

 |
Glucides 35% trong đó chất xơ là 20%, lipides
20% , muối khoáng 5% |
Ở các nước Tây phương trong thời
gian vài mươi năm trở lại đây, trong chiều hướng tìm
kiếm một chiến lược giảm thiểu những bệnh như ung
thư, tim mạch, tiểu đường. Ở giới chức y tế thường
kêu gọi công chúng nên giảm lượng tiêu thụ chất đạm
động vật, và thay vào đó là dùng những thực phẩm
được chế biến từ nguồn thực vật như rau củ hay cây
trái. Một thiểu số đã thay thế hẳn chất đạm động vật
bằng chất đạm thực vật trong bữa ăn, và họ thường
được gọi là "những người ăn chay" (tuy nhiên cách ăn
chay của họ không hoàn toàn đồng nghĩa với ăn chay
của các tu sĩ Phật giáo). Một trong những thực phẩm
đóng vai trò quan trọng trong bữa ăn chay là đậu
nành hay các thức ăn được chế biến từ đậu nành. Đối
với những người này, họ đến với rau cải và trái cây
vì họ tin rằng đây là một nguồn thực phẩm an toàn và
bổ dưỡng nhất.



Nhưng ngược lại cũng có người,
trong đó có một số làm việc trong ngành y tế, chất
vấn khuynh hướng này, vì theo họ chưa có bằng chứng
gì cho thấy đậu nành có tác dụng tích cực đến sức
khỏe con người. Nhiều khi cuộc tranh luận xảy ra
trên các diễn đàn khoa học trong một không khí
"nóng", và một sự phân chia ý thức hệ rất rỏ ràng:
một bên ủng hộ, một bên chống. Trong một cuộc hội
thảo ở San Francisco vào năm 1998 mà người viết bài
này có tham dự, sau khi một đồng nghiệp- diễn giả từ
Mayo Clinic thuyết trình về lợi và hại của đậu nành,
một loạt ý kiến cực đoan ồn ào được đưa ra mà ngay
cả hai vị chủ tọa cũng không điều khiển được cuộc
thảo luận!
Ngay cả trong cộng đồng người
Việt, một cuộc tranh cãi như thế cũng xảy ra, nhưng
hình như với tính cách niềm tin cá nhân, tình cảm và
cảm tính hơn là khoa học. Người thì tin rằng đậu
nành là "một nguồn dinh dưỡng tuyệt hảo", nhưng cũng
có người cho rằng dùng đậu nành có thể có hại đến
sức khỏe. Nhưng cả hai bên đều ít hay không dẫn
chứng những tài liệu khoa học, mà chỉ dựa vào một số
thông tin từ internet và ý kiến của một vài vị bác
sĩ trong cộng đồng. Thực ra, đứng trên phương diện
biện chứng, tất cả các ý kiến cá nhân của các chuyên
viên, dù là chuyên viên hàng đầu trong ngành, có giá
trị khoa học rất thấp. Mặt khác, người ta có thể tìm
trên internet những thông tin để ủng hộ hay bác bỏ
một quan điểm về ảnh hưởng của đậu nành rất dễ dàng,
vì hiện nay có hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng
ngàn, các trang nhà trên liên mạng viết về đậu nành.
Thế nhưng, không phải thông tin nào trên liên mạng
cũng đều có giá trị và độ tin cậy như nhau, vì không
có ai hay có cơ chế gì để kiểm tra các thông tin này
trước khi chúng được công bố.
Thực ra, đậu nành chỉ là một
trong nhiều loại thực phẩm hàm chứa kích thích tố nữ
estrogen. Gọi là "kích thích tố nữ" vì estrogen là
một yếu tố hóa học chi phối đến sự phát triển sinh
dục trong phụ nữ. Một trong những chức năng chính
của estrogen là giúp cho các cơ quan sinh dục tăng
trưởng, và làm phát triển các đặc tính nữ (như vú
chẳng hạn). Trong thời kỳ cần khả năng sinh sản,
estrogen là một kích thích tố quan trọng đóng vai
trò điều hòa các hoạt động sinh học của cơ thể, kể
cả sinh hoạt tình dục. Nhưng sau thời kì mãn kinh
(tuổi mãn kinh trung bình ở người da trắng là 49-51
tuổi), buồng trứng không còn sản xuất estrogen nữa,
và gây ra một loạt thay đổi tâm sinh lí trong người
phụ nữ, và dẫn đến một số bệnh mãn tính như ung thư,
tiểu đường và loãng xương.
