Trong ngành Âu dược, thông thường một bằng sáng chế thuốc chỉ có hiệu lực 20
năm. Cho nên sau khi một loại thuốc gốc mà bằng sáng chế đã hết hiệu lực,
chính quyền sở tại ở một nước có quyền cho phép các nhà bào chế thuốc trong
nước sản xuất loại thuốc đó, nhưng phải dựa trên công thức, thành phần
nguyên liệu có hoạt tính trị liệu căn nguyên bệnh và qui trình chế tạo như
đã qui định trong bằng sáng chế thuốc gốc, Trên nguyên tắc căn bản, thuốc
phải có công hiệu trị liệu tương đương với thuốc gốc. Loại thuốc được chế
tạo hợp pháp như thế này gọi chung là thuốc generic.
Vì không phải mất các phí tổn vô cùng to lớn đầu tư ban đầu cho đội ngũ nhân
viên nghiên cứu và thiết bị trong công trình nghiên cứu, thí nghiệm, kiểm
nghiệm lập đi lập lại nhiều lần để đạt được thành công cuối cùng, cho đến
các thủ tục hành chính để có được phép chính thức đưa ra lưu hành trên thị
trường cho một loại thuốc gốc mới ( thông thường tất cả thời gian phải mất
là khoảng 5 đến 10 năm ), thuốc generic, vì vậy, có gíá thành chế tạo cũng
như giá bán rẻ hơn thuốc gốc rất nhuều.
Phải biết là do các phí tổn cao đầu tư ở công trình nghiẽn cứu nên một số
thuốc gốc để điều trị các bệnh hiểm nghèo hay bệnh khó điều trị thường có
giá bán cao. Mỗi viên thuốc gốc loại này thường được bán trên thị trường
trên dưới 10 dollar Mỹ, trong khi nếu là thuốc generic thì giá bán sẽ rẻ hơn
rất nhiều so với gíá thuốc gốc. Cũng phải nói là nhờ sự sản xuất thuốc
generic mà bệnh nhân cũng như các cơ quan y tế ở các nước không có thu nhập
cao đã có cơ hội để chữa trị các bệnh hiểm nghèo hay khó điều tri, mà trước
đây không thể sử dụng được vì gíá phải mua quá cao.
Cũng nhân cơ hội này, các nước đã có cơ sở sản xuât dược phẩm, nhất là các
nước ở Á Phi, châu Mỹ La Tinh cũng có dịp để sản xuất hợp pháp thuốc generic
sau khi được phép của chính quyền sở tại để vừa cung cấp cho thị trường
trong nước, lại vừa có thể bán ra thị trường các nước khác.
Như vậy trên nguyên tắc, thuốc generic không phải là thuốc giả, vì thuốc giả
là thuốc đuợc làm ra từ các cơ sở sản xuất bất hợp pháp, dù có hình thức bên
ngoài giống như thuốc gốc nhưng không có thành phần nguyên liệu hoạt tính
hay qui trình bào chế tuân theo bằng sáng chế thuốc gốc qui định; ngoại trừ
trường hợp thuốc generic có sự giả mạo việc ghi chú trên nhãn hiệu về cơ sở
hay quốc gia sản xuất, chẳng hạn như đã sản xuất tại nước A mà ghi là nước
B.
Về công hiệu điều trị thì thuốc giả, ngoài việc không có công hiệu điều trị,
còn có thể tạo ra các tác hạị nguy hiểm cho người sử dụng.vì các thành phần
nguyên liệu trong thuốc giả. Cho nên chính quyền sở tại của mỗi nước cần
phải có mọi biện pháp pháp luật triêt để để chận đứng một cách hiệu quả việc
lưu hành thuốc giả để bảo đảm an toàn sức khoẻ cho người dân, như việc triệt
để không cho phép buôn bán thuốc ở tất cả các nơi không phải là nhà thuốc
được nhà nước cho phép hoạt động.
