế chẩn đoán Tai biến liệt dây thần kinh số
7 do gây mê trên bệnh nhi này là hoàn toàn có thể nghĩ đến dù khả năng
hiếm. Để sang một bên vấn đề trách nhiêm, về mặt chuyên môn thiết nghĩ
một báo cáo chuyên môn (case report) để công bố cho các đồng nghiệp
trong nước cũng như trên thế giới chia sẻ kinh nghiệm là một điều bổ
ích. NĐN 09/2004 Tài liệu tham khảo:
Lisitsyn MS: Postnarcotic Paresis of Branches of Facial Nerve due to
pressure During Administration, Vesnik khir 1934;36;17-19. và Polonvikova EP. Paralysis of Inferior Branch od Facial Nerve Following
Anesthesia. Sovet.khir 1935;10:12. 2 Parks BJ. Postoperative peripheral neuropathies. Surgery 1973; 74:
348-57. và Dhuner KG. Nerver injuries following operations: A survey of cases
occcurring during a six year period. Anesthesis 1948; 11:289-93. 3 Denny-Brown D, Doherty NM. Effects of transient stretching of
peripheral nerve. Archives of Neurology and Psychiatry 1945;54:116-29.
và Denny-Brown D, Brenner C. Paralysis of nerve induced by direct pressure
and by tourniquet. Archives of Neurology and Psychiatry 1944;51:1-26. 4 Nicholson MJ, McAlpine FS. Neuron injuries associated with surgical
positions and operations. In Martin JT, ed. Positioning in Anesthesia
and Surgery, Philadelphia: WB Saunder CO., 1978:193-224. và Nicholson MJ, Eversole UH. Nerve injuries incident to anesthesia an
operation. Anesthesia and Analgesia 1957; 36: 19-32. 5 Fuller JE, Thomas DV, Rochester NY. Facial nerve paralysis after
general anaesthesia. JAMA 1956;162:645. 6 Anson BJ. Atlas of Human Anatomy, Philadelphia. WB Saunder Company,
1950:37. và Dingman RO, Grabb WC. Surgical anatomy od the mandibular ramus of the
facial nerve based on the dissection of 100 facial-halves. Plastic and
Reconstructive Surgery. 1962;29:266-72. 7 Zäbisch K. Paralysis of Facial Nerve as Complication of General
Anesthesis. Anaesthetist 1953; 2:141-142. 8 Nightingale PJ, Longreen A. Iatrogenic facial nerve paresis.
Anaesthesia 1982; 37:322-23. 9 Churchil-Davidson HC. A practice of anaesthesia 4th ed. London:
Lloyd-Luke, 1978. 10 Dingman RO, Grabb WC. Surgical anatomy od the mandibular ramus of the
facial nerve based on the dissection of 100 facial-halves. Plastic and
Reconstructive Surgery. 1962;29:266-72. 11 Duggan M, Ames W, Papsin B, Berdock S. Facial nerve palsy:
acomplication following anaesthesia in a child with Traecher Collins
Syndrome. Pediatr Anaesthesia;14(7):604. 12 Fuller JE, Thomas DV, Rochester NY. Facial nerve paralysis after
general anaesthesia. JAMA 1956;162:645. 13 Lisitsyn MS: Postnarcotic Paresis of Branches of Facial Nerve DUe to
pressure During Administration, Vesnik khir 1934;36;17-19. 14 http://vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2004/09/3B9D625C/ http://vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2004/09/3B9D6323/
Các tài liệu có thể đọc thêm:
1. Garcia Callejo FJ, Velert Vila MM.Facial paralysis after non-otologic
surgery under general anesthesia. Acta Otorrinolaringol Esp. 1998
Mar;49(2):173-5. [Article in Spanish] 2. Delalande JP, Rea D. Facial paralysis after general anesthesia. Ann
Fr Anesth Reanim. 1988;7(5):440. [Article in French] 3. Vaghadia H. Facial paresis after general anesthesia. Report of an
unusual case: Heerfordt's syndrome. Anesthesiology. 1986
Apr;64(4):513-4. 4. Spielberger L, Speilberger L. Facial paralysis after general
anesthesia? Anesthesiology. 1987 May;66(5):710-1 and 874 5. Pedersen SW. Mask anesthesia in anal fissure as the cause of facial
paresis. Lakartidningen. 1986 Dec 17;83(51):4363. [Article in Swedish] 6. Glauber DT.Facial paralysis after general anesthesia. Anesthesiology.
1986 Nov;65(5):516-7. 7. Mayumi T, Yasukawa K, Yasukawa M, Takasaki M, Takahashi T. Facial
nerve palsy: an unexpected complication following anesthesia by mask: a
case report (author's transl). Masui. 1980 Jan;29(1):80-4. [Article in
Japanese]
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.orgNguyễn Đình Nguyên
|