Hiện nay, một trong những phương
án điều trị và phòng ngừa bệnh tật trong các phụ nữ
sau thời mãn kinh là thay thế kích thích tố (hay còn
gọi là HRT, hormone replacement therapy). Tuy nhiên,
vài năm gần đây, kết quả của một số nghiên cứu lâm
sàng cho thấy HRT có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư
vú trong các phụ nữ có tuổi. Và vấn đề được đặt ra
là phải đi tỉm một phương án chữa trị vừa an toàn
vừa hữu hiệu hơn HRT. Phytoestrogen được xem là một
trong những phương án đó. Vậy phytoestrogen là gì?
Tác dụng và tác hại của nó ra sao? Bài viết này có
một mục đích khiêm tốn là trả lời hai câu hỏi trên,
bằng cách điểm qua một số kết quả nghiên cứu liên
quan đến đậu nành nói riêng [và phytoestrogen nói
chung] và sức khỏe con người đã được công bố trên
các tập san y sinh học trên thế giới. Những thông
tin này đều được giới nghiên cứu y khoa duyệt qua
trước khi công bố, do đó, dù không tuyệt đối, nhưng
là những bằng chứng khoa học có độ tin cậy cao hơn
nhiều so với những thông tin trên internet [không
phải từ những tập san Y-sinh học, các tổ chức có
thẩm quyền] hay ư kiến cá nhân.
Nói một cách ngắn gọn,
phytoestrogen là những hợp chất estrogen (kích thích
tố nữ) được tìm thấy trong thực vật [1]. Có ba nhóm
phytoestrogen chính: isoflavones, coumestans, và
lignans. Tất cả ba nhóm phytoestrogen này có cấu
trúc hóa học rất giống với estrogen và anti-estrogen
[2]. Vai trò của phytoestrogen trong thực vật chưa
được xác định một cách rỏ ràng, nhưng có bằng chứng
cho thấy hợp chất này có chức năng chống nấm [3] hay
nhuộm cây [4]. Có giả thuyết cho rằng phytoestrogen
cỉẳn là một bộ phận phòng thủ của cây trong quá
trỉnh tiến hóa.
Năm 1954, người ta phát hiện có
53 loại cây cỏ có chứa estrogen [5], nhưng sau này
con số được tăng lên hơn 300 cây cỏ [6]. Isoflavones
và counestans được ghi nhận là những hợp chất phổ
thông nhất.
Bảng sau đây là ước lượng hàm
lượng của phytoestrogen trong một số thực phẩm thông
thường được tính ra trên đơn vị tách (một tách đo
lường " metric cup " có thể tích chuẩn là 250ml):
Thực phẩm
Hàm lượng phytoestrogen
Miso 120mg
Đậu nành, đỗ tương (soybeans)
80mg
Bột đậu nành (soyflour) 100mg
Tempeh 80mg
Đậu khuôn (Tofu) 80mg
Sữa đậu nành (soy milk) 40mg
Đậu hũ (Tofu yoghurt) 16mg/100g
Mì đậu nành khô (soy noodles)
8,5mg/100g
Đậu nành xanh (green soybeans)
135mg/100g
Tác dụng
của phytoestrogen
Các triệu chứng
sau thời kỳ mãn kinh.
Như đề cập trên, đối với phụ nữ
sau thời kỳ mãn kinh, cơ thể không còn sản xuất kích
thích tố estrogen, và dẫn đến một loạt thay đổi quan
trọng về tâm sinh lí. Một số trong những triệu chứng
sinh lí là nóng bừng (thường gọi là "hot flash"),
khô âm hộ, viêm âm đạo. Nhưng cường độ mà phụ nữ
kinh qua những triệu chứng này có thể tùy thuộc vào
yếu tố văn hóa. Chẳng hạn như phụ nữ Nhật Bản ít bị
những triệu chứng nóng bừng so với phụ nữ Canada.
Chỉ có 4% phụ nữ Nhật Bản dùng HRT [để chế ngự các
triệu chứng trên], so với 30% trong các phụ nữ người
Mĩ [7]. Sự khác biệt này có thể có nhiều nguyên
nhân, nhưng có người cho rằng phytoestrogen là một
nguyên nhân chính có thể giải thích tại sao phụ nữ
Nhật Bản ít bị chứng nóng bừng hơn, và do đó ít cần
đến, phụ nữ người Mĩ.
Trong một nghiên cứu trên 58 phụ
nữ sau thời kỳ mãn kinh, với tối thiểu là 14 cơn
nóng bừng hàng tuần; qua 12 tuần theo dỏi, tỉ lệ
nóng bừng trong các phụ nữ được điều trị bằng bột
đậu nành (phytoestrogen) (45 gram) giảm 40% so với
phụ nữ không được điều trị là 25%. Tuy nhiên, mức độ
khác biệt này không được xem là có ý nghĩa thống kê
(tức có thể là do các yếu tố ngẫu nhiên, chứ không
phải tác dụng của phytoestrogen) [8].
