Những bài cùng tác giả
Ai về nhắn với họ ngưồn
Mít non cho xuống cá chuồn cho lên.
Ca dao

Bệnh SIDA
(Syndrome d’ImmuniDeficiency Acquise, hay theo danh pháp Anh Mỹ AIDS,
Acquired Immmune Deficiency Syndrome) như tên gọi, là toàn bộ những bệnh lý
mà mẫu số chung là sự suy nhược hệ thống miễn dịch của con người. Do đấy, cơ
thể rất dễ bị mọi vi trùng phá phách, hoành hành. Từ những thập niên 80, 90,
trùng gây bệnh được tìm ra là một độc trùng hay virus mang tên VIH (Virus de
l’Immunodeficience Humaine hay HIV). Vài năm sau, người ta còn phân biệt
được hai thứ VIH1 và VIH2, con thứ nhất dễ bắt gặp
hơn. Cả hai đều là những trùng ghê gớm nhờ khả năng ngẫu biến dễ dàng khiến
chúng có phương tiện thay hình đổi dạng lanh chóng để lẫn tránh thuốc men.
Cơ chế truyền
nhiễm
Những trùng VIH
thuộc loại retrovirus, nghĩa là những virus sinh sản đâm chồi trên mặt tế
bào. Cấu tạo chúng là những ARN (Acide RiboNucléique hay RNA) bao quanh ở
ngoài một lớp glycoprotein gp (gp41 và gp120 ở VIH1). Những gp
nầy đóng một vai trò cốt yếu trong việc truyền nhiễm. Khi VIH xâm nhập cơ
thể sinh vật, nó đặc biệt tấn công vào những lymphocyt T4, tức là những bạch
huyết bào chủ chốt trong cuộc bảo vệ chống nguyên lực nhiễm bệnh. Trên mặt
hưyết bào có một lớp protein gọi là CD4. Công việc đầu tiên của VIH là cho
gắn liến gp của mình vào CD4 (hay CD26) của huyết bào qua sự hỗ trợ của một
dư phân tử như phân tử fusin hay cơ quan nhận cảm CCR5 để cho nó lọt được
vào lòng huyết bào. Bệnh tình càng tiến thì số lượng bạch huyết bào T4 càng
sụt. Thường trong máu người có khoảng 1000 T4 mỗi mililit. Khi số lượng nầy
sụt xuống dưới 200 thì cơ thể hết còn chống lại được các vi trùng gây bệnh,
ngay cả những loại thường được cho là yếu ớt.
Đột nhập được
vào lòng huyết bào rồi thì VIH tổ chức chuyện sinh sôi nảy nở. Bản chất di
truyền của nó là ARN như đã thấy, nhưng bộ máy tế bào của huyết cầu không
biết trực tiếp chế biến ARN. Nó sử dụng một giếu tố có sẵn trong cơ thể
người là ETI (Enzym Transcriptase Inverse) để cho tế bào thực hiện công việc
sản xuất các trùng con. Ngày nay, kinh nghiệm lâm sàng cho biết chứng bệnh
SIDA diễn biến theo 4 giai đoạn :
- Trong giai
đoạn thứ nhất, thời kỳ sơ nhiễm (từ 3 tuần đến 3 tháng), tức là đợt tấn công
của VIH tương đương với một hoạt động virus tuy khá quan trọng mà ít có
triệu chứng rõ rệt. Thỉnh thoảng thấy bệnh nhân lên cơn sốt trong khoảng 1
tháng, trong mình khó chịu, chán ăn, nhức đầu, đau xương, bắp thịt rã rời,
mụt mọc đầy da. Bệnh tương đối nặng hơn trong các trường hợp nầy. Tuy nhiên,
những thử nghiệm dò tìm ít đem lại kết quả vì mục đích là tìm kiếm kháng thể
do cuộc phòng thủ miễn dịch phát ra nhưng chúng đang còn quá ít.