Về thuốc generic, tuy trên nguyên tắc nói là có công hiệu như thuốc gốc,
nhưng trên thực tế thì không phải thuốc generic nào cũng có công hiệu tương
đương như thuốc gốc. Dù căn bản là thuốc generic được bào chế dựa trên qui
định của bằng sáng chế thuốc gốc, nhưng ở mỗi nước có sự khác biệt về cơ sở,
thiết bị để bào chế thuốc, cũng như phẩm chất của nguyên vật liệu sử dụng,
trình độ kỹ thuật của đội ngũ công nhân viên, trình độ quản lý sản xuất, kỹ
thuật bảo quản nguyên liệu, chế phẩm…, nên phẩm chất của cùng loại thuốc
generic khó có thể giống nhau được.
Người ta thường nhận thấy tuy cùng một loại thuốc generic, nhưng khi được
chế tạo tại một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm ở một nước Tây Âu, vì căn bản
phải chịu sự quản lý kỹ càng của cơ quan chính quyền sở tại và có kinh
nghiệm cũng như trình độ kỹ thuật sản xuất cao, nên phẩm chất của thành phẩm
có phần bảo đảm hơn cùng loại thuốc generic được chế tạo tại một cơ sở dược
phẩm địa phương của các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém,
nhất là khi không có sự hướng dẫn kỹ thuật chế tạo và sự quản trị sản xuất
của một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm.trên thế giới..
Để hướng dẫn việc bào chế thuốc generic được bảo đảm, FDA, cơ quan quản trị
dược phẩm và thực phẩm của Mỹ, đã có các yêu cầu căn bản mà cơ sở bào chế
thuốc generic cần phải tuân thủ như sau:
1. Phải sử dung các nguyên liệu như thuốc gốc
2. Phải có cùng công hiệu, liều lượng sử dụng và cách thức sử dụng như thuốc
gốc
3. Phải có cùng các qui định sử dụng như thuốc gốc
4. Phải được bào chế dưới qui trình sản xuất nghiêm ngặt GMP ( Good
Manufacturing Production )
Với các qui định sản xuất như vậy, FDA còn đòi hỏi thuốc generic cần phải
đạt được các tiêu chuẩn căn bản sau đây:
1. Có sức công hiệu như thuốc gốc
2. Có cùng tính chất, độ tinh khiết và công hiệu như thuốc gốc
3. Có cùng thời gian sử dụng công hiệu như thuốc gốc
4. Giá bán phải rẻ hơn thuóc gốc
5. Phải được sản xuất theo qui định GMP
6. Phải có hình thức bên ngoài khác với thuốc gốc ( vì hình thức bên ngoài
của thuốc gốc thường đã được cầu chứng nên không được làm giống hình thức
của thuốc gốc)
Tuy nhiên, như đã nói phía trên, ở cơ sở sản xuất dược phẩm ở mỗi nước đều
có sự khác biệt về cơ sở sản xuất, hệ thống thiết bị cũng như phẩm chất
nguyên liệu sử dụng, trình độ kỹ thuật công nhân viên, hệ thống quản trị sản
xuất, cho nên ở các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém khó
có thể sản xuất được thuốc generic đạt được các tiêu chuẩn trên của FDA,
ngoại trừ chịu sự quản trị chặt chẽ của một cơ sở Âu dược có kinh nghiệm
trên thế giới.
Vì vậy, do những khác biệt căn bản về sản xuất như đã ghi trên, người ta
thường nhận thấy độ tinh khiết cũng như sức công hiệu và thời gian sử dụng
công hiệu của thuốc generic thường có phần kém hơn thuốc gốc khi không phải
được sản xuất bởi cơ sở có sự quản trị của nhà thuốc gốc, và, hơn nữa, sức
công hiệu cũng như thời gian sử dụng công hiệu của một thuốc generic do nhà
sản xuất này khác với cùng loại thuốc generic của một nhà sản xuất khác.
Nhưng việc cho phép sản xuất thuốc generic, cũng như kiểm soát qui trình bào
chế, sản xuất và kiểm nghiệm thành phẩm là ở trách nhiệm của chính quyền sở
tại của mỗi nước. Cho nên, nếu chính quyền sở tại “ lơ là “ trong việc kiểm
soát qui trình sản xuất và kiểm nghiệm công hiệu sinh học, thì thành phẩm
ngoài việc khó có thể có được công hiệu sinh học tương đương với thuốc gốc,
mà còn có thể tạo sinh ra các phản ứng phụ như trong trường hợp có sự lẫn
lộn các nguyên liệu ngoài qui định, tác hại nguy hiểm đến người sử dụng..