Loãng
xương
Đối với các phụ nữ sau thời kỳ
mãn kinh, tỉnh trạng suy giảm estrogen dẫn đến tỉnh
trạng mất chất xương. Tính trung bỉnh tỉ lệ bị mất
chất xương khoảng 1% mỗi năm. Nhưng trong thời kỳ
tiền mãn kinh, tỉ lệ này có thể cao đến 5 hay 10%
mỗi năm. Giảm chất xương có thể dẫn đến dễ gãy xương
hơn bỉnh thường nếu bị té hay tai nạn. Do đó, một
trong những mục tiêu quan trọng của việc chữa trị
bệnh loãng xương là duy trỉ chất xương sao cho không
giảm trong thời kỳ sau mãn kinh. HRT là một loại
thuốc có khả năng làm giảm tỉ lệ mất chất xương và
phòng chống gãy xương trong phụ nữ sau thời kỳ mãn
kinh. Tuy nhiên, vỉ dùng HRT lâu năm có thể làm tăng
nguy cơ bị ung thư vú (và có thể cả bệnh tim mạch).
Từ đó, một trong những hướng nghiên cứu mới là tỉm
một phương cách điều trị khác an toàn hơn, vừa giảm
nguy cơ gãy xương lại vừa không làm tăng nguy cơ ung
thư vú hay các phản ứng phụ.
Phytoestrogen có thể ngăn ngừa
tỉnh trạng mất chất xương trong các phụ nữ sau thời
kỳ mãn kinh. Nhiều dữ kiện trong vòng 3 thập niên
qua cho thấy những phụ nữ được điều trị bằng
Iproflavone, một dạng isoflavones, có mức độ mất
chất xương thấp hơn các phụ nữ không được điều trị
bằng Iproflavone. Nhưng kết quả này vẫn còn nằm
trong vòng tranh cãi, vỉ có nhà nghiên cứu cho rằng
tác dụng của phytoestrogen không cao như nhiều người
"cảm tỉnh viên" tưởng, nhưng họ cũng công nhận là
phytoestrogen rất ít khi nào gây ra phản ứng phụ.
Mặt khác vỉ chưa có nghiên cứu lâm sàng nào được
tiến hành theo đúng các tiêu chuẩn khoa học của thử
nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên, nên vấn đề vẫn
chưa mấy rỏ ràng.
Mới đây, một nhóm bác sĩ và khoa
học gia bên Ý đã tiến hành một thử nghiệm lâm sàng
đối chứng ngẫu nhiên, với 90 phụ nữ tuổi từ 47 -
57, bỉnh thường (không bị chứng loãng xương). Những
phụ nữ này được chia làm 3 nhóm: 30 người không được
điều trị gì cả (gọi là placebo, hay nhóm "đối
chứng"); 30 người được điều trị bằng HRT 1 mg/ngày;
và 30 người được điều trị bằng phytoestrogen
genistein 54 mg/ngày. Sau 12 tháng điều trị, các nhà
nghiên cứu ghi nhận vài kết quả chính như sau [9]
Mật độ xương đùi trong nhóm được
điều trị bằng phytoestrogen genistein tăng [trung
bình] 3.6%; trong khi đó, nhóm được điều trị bằng
HRT, tỉ lệ tăng là 2.4%; và như có thể đoán trước
được, mật độ xương đùi trong nhóm đối chứng giảm
khoảng 0.7%.
Chỉ số sinh hóa tạo xương (bone
formation marker), nhóm được điều trị bằng
phytoestrogen genistein tăng 23% đến 29%, trong khi
chỉ số này trong nhóm được điều trị bằng HRT và nhóm
đối chứng lại giảm.
Về phản ứng phụ:
có ba phản ứng phụ như sau: chảy máu âm hộ,
đau vú (breast tenderness), và nóng bừng (hot
flushes). Chảy máu âm hộ được ghi nhận 3 người trong
nhóm được điều trị bằng HRT, 1 người trong nhóm
phytoestrogen genistein, và 1 người trong nhóm đối
chứng. Chứng nóng bừng được ghi nhận trong 12 người
thuộc nhóm đối chứng, cao nhất so với nhóm HRT (chỉ
1 người) và nhóm phytoestrogen genistein (3 người).
Tuy nhiên, chứng đau vú được ghi nhận cao nhất trong
nhóm HRT (6 người) so với nhóm phytoestrogen
genistein (3) hay đối chứng (1).
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng
phytoestrogen có tác dụng tích cực đến xương trong
các phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh, qua khả năng làm
giảm hoạt động của các tế bào hủy xương và tăng hoạt
động của các tế bào tạo xương.