- Qua giai đoạn
thứ nhì, lúc huyết bào chế biến trùng con là lúc cuộc phòng thủ miễn dịch
hoạt động mãnh liệt, cũng là lúc huyết bào mới được sản xuất tối đa để bù
lại các huyết bào bị hư hỏng. Mỗi ngày khoảng chừng 1 tỷ trùng con và tế bào
đuợc chế biến và phá huỷ. Khả năng phòng thủ miễn dịch sụt dần xuống. Tuy là
một giai đoạn kéo khá dài, trung bình 1 năm, vẫn ít thấy có tín hiệu huyết
thanh dương tính phát hiện nên gọi là thời kỳ vô triệu chứng.
- Giai đoạn thứ
ba, dài khoảng 2 năm, tức là thời kỳ tiền SIDA, tương đương với hội chứng u
hạch bạch huyết dai dẳng. Những hạch phồng lên, trung bình 30 tháng sau khi
bệnh bộc khởi.
- Khi cuộc phòng
thủ miễn dịch hết còn hữu hiệu, số bạch huyết bào T4 sụt xuống dưới 200 mỗi
mililit, bệnh nhân bước qua giai đoạn thứ tư tức là giai đoạn cuối cùng,
thời kỳ SIDA công khai. Vào lúc nầy, mọi vi khuẩn, vi trùng gây bệnh, tế bào
ung thư,… đua nhau nảy nở, dần đưa bệnh nhân
vào tay tử thần.
Phòng ngừa
chống chỏi
Bên lề cuộc tìm
kiếm khó khăn một vaccin để vô hiệu hóa virus, việc bài trừ SIDA hiện nay
dựa lên khoa liệu pháp hóa học, dùng hóa chất ngăn chận trùng VIH xâm nhập
bạch huyết bào hay chế biến trùng con. Biết chắc VIH phải vào cho được lòng
huyết bào, những công tác khảo cứu đầu tiên tìm kiếm cách phá hủy tác động
giữa gp120 vỏ trùng và protein CD4 huyết bào. CD4 là một phân tử không hoà
tan. Qua nhiều phản ứng hóa học, người ta có thể chế biến nó thành hoà tan,
đem pha loãng rồi dùng dung dịch che chở huyết bào. Kết quả rõ ràng tích cực
nhưng lâu ngày có những phản ứng phụ không tốt. Nhiều khảo cứu viên muốn
xoay qua dùng những bạch huyết bào T4 tương ứng với vùng tác động của virus,
tương đối dễ chế tạo hơn và cũng ít phản ứng phụ hơn. Mặt khác, những hóa
chất có điện tích âm như loại polyanionic (những polysulfat như heparin,
dextran sulfat, pentosan polysulphat, mannan sulfat, curdlan sulfat,
polyvinylic alcool sulfat, những polycarboxylat như aurin tricarboxylic acid
) cũng làm cản trở không ít tác động giữa VIH và T4. Trong lãnh vực nầy,
những polymer sulfat cũng tỏ ra rất hiệu nghiệm và nhiều phòng thí nghiệm
đang đầu tư vào cuộc chế tạo các sulfat nầy.