Một mặt khác cần phải nói đến là gíá thành phẩm sản xuất của thuốc generic
là tùy thuộc chính yếu vào gíá nguyên liệu sử dụng, chi phí công nhân viên
và hệ thống quản trị, giá chiết khấu sử dụng cơ sở, thiết bị sản xuất và
nhiên liệu, điện nước, xử lý nước thải khi sản xuất; thuế khoá cao nên sự
sản xuất thuốc generic ở các nước Âu Mỹ sẽ phải chịu nhiều phí tổn cao hơn
rất nhiều so với việc sản xuất ở các nươc Á Phi hay Châu Mỹ La Tinh. Chính
vì lợi điểm này nên hiện nay đang có khuynh hướng sản xuất các loại thuốc
generic tại các nước Á Phi hay Châu Mỹ La Tinh, nhất là ở những nơi có nguồn
cung cấp các nguyên liệu thành phần hoạt tính của thuốc.
Như vậy, thuốc generic khi được sản xuất ở một số nước Á Phi hay Châu Mỹ La
tinh sẽ có lợi thế về gíá thành sản phẩm thấp, nhưng trường hợp cơ sở, thiết
bị yếu kém, nguyên liệu sử dụng không có phẩm lượng đúng qui định, trình độ
kỹ thuật của công nhân viên và trình độ quản trị sản xuất kém thì sức công
hiệu cũng như thời gian sử dụng công hiệu của thuốc generic được sản xuất có
thể sẽ bị yếu kém hơn thuốc generic được sản xuất tại các nước có trình độ
sản xuất Âu dược cao.
Vào năm 2008, FDA đã phải cho phát lệnh cấm nhập và bán trên 30 loại thuốc
generic sản xuất bởi một viện bào chế dược phẩm lớn nhất của Ấn Độ, sau khi
các chuyên viên của FDA khi đến kiểm soát tại chổ cơ sở sản xuất nhận thấy
có quá nhiều yếu kém trong việc sản xuất Âu dược, chẳng hạn ngoài những viêc
nhỏ như việc trang bị không phù hợp vệ sinh cho công nhân viên trong cơ
xưởng điều chế thuốc…., cho đến việc nghiêm trọng là bột thuốc từ một khu
vực bào chế loại thuốc này “ có thể bay qua đươc “ khu vực sản xuất của các
loại thuốc khác.
Hơn nữa FDA còn đã phát giàc các thành tích kiểm nghiệm công hiệu sinh học
ghi giả mạo trên các chứng từ của cơ sở sản xuất dược phẩm này khi nộp cho
FDA để xin nhập bán các thuốc generic vào thị trường Mỹ. Dù Ấn Độ đã có phản
bác Mỹ về các việc này nhưng sau đó có cho biết sẽ cải thiện.các khiếm
khuyết được đề cập trên.
Trong một bối cảnh như trên, việc kiểm nghiệm thuôc generic trước khi cho
nhập bán trên thị trường、nhất là thuốc generic được sản xuất tại các nước có
trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém, cần phải được thực thi một cách
nghiêm ngặt để bảo đảm sự sử dụng an toàn cho người dân..
Tuy nhiên, để thực hiện việc kiểm nghiệm này một cách qui mô và có hiệu quả,
chính quyền có thể sử dung các cơ sở kiểm nghiệm đang có hay phải đầu tư vào
cơ sở, thiết bị mới, huấn luyện công nhân viên, chưa nói đến việc các kết
quả kiểm nghiệm phải không bị chi phối bởi các áp lực bên ngoài và, trên
nguyên tắc, các cơ sở dược phẩm xin nhập bán vào thị trường nội địa các loại
thuốc generic này phải chi trả các phí tổn kiểm nghiệm dù chưa biết có được
phép nhập bán vào thị trường nội địa hay không.
VNP