Đứng trên khía cạnh phương pháp
và ý nghĩa lâm sàng, đây là một nghiên cứu quan
trọng về ảnh hưởng của phytoestrogen trong việc điều
trị chứng loãng xương. Đây là lần đầu tiên một
nghiên cứu về phytoestrogen trong ngành xương được
tiến hành theo các tiêu chuẩn khoa học của nghiên
cứu lâm sàng. Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng
chứng cho thấy phytoestrogen có thể làm cho xương
phụ nữ trong và sau thời mãn kinh mạnh hơn, và làm
giảm nguy cơ gãy xương. Nếu kết quả của nghiên cứu
này được xác nhận bằng vài nghiên cứu độc lập khác,
có thể nói trong tương lai ngành xương sẽ có một
phương án mới điều trị chứng loãng xương an toàn hơn
và rẻ tiền hơn với các loại thuốc hiện hành.
Ung thư
Đã từ lâu các nhà nghiên cứu ghi
nhận rằng mức độ khác nhau về tỉ lệ ung thư giữa các
sắc dân trên thế giới là một bằng chứng cho thấy
bệnh này chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến
môi trường hơn là các yếu tố di truyền. Tỉ lệ dân bị
ung thư cao nhất thường tập trung trong các dân số
có mức tiêu thụ chất béo cao, chất đạm động vật, và
ít tiêu thụ chất sợi (fibre); trong khi đó tỉ lệ ung
thư thường thấp ở các nước mà mức độ tiêu thụ thịt
ít nhưng có mức độ tiêu thụ thực vật và rau cỏ cao,
nhất là các cây cỏ có chứa phytoestrogen [10-11].
Trong thời gian gần đây, có khá
nhiều nghiên cứu về mối liên hệ giữa ung thư và thực
phẩm đậu nành. Ở Nhật, những người đàn ông ăn đậu
khuôn (5 lần một tuần) có tỉ lệ bị ung thư tuyến
tiền liệt (prostate cancer) thấp hơn khoảng 50% so
với đàn ông ăn đậu khuôn 1 lần hay ít hơn trong một
tuần [12]. Trong một nghiên cứu trên 265,000 người
Nhật trong vỉẳng 12 năm cho thấy những người ăn miso
(một loại đậu khuôn) hàng ngày có nguy cơ bị ung thư
dạ dày thấp hơn những người không dùng đậu nành
[13-14]. Hai nghiên cứu khác ở Trung Quốc cho thấy
phụ nữ dùng thực phẩm đậu nành ít (dưới 1 lần /
tuần) có tỉ lệ bị ung thư phổi và ung thư vú cao gấp
2 đến 3.5 lần so với các phụ nữ dùng hàng ngày
[15-16].
Trong một nghiên cứu mà đối tượng
là những người Mĩ gốc Trung Quốc, Nhật Bản, và Phi
Luật Tân, các nhà nghiên cứu ghi nhận một mối liên
hệ nghịch chiều giữa mức độ tiêu thụ đậu khuôn và
nguy cơ bệnh ung thư vú: phụ nữ dùng đậu khuôn nhiều
có nguy cơ bị ung thứ vú thấp hơn phụ nữ không dùng
hay dùng ít đậu khuôn [17]. Một phát hiện tương tự
cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu ở Singapore
[18] và Hawaii [19].
Kích thích tố nội sinh
(endogenous hormones) và kích thích tố ngoại sinh
(exogenous hormones) đều có quan hệ với nhiều loại
ung thư. Trong đàn ông, những người có độ kích thích
tố nam (androgens) cao thường có nguy cơ bị ung thư
tuyến tiền liệt hơn những người có độ kích thích tố
nam thấp. Trong phụ nữ, nguy cơ bị ung thư vú và
noãn sào thường tăng theo mức độ kích thích tố nữ
(hay estrogen). Tương tự những sắc dân có độ kích
thích tố thấp cũng là những người có nguy cơ bị ung
thư thấp [20]. Do đó, một giả thuyết được đặt ra là
nếu có một hóa chất hay thực phẩm làm giảm độ kích
thích tố nam và nữ thỉẢ nó cũng có thể làm giảm nguy
cơ bị ung thư. Mặc dù mối tương quan giữa kích thích
tố nội sinh và ung thư tỷ lệ thuận (tức là mức độ
kích thích cao thỉ nguy cơ ung thư cao), nhưng mối
tương quan giữa phytoestrogen và ung thư lại tỷ lệ
nghịch (tức là mức độ phytoestrogen càng cao thỉ
nguy cơ ung thư càng giảm).