Không ngăn ngừa
được trùng SIDA đột nhập huyết bào thì phải kiếm cách đừng cho nó phát triển
trong ấy. Trong lúc chờ đợi một vaccin nan giải, người ta đã nghĩ cách ghép
vào huyết bào một gen mới để nó tự chống lại virus. Hiện giờ, mục tiêu dễ
thấy là enzym ETI đã biến hoá ARN của trùng ra ADN. Những chất ức chế ETI
được dùng trước nhất là những 2’,3’-didesoxynucleosid : hãng Wellcome cho ra
AZT (3’-azido-2’,3’-didesoxythymidin), hãng Hoffmann-Laroche thực hiện DDC
(2’,3’-dideoxycytidin), hãng Bristol-Meyers Squibb chế tạo DDI, hãng Glaxo
phát hành 3TC,… Tác dụng ức chế các thuốc nầy là hoặc giành chỗ ARN hoặc sát
nhập vào các ADN đang thành hình. Có điều ETI cũng là enzym tổng hợp ADN cho
người, phá phách nó tất nhiên có hại cho cơ thể. Đằng khác, VIH lại có khả
năng ngẫu biến để thích nghi với những điều kiện của môi trường mới lại làm
cho cuộc điều trị rắc rối hơn. Những chất như acyclic phosphonat nucleosid
PMEA, rất ổn định trong tế bào, có tác dụng lâu dài, dẫn xuất FPMPA của nó
cũng có tác dụng đáng kể nhưng đều mắc phải nhược điểm nói trên. Trước những
khó khăn đó, cần phải tìm cho ra nhũng chất ức chế đặc thù. Từ 1989, ra đời
những chất acyclouridin HEPT (Mitsubishi Kasei Corporation), benzodiazepin
TIBO (Janssen-Johnson và Johnson) và, một vài năm sau, những phân tử thuộc
các loại dipyridodiazepinon (Boehringer Ingelheim), pyridinon (Merk, Sherp
và Dohme), bis-heteroaryl piperazin (Upjohn) đặc biệt chỉ phá hoại ETI phục
vụ VIH mà không đả động đến các enzym ADN polymerase khác của cơ thể.
Vài năm trước
đây, một chiến lược mới bài trừ VIH đã được thực hiện và kết quả rất khả
quan. Thay vì chỉ dùng một chất thuốc độc nhất, người ta áp dụng cùng một
lúc nhiều chất, trừ khử luôn một lần nhiều dạng của trùng đang ngẫu biến.
Lúc đầu, từng cặp đôi thuốc đã đuợc kết hợp : AZT và DDC, AZT và DDI, AZT và
3T. Những cặp đôi nầy rõ ràng có hiệu lực hơn khi thuốc được dùng một mình.
Sau đó, kết quả thật mỹ mãn khi các cặp thuốc kia được kết hợp thêm với một
trong những thuốc mới như Saquinavir (Roche), Ritonavir (Abbott), Indinavir
(Merck), ngay cả lúc số bạch huyết bào T4 của bệnh nhân sụt xuống gần 200
mỗi mililit máu. Các chuyên gia tiên đoán sẽ rồi còn đuợc hoàn thiện hơn nếu
các bệnh nhân được dùng thuốc ngay từ giai đoạn thứ nhất, nhất là khi bắt
đầu thấy có triệu chứng. Hơn nữa, họ còn đề nghị đồng thời với 3 cặp thuốc
kia, nên điều trị bệnh nhân thêm với những thuốc phục chế hệ miễn dịch,
thuốc chống oxi hóa để tránh xung động và thuốc kháng sinh phổ rộng để giảm
hạ hiệu ứng các du nhân tử sinh bệnh. Những nguồn tin mới nhất cho biết giữa
năm 2008 sẽ có bán ở 27 nước Âu châu viên thuốc hồng Atripla đã được Cơ quan
Y tế Thế giới OMS chuẩn y và Cơ quan Lương thực Hoa Kỳ FDA công nhận từ
2006. Viên thuốc nầy là một hỗn hợp ba thuốc Efavirenz, Emtricitabine và
Tenofovir, đã đuợc bán riêng rẻ từ nhiếu năm nay qua ba hảng Bristol-Myers
Squibb, Gilead Sciences và Merck. Cả ba đều là những chức ức chế giếu tố
transcriptase inverse là một enzym ngăn cản virus sinh sản trong tế bào
nhưng tác động khác nhau nên cuộc liên hợp hy vọng sẽ đem lại hiệu lực tối
cao trong một áp dụng sinh vật hóa học cực kỳ phức tạp. Cũng nên biết thêm
là thuốc sẽ bán với giá rất rẻ ở các nước đệ tam thế giới.