Không ai biết tại sao lại có một
"nghịch lí" như vừa nói, nhưng nhiều thí nghiệm
trong chuột cho thấy phytoestrogen có khả năng làm
giảm sự tăng trưởng của tế bào ung thư. Trong những
nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu điều trị hai nhóm
chuột (một nhóm bằng phytoestrogen, và một nhóm đối
chứng tức không có thuốc nào), và cả hai nhóm đều
được cho sống trong một môi trường gây bệnh ung thư.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm được điều trị bằng
phytoestrogen có tốc độ phát sinh ung thư chậm hơn
một cách đáng kể so với nhóm đối chứng, và điều này
chứng tỏ rằng phytoestrogen có thể có tác dụng tích
cực trong việc ngăn cản những bệnh ung thư tùy thuộc
vào kích thích tố [21-22].
Chu kỳ
kinh nguyệt
Mối liên hệ giữa phytoestrogen và
ung thư vú, và giữa chu kỳ kinh nguyệt và ung thư vú
là hai vấn đề thu hút một số nghiên cứu trong thời
gian gần đây. Ở phụ nữ người da trắng, chu kỳ kinh
nguyệt trong những người bị ung thư vú ngắn hơn
khoảng 2 đến 3 ngày so với chu kỳ trong những người
không bị ung thư vú [23]. Chu kỉẢ kinh nguyệt ở phụ
nữ da trắng tính trung bỉnh ngắn hơn chu kỳ ở phụ nữ
Á châu khoảng 2 đến 3 ngày, và sự khác biệt này được
đề nghị là có liên hệ đến mức độ tiêu thụ đậu nành
trong người Á châu cao hơn trong người Tây phương
nói chung [24-25]
Trong một nghiên cứu nhỏ trên cho
6 phụ nữ dùng sữa đậu nành trong vòng 1 tháng, các
nhà nghiên cứu ghi nhận chu kỳ kinh nguyệt tăng lên
khoảng 3 ngày. Nhưng vỉ nghiên cứu này quá nhỏ và
không có một nhóm đối chứng nên chưa thể xem là một
bằng chứng đáng tin cậy [26]. Trong một nghiên cứu
khác lớn hơn [27], các nhà nghiên cứu không ghi nhận
ảnh hưởng nào của sữa đậu nành đến chu kỳ kinh
nguyệt. Do đó, dựa theo các dữ kiện đang có, chúng
ta chưa thể kết luận được là phytoestrogen có khả
năng kéo dài chu kỳ kinh nguyệt, và chu kỳ kinh
nguyệt tương đối dài trong phụ nữ Á châu chắc không
phải do ảnh hưởng của phytoestrogen [28].
Bệnh tim
mạch
Bằng chứng y học thu thập trong
khoảng 30 năm qua cho thấy phytoestrogen có ảnh
hưởng tích cực chống lại các bệnh tim mạch. Đã từ
lâu, giới nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ người Á châu,
những người có mức độ tiêu thụ rau cải nhiều, bị
bệnh tim mạch ít hơn người da trắng Tây phương
[29-30].
Trong phụ nữ người da trắng,
estrogen là một kích thích tố được xem là có tác
dụng phòng chống nguy cơ bị bệnh tim mạch. Phụ nữ
sau thời kỳ mãn kinh dùng estrogen (hay HRT) có nguy
cơ bị bệnh tim mạch thấp hơn phụ nữ không dùng
estrogen [31-33]. Mối quan hệ giữa phytoestrogen và
bệnh tim mạch chưa được nghiên cứu qui mô như trong
trường hợp HRT.
Tuy nhiên kết quả từ nhiều nghiên
cứu mối quan hệ giữa phytoestrogen và bệnh tim mạch
không hoàn toàn nhất quán, và thường mâu thuẫn nhau.
Chẳng hạn như một nghiên cứu báo cáo rằng chỉ số
cholesterol trong các phụ nữ dùng isoflavones với 45
mg/ngày giảm một cách đáng kể so với phụ nữ không
được điều trị bằng isoflavones [34]. Nhưng một
nghiên cứu khác [35] trong đàn ông được điều trị
bằng protein đậu nành với 60 g/ngày trong vòng 4
tuần, thỉ không ghi nhận được một ảnh hưởng tích cực
nào của phytoestrogen. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu
cũng nói thêm rằng các đối tượng trong nghiên cứu
của họ có độ cholestrol thấp, tức là cơ hội giảm
cholesterol không có bao nhiêu.
Khá nhiều nghiên cứu cho thấy
thay thế thức ăn động vật bằng chất đạm chế biến từ
đậu nành làm giảm LDL cholesterol [36-37]. Một phân
tích tổng hợp 38 nghiên cứu lâm sàng gần đây kết
luận rằng đậu nành hay chất đạm chế biến từ đậu nành
có khả năng giảm LDL và triglyceride [38].
Khả năng
tác hại của phytoestrogen
Khả năng sinh sản. Vào thập niên
1940s, ở Tây Úc người ta thấy một số trừu có vấn đề
về khả năng sinh sản, kể cả các chứng u nang trong
noãn sào, và thiếu khả năng thụ tinh [39]. Sau này
triệu chứng trên có tên là "Clover disease", và sau
khi nghiên cứu, các nhà khoa học biết rằng chứng này
do trừu ăn một loại cỏ có tên là Trifolium
subterraneum (hay thường gọi là "clover", hay cỏ ba
lá, cỏ clô-vơ) có chứa nhiều hàm lượng isoflavones
[40]. Tác hại (hay "ảnh hưởng" thì đúng hơn) của cỏ
clô-vơ trong vấn đề sinh sản sau này còn được ghi
nhận trong thỏ, lợn (heo), và chuột.
Câu hỏi cần được đặt ra là một
ảnh hưởng tiêu cực của isoflavones như trên có thể
có trong con người hay không? Qua các nghiên cứu
được công bố trong vài mươi năm qua thỉ có lẽ câu
trả lời là "không". Thực ra, chưa có một nghiên cứu
nào cho thấy isoflavone có ảnh hưởng tiêu cực đến
sinh sản trong phụ nữa trước thời kỳ mãn kinh cả.
Tuy nhiên, có một nghiên cứu ở Hòa Lan báo cáo rằng
các phụ nữ dùng củ tulip (có chứa nhiều
phytoestrogen) ở một liều lượng lớn có thể gây ra
chứng chảy máu âm hộ và vài rối loạn chu kỳ kinh
nguyệt [41], nhưng vỉ nghiên cứu này quá sơ sài, nên
không ai có thể kết luận được là các triệu chứng này
trực tiếp liên quan đến phytoestrogen hay một yếu tố
trung gian nào khác. Trong phụ nữ Á châu, những
người dùng đậu nành trong một thời gian rất dài (qua
nhiều thế hệ) và với liều lượng trung bỉnh, thỉ khả
năng sinh sản của họ không có gì để gọi là có vấn
đề.
Phát
triển
Cho đến nay, tất cả các nghiên
cứu về phytoestrogen và phát triển chỉ giới hạn
trong các động vật cấp thấp như chuột, nhưng kết quả
cũng không có gì mang tính khẳng định. Dù thế, có
người đặt giả thuyết rằng (cỉẳn gọi là
Sharpe-Skakebaek hypothesis) nếu trẻ sơ sinh được
tiếp thu estrogen sớm có thể dẫn đến một vài biến
chứng trong thời gian trưởng thành, như chất lượng
tinh trùng thấp, hay nguy cơ bị ung thư tuyến tiền
liệt [42]. Nhưng trong thực tế cho đến nay, những
tác hại trên chưa được ghi nhận trong bất cứ một
nghiên cứu nào. Thực ra, có bằng chứng cho thấy
ngược lại rằng nếu trẻ sơ sinh dùng phytoestrogen
thỉ trong thời gian trưởng thành họ thường ít bị các
chứng bệnh mãn tính. Ở Mĩ, sữa đậu nành đã được dùng
cho trẻ sơ sinh hơn 50 năm và chưa có bằng chứng gì
cho thấy nó có tác hại [43].
Một vài
nhận xét
Nói chung mặc dù trong thời gian
qua đã có khá nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa
phytoestrogen và sức khỏe con người, nhưng kiến thức
của chúng ta về mối quan hệ này vẫn còn rất rời rạc.
Một phần lớn là vỉ gần như 95% các nghiên cứu chưa
được tiến hành theo những tiêu chuẩn khoa học và
nguyên tắc lâm sàng cao. Chẳng hạn như trong khoảng
100 nghiên cứu liên quan đến phytoestrogen và loãng
xương, ung thư và bệnh tim mạch, chỉ có 5 nghiên cứu
được liệt vào loại "thư? nghiệm lâm sàng đối chứng
ngẫu nhiên" (tức là "Randomized controlled clinical
trial"), một loại nghiên cứu mà giá trị của kết quả
được đánh giá là có độ tin cậy cao nhất trong tất cả
các loại nghiên cứu lâm sàng.