Lectin hột
mít
Tìm ra được lúc
đầu trong thảo mộc (thân, rễ, lá, củ), về sau cả trong nấm, vi khuẩn, động
vật hạ cấp (như ốc, sên) hay động vật có xương sống (như gà, chuột, lươn),
lectin là những protein có khả năng tác động với sacccharid để gây ra sự
ngưng kết các tế bào động vật. Sau nhiều tên : agglutinin, hemaglutinin,
phytohemaglutinin, cuối cùng nó được gọi lectin (từ động từ La Tinh legere
có nghĩa chọn lựa) vì nó có khả năng phân biệt các loại máu. Lectin đầu tiên
được khám phá ra là ricin (từ hột thầu dầu) năm 1888, rất độc vì làm ngưng
kết các hồng huyết bào. Ricin và sau nầy một chất tương tự, albrin (từ hột
cam thảo dây) đã được dùng để chứng minh nhiều nguyên tắc căn bản trong
ngành huyết học. Concanavalin, lectin đầu tiên chiết xuất ròng sạch từ một
loại đậu năm 1916, lại có tính chất làm kết tủa huyết bào vì nó ngưng kết
với glycogen, những carbohydrat, tức là đường tích trử trong cơ thể. Người
ta còn biết cứ cho thêm đường như glucose thì tránh được huyết bào bị
concanavalin kết tủa, vì concanavalin liên kết với glucose dễ hơn với đường
trong huyết bào. Dần dần, các lectin trở thành những dụng cụ quý báu để khảo
sát những thay đổi ở mặt ngoài tế bào trong thời gian ung thư hoá đồng thời
cho phát triển những tính chất đặc thù của những tế bào u khối.
Lectin phát xuất
từ hột mít (tiếng Pháp : jacque hay jaque, tiếng Anh : jackfruit) mang tên
jacalin (hay jacali, jacalon, jacaline, jacalini, jacalino, jacalinon,… tùy
theo nước). Nó được chiết xuất với một dung dịch đệm phosphat rồi phân đoạn
protein qua sắc ký ái lực hay sắc phân lỏng cao áp. Người ta làm tinh khiết
nó trên một cột N-acetyl-D-galactosamin, Sepharoche, Sephadex hay G100.
Jacalin tinh thể trụ góc đứng hệ thoi xem xét cặn kẽ cho thấy một dạng
tetramer. Gần đây, từ A. integrifolia đã được phát giác một dạng
tetramer có cấu tạo tương tự gọi là artocarpin, ít được học hỏi (24).
Gần đây, jacalin đã được khảo sát vế mặt cấu tạo tinh thể (25) và
qua tia X (26). Mít thường được dùng để khảo cứu thuộc loại
Artocarpus heterophyllus Lamk. hay A. integrifolia Linn., A.
integer Mer., có khi A. integre, A. incisa, A. communis, A.
lingnamensis, A. champeden, A. tonkinensis, A. hirsuta, A. hypargyreus, A.
altilis, A. lakoocha cùng một số mít hoang dại ở Việt Nam thuộc họ Dâu
tằm Moraceae. Jacalin là một glycoprotein mang 4 polypeptid, chứa 3%
carbohydrat mà cấu tạo đã được phân tích. Lớn chừng 50kDa, nó gồm có một dãy
alfa liên kết 133 amin acid bất cộng hóa, một dãy 15kDa mang glycogen, một
dãy 12kDa không mang glycogen và một dãy bêta
ngắn với 20 mảnh. Dãy nầy có một trọng lượng phân tử 2090, tương đối nhỏ
so với dãy kia, 16.200. Hai dãy 15kDa và 12kDa có thành phần amin acid tương
tự . Đem phân giải protein với Staphyloccocus areus proteinase
thì chúng hiến thêm một peptid nhỏ hơn 4kDa. Phần chiết thô còn chứa những
polypeptid khác.