Tuy nhiên, điểm qua kết quả của
các nghiên cứu trên chuột và con người trong thời
gian qua, chúng ta có thể nói rằng tác dụng của
phytoestrogen đến sức khỏe con người nói chung là
tích cực và an toàn nếu dùng với một liều lượng vừa
phải và trong một thời gian trung bỉnh. Những bằng
chứng này cho thấy phytoestrogen có thể ảnh hưởng
đến nhiều cơ phận, kể cả làm giảm cholesterol, ngăn
chận sự phát triển của các tế bào ung thư, giảm tỉnh
trạng mất chất xương trong người, và có thể xoa dịu
những triệu chứng sau thời kỳ mãn kinh như nóng
bừng. Nhưng phytoestrogen cũng có một vài biến chứng
phụ nếu dùng với một liều lượng cao, dù những biến
chứng này nói chung là không nghiêm trọng.
Thế nào là một liều lượng trung
bỉnh? Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào trả lời dứt
khoát câu hỏi này. Nhưng các dữ kiện khoa học công
bố trong thời gian gần đây cho thấy có lẽ dùng
khoảng 30-40 mg / ngày (tức khoảng 1 ly sữa đậu nành
mỗi ngày) là một liều lượng an toàn. Về thời gian
dùng "an toàn", cũng chưa có câu trả lời rỏ ràng, vỉ
hầu hết các nghiên cứu về tác dụng của phytoestrogen
thường rất ngắn hạn, và chúng ta vẫn chưa biết được
những biến chứng lâu dài. Tuy nhiên, cho đến nay,
trong các sắc dân Á châu dùng phytoestrogen (đậu
nành) từ thế hệ này sang thế hệ khác, chưa thấy có
biến chứng nguy hiểm nào được báo cáo.
Tăng cường tiêu thụ các sản phẩm
như đậu khuôn, hay rau cải cũng nằm trong một chiến
lược y tế công cộng của chính phủ nhiều nước Tây
phương nhằm giảm tỉ lệ dân số bị bệnh tim mạch, ung
thư và loãng xương. Đối với người Việt Nam, các sản
phẩm của đậu nành, như đậu khuôn, sữa đậu nành, đậu
hủ là những món ăn quen thuộc, và không có lí do gì
chúng ta phải từ bỏ nguồn thực phẩm lành mạnh và
quan trọng này.
Tài liệu
tham khảo và chú thích:
[1] Chữ "Phytoestrogen" là ghép từ tiếp đầu ngữ
"phyto" có nghĩa là thực vật (cây cỏ), và estrogen.
[2] Tất cả ba nhóm phytoestrogen này có cấu trúc hóa
học rất giống với estrogen và kháng-estrogen
(anti-estrogen). Có bằng chứng nghiên cứu cho thấy
khi phytoestrogen được dùng trong những trường hợp
estrogen nội sinh với độ cao thì phytoestrogen đóng
vai trò khống chế hoạt động của estrogen.
Các tài liệu tham khảo sau đây được liệt kê theo thứ
tự: tên tác giả, tựa đề bài báo, tên tập san (viết
tắt theo qui luật quốc tế), năm xuất bản, bộ số, và
trang.
[3] Naim H, et al. Soy bean isoflavones,
characterisation, determination and antifugal
activity. J Agric Food Chem 1974;22:806-810.
[4] Clevenger S. Flower pigments. Sci Am 1964;
210:84-92.
[5] Bradbury RB, White DE. Oestrogens and related
substances in plants. Vitam Horm 1954; 12:207-33.
[6] Farnsworth NR, et al. Potential value of plants
as sources of new antifertility agents. J Pharmacol
Sci 1975; 64:717-54.
[7] Colditz GA, et al. Type of postmenopausal
hormone use and risk of breast cancer: 12-year
follow-up from the NursesâÀỖ Health Study. Cancer
Causes Control 1992; 3:433-39.
[8] Murkies AL, et al. Dietary flour supplementation
decreases postmenopausal hot flushes: effects of soy
and wheat. Maturitas 1995; 21:189-95.
[9] Morabito N, et al. Effects of genistein and
hormone replacement therapy on bone loss in early
postmenopausal women: a randomized double-blind
placebo-controlled study. J Bone Miner Res 2002;
17:1904-12.
[10] Parkin DM. Cancers of the breast, endometrium,
and ovary: geographic correlations. Eur J Clin
Oncolo 1989; 25:1917-25.
[11] Ross PD, et al. International comparisons of
mortality rates for cancer of the breast, ovary,
prostate and colon, and per capita food consumption.
Cancer 1986; 58:2363-71.
[12] Severson RK, et al. A prospective study of
demographics, diet, and prostate cancer among men of
Japanese ancestry in Hawaii. Cancer Res 1989;
49:1857-60.
[13] Haenszel W, et al. Stomach cancer among
Japanese in Hawaii. J Natl Cancer Inst 1972;
49:969-88.
[14] Nagai M, et al. Relationship of diet to the
incidence of esophageal and stomach cancer in Japan.
Nutr Cancer 1982; 3:257-68.
[15] Koo LC, et al. Dietary habits and lung cancer
risk among Chinese females in Hong Kong who never
smoked. Nutr Cancer 1988; 11:155-72.
[16] Lee HP, et al. Dietary effects on breast cancer
risk in Singapore. Lancet 1991; 337:1197-200.
[17] Wu AH, et al. Tofu and risk of breast cancer.
Cancer Epidemiol Biomarkers Prev 1996; 5:901-6.
[18] Lee HP, et al. Dietary effect on breast cancer
risk in Singapore. Lancet 1991;337:1197-2000.
[19] Goodman MT, et al. Association of soy and fiber
consumption with the risk of endometrial cancer. Am
J Epidemiol 1997; 146:294-306.
[20] Trichopoulos D, et al. The effects of
Westernization on urine estrogens, frequency ov
ovulation and breast cancer risk. Cancer 1984;
53:187-192.
[21] Lamartiniere CA, et al. Genistein suppresses
mammary cancer in rats. Carcinogenesis 1995;
53:187-192.
[22] Lamartiniere CA, et al. Neonatal genistein
chemoprevents mammary cancer. Proc Soc Exp Biol Med
1995; 208:120-3.
[23] Olsson H, et al. Retrospective assessment of
menstrual cycle length in patients with breast
cancer, in patients with benign breast cancer and in
women without breast cancer. J Natl Cancer Inst
1983; 70:17-20.
[24] Treolar AE, et al. Variation of the human
menstrual cycle through reproductive life. Int J
Fertil 1970; 12:77-126.
[25] Key TJA, et al. Sex hormones in rural China and
Britain. Br J Cancer 1990; 62:631-636.
[26] Lu LH, et al. Effects of soya consumption for
one month on steroid hormones in premenopausal
women: implications for breast cancer risk
reduction. Cancer Epidemiol Biomarkers Prev 1996;
5:63-70.
[27] Baird Đ, et al. Dietary intervention study to
assess estrogenicity of dietary soy among
postmenopausal women. J Clin Endocrinol Metab 1995;
80:1685-90.
[28] Lock M. Contested meanings of the menopause.
Lancet 1991; 337:1270-72.
[29] ArtauđWild SM, et al. Differences in coronary
mortality can be explained by differences in
cholesterol and saturated fat intakes in 40
countries but not in France and Finland. A paradox.
Circulation 1993; 88:2771-9.
[30] Keys A, et al. The seven countries study: 2289
deaths in 15 years. Prev Med 1964; 13:141-154.
[31] Chae CU, et al. Postmenopausal hormones
replacement therapy and cardiovascular disease.
Thromb Haemost 1997; 78:770-80.
[32] Stampler MJ, et al. Postmenopausal estrogen
therapy and cardiovascular disease: ten-year
follow-up from the NursesâÀỖ Health Study. N Engl J
Med 1991; 325:756-62.
[33] Gilligan DM, et al. Effects of estrogen
replacement therapy on peripheral vasomotor function
in postmenopausal women. Am J Cardiol 1995;
75:264-268.
[34] Cassidy A, et al. Biological effects of
isoflavones in young women: importanceof the
chemical composition of soy bean products. Br J Nutr
1995; 74:587-601.
[35] Gooderham MJ, et al. A soy protein isolate rich
in genistein and daidzein and its effects on plasma
isoflavone concentrations, platelet aggregation,
blood lipids and bone density in postmenopausal
women. J Nutr 1996; 126:2000-6.
[36] Carroll KK. Review of clinical studies on
cholesterol-lowering response to soy protein. J Am
Diet Assoc 1991; 91:820-27.
[37] Sirtori CR, et al. Soybean protein diet and
plasma cholesterol: from therapy to molecular
mechanisms. Ann NY Acad Sci 1993; 676:188-201.
[38] JW Anderson và đồng nghiệp. Meta analysis of
the effects of soy protein intake on serum lipids.
New England Journal of Medicine 1995; 333:276-282.
[39 Bennetts HW, et al. S specific breeding problem
of sheep on subterranean clover pastures in Western
Australia. Aust Vet 1946; 22:2-12.
[40] Bradbury RB, White DE. Estrogen and related
substances in plants. Vitamins Hormones 1954;
12:207-233.
[41] Labov JB. Phytoestrogens and mammalian
reproduction. Comp Biochem Physiol 1977; 57:3-9.
[42] Sharpe RM, Skakkebaek NE. Are estrogens
involved in falling sperm counts and disorders of
the male reproductive tract? Lancet 1993;
341:1392-5.
[43] Huggett AC, et al. Phytoestrogens in soy-based
infant formula. Lancet 1998; 350:815-6.