Hai dãy bêta và
15kDa đã được phân tích qua sác phân lỏng cao áp và dãy 17kDa qua phương
pháp điện chuyển. Dãy bêta trong 3 loại A. integrifolia , A. champeden
và A. tonkinensis có phần khác nhau, đặc biệt jacalin của A.
champenden có hai dãy bêta (17) Nghiên cứu trên 2 loại mít
hoang ở Việt Nam, các tác giả tìm ra một dãy alfa thứ nhì ở jacalin A.
asparulus và một dãy bêta thứ nhì ở jacalin của A. masticata
(20). Ngoài ra, một số mít khác mọc ở Việt Nam như A.
heterophyllus, A. malinoxylus, A. parva, A. petelotii cũng đã được khảo
cứu và cho thấy các loại mít không có cấu tạo hoàn toàn giống nhau (20).
Một cuộc nghiên cứu cấy mô jacalin cDNA (isolectin) phát hiện những chuỗi
amin acid đã được tổng hợp qua một prepropeptid với cấu tạo : N-tín hiệu (21
mảnh) - propeptid (39 mảnh) - bêta peptid (20 mảnh) – vùng liên kết (4 mảnh)
– alfa peptid (133 mảnh). Cũng như agglutinin của một loại dâu cam
Maclura pomifera, ngoài O-glycan và N-acetylgalactosamin, jacalin có ái
lực với methyl D-galactosid chứ không phải galactose ở thể tự do cũng như
có khả năng ngưng kết với tinh dịch của người và chuột.
Những công tác
khảo cứu nhiệt động học về liên quan của các diosid cho thấy jacalin tác
động ưu tiên với GalD(1-3)DGalNAc, một disaccharid thường có trong các
glycoprotein. Từ 20 năm nay, người ta biết jacalin phản ứng với dãy
carbohydrat alkali bền hay ít bền loại galactosyl acetyl galactosamin thuộc
nhóm Thomson-Friendenreich (22). Tính chất jacalin làm kết tủa
các glycoprotein IgA, IgD được chứng minh (2,3). Hơn nữa, IgA lại
được chỉ định là IgA1. Mặt khác, jacalin còn ngưng kết ít nhiều với cả IgA2
(4,6), IgM (4,5), IgG (19), IgE (4),
hiện tượng phần nào mâu thuẩn với vài công tác khác. Người ta suy đoán những
tính chất liên kết khác nhau với Ig (9) vì phương cách chiết xuất
không hoàn toàn giống nhau, từ những cây mít không mọc cùng vùng đất, xa
nhau hàng nghìn dặm (từ Brazyl qua Philippines, từ La Réunion qua Okinawa,
từ Hawai qua Ấn Độ). Ngay cả tên cây mít cũng có khi lẫn lộn (11).
Ứng dụng
jacalin
Ngoài tính chất
kết tủa các immunoglobulin, lectin còn có khả năng ngưng kết nhiều loại tế
bào như hồng huyết cầu erythrocyt, bạch huyết cầu leucocyt, u khối, vi khuẩn
virus. Riêng jacalin có một tác động đặc biệt với những chất đuờng, những
O-glycan (28) . Nó
đã trở thành một dụng cụ cần yếu trong ngành
huyết học (1,2,11) nhờ tính chất giáng phân các bạch huyết bào.
Nó được chứng minh đã kích thích những chức năng các tế bào T và B con
người, đặc biệt kích thích bạch huyết bào T phát tiết immunoglobulin. Người
ta dùng nó để chiết xuất IgA, IgA1, ước tính số lượng IgA1, phân tách IgA1
và IgA2 (23), loại bỏ IgG trong cuộc chế biến gamma globulin, làm
ròng polysaccharid (29), dò tìm galactoglucomannan trong thực phẩm, phát
sinh sản xuất gamma interferon trong bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi và trong
môi cấy lymphocyt T con người, khảo cứu liên quan protein-carbohydrat trong
thời gian di chuyển bạch cầu trung tính, khảo cứu các loại ung thư lành tính
cũng như ác tính. Ngoài ra, quan trọng nhất là tính chất gián phân của
jacalin chính xác lên màng bạch huyết bào CD4 T (11,13). Nó kích
thích sự phospho hóa những enzym ERK và JNK trong huyết bào nầy (27).
Tính chất rất quan trọng khi ta biết có một tương quan rõ rệt giữa số lượng
tế bào T của màng CD4 và tiến triển của chứng bệnh SIDA.
Một cuộc hợp tác
giữa 12 khảo cứu viên đủ ngành ở nhiều trường Đại học, viện Sinh học, trường
Y khoa, bệnh viện ở Pháp và Hoa Kỳ đã đi sâu vào việc dùng jacalin ức chế
VIH (16). Đặc biệt Ts Nathalie Pineau là một kỹ sư khảo cứu về dị
ứng trên da ở công ty Oreal. Trong phòng thí nghiệm, in vitro, các
tác giả nhận thấy jacalin rõ ràng ức chế cuộc nhiễm trùng của VIH1 lên những
bạch huyết bào con người, đặc biệt các tế bào đơn nhân máu ngoại vi và các
tuyến tủy bào bạch cầu đơn nhân to. Như trên đã thấy, khi VIH lọt vào máu,
màng gp120 vỏ trùng tác động với protein CD4 bạch huyết bào. Jacalin làm
giảm hạ tác động ấy nhưng không phải vì đã thay thế CD4 liên kết với gp120.
Jacalin tác động với bạch huyết bào T và rất có thể đã phá VIH qua cuộc liên
kết với các phân tử màng tế bào, nhất là CD4. Mặt khác, các tác giả còn tìm
ra trong jacalin một dãy alfa gồm có 14 amin acid giống hệt một khúc trong
gp120. Một peptid nhân tạo tổng hợp tương đương với dãy alfa nầy cũng có khả
năng ức chế VIH, in vitro (14).
Nước ta có ít
nhất một chục loại mít trong số khoảng 50 loại trên thế giới. Lectin và
jacalin đã được khảo cứu ở các trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Tp Hồ Chí
Minh. Vài năm trước đây đã thấy phát hành một bản lectin chiết xuất từ mít,
muồng, chay, sen, mướp đắng, dâu tằm, sam, ốc, trạch, diệp ngọc (Gs Nguyễn
Quốc Khang). Ngoài ra, nhiều tên khảo cứu viên Việt Nam đã thấy ký trong các
bản báo cáo sau một thời gian thực tập ở Pháp : B.P. Thuân, lectin sam
Tachypleus tridentatus (7) ; Nguyễn Quốc Khang, jacalin chay
A. tonkinensis (8), muồng Crotalaria striata
(12); Đỗ Ngọc Liên, jacalin chay A. tonkinensis, mít dại A.
integrifolia, mít tố nữ A. champeden (15,17), A.
asperulus, A. masticata (18), A. heterophyllus, A.
melinoxylus, A. parva, A. petelotii (20). Các jacalin nầy đều
có tính chất gián phân bạch huyết cầu và kích thích mỗi thứ một khác cuộc
tăng sinh các tế bào đơn nhân máu ngoại vi. Rõ ràng, Việt Nam không thiếu
tay nghề cũng như nguyên liệu.
Tôi nhớ hồi còn
nhỏ, mỗi lần nghỉ học về quê là thích ra vườn tìm mít chín. Mùi mít ngon
ngọt, khẩu vị khác nhau tùy loại mít ráo, mít ướt, mít mật, mít gai, hột mít
nấu chín cũng béo bở lại ngạt ngào hương thơm khi đem nướng. Sau nầy ở
Paris, ở cửa trước vườn Luxembourg, những hôm vào thu trời lành lạnh, mua
nắm trong tay những hột dẻ vừa mới nướng nóng bỏng, tôi lại tưởng nhớ đến
những hột mít mạ tôi nướng trên lò than thơm phức thời xưa, trong lòng mang
máng một chuyện cổ tích đã được Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc kể trong sách.
Có người cháu gái đến thăm nhà cô, lại thích ăn mít vườn cô. Người cô không
muốn cho ăn mít, bảo nấu cơm cho cháu ăn. Người cháu biết ý, lanh miệng
"Thôi cô ạ, đừng cơm cơm mít mít chi nữa cho nó phiền" thay vì cơm cơm nước
nước. Bất đắc dĩ, cô phải ra vườn hái mít cho cháu nhưng cô chọn một trái
vừa nhỏ, vừa sâu, đem bổ cho cháu ăn. Tuy khó nuốt trôi miệng, người cháu
cũng khéo miệng "Có gì mà cô ! Có lô gốc mít !". Câu nầy trở thành tục ngữ
giễu bà cô keo kiệt. Cả người cháu lẫn bà cô không dè hột mít có khả năng
cống hiến chất thuốc chữa trị chứng bệnh hiểm nghèo nhất vào những thế kỷ
20,21 nầy.
Thông tin Khoa học và Công nghệ (3) (1997)
18-29 có bổ túc

Mít miền Nam

Mít miền Trung
Tham khảo
- Encyclopaedia Universalis 10, 266 ;
13, 561 ; 19, 977 ; 20, 1034
- La Recherche 241 (1992) 288 ;
261 (1994) 90 ; 268 (1994) 946 ; 291 (1996) 30
- Le Nouvel Observateur 2265 (3-9
tháng 4 năm 2008) 126
1- P.S. Appukuttan, D. Basu,
Four identical subnits in jack fruit seed agglutinin offer only two
saccharide binding sites, FEBS Let.r (2)180 (1985) 331-4
2- M.C. Roque-Barreira, A.
Campos-Neto, Jacalin : an IgA-binding lectin, J. Immunol. (3)134
(1985) 1740-3
3- P. Aucouturier, E. Mihaesco,
C. Mihaesco, J.L. Preud’homme, Characterization of jacalin, the human IgA
and IgD binding lectin from jackfruit, Mol. Immunol. (5)24
(1987) 503-11
4- H. Kondoh, K. Kobayashi, H.
Hagiwara, A simple procedure for the isolation of human secretory IgA of
IgA1 and IgA2 subclass by a jackfruit lectin, jacalin, affinity
chromatography, Mol. Immunol. (11)24 (1987) 1219-22
5- H. Hagiwara, D.
Collet-Cassart, K. Kobayashi, J.P. Vaerman, Jacalin : isolation,
caracterization, and influence of various factors on its interaction with
human IgA1, as assessed by precipitation and latex agglutination,
Mol. Immunol. (1)25 (1988) 69-83
6- P. Aucouturier, F. Duarte,
E. Mihaescao, N. Pineau, J.L. Preud’homme, Jacalin, the human IgA1 and
IgD precipitation lectin, also binds IgA2 of both allotypes, J.
Immunol. Methods (2)113 (1988) 185-91
7- B.P. Thuan, A.D. Strosberg,
J.Hoebeke, Purification and structural properties of the lectins from
Tachypleus tridentatus, Lectins-Biol. Biochem, Clin. Biochem. (6)
(1988) 405-10
8- N.Q. Khang, A.D. Strosberg,
J. Hoebeke, Purification and characterization of the Artocarpus
tonkinensis lectin, Lectins-Biol. Biochem., Clin. Biochem.
(6) (1988) 341-8
9- K. Kobayashi, H. Kondoh, K.
Hagiwara, J.P. Vaerman, Jacalin : chaos in its immmunoglobulin-binding
specificity, Mol. Immunol. (10)25 (1988) 1037-8
10- N. Pineau, J.C. Brugier,
J.P. Breux, B. Becq-Giraudon, J.M. Descamps, P. Aucouturier, J.L.
Preud’homme, Stimulation of peripheral blood lymphocytes of HIV infected
patients by jacalin, a lectin mitogenic for human CD4+ lymphocytes,
AIDS 3 (1989) 659-63
11- P. Aucouturier, N. Pineau,
J.C. Brugier, E. Mihaesco, F. Duarte, F. Skvaril, J.L. Prud’homme,
Jacalin : a new labaratiry tool in immunochemistry and cellular immunology,
J. Clin. Labor. Anal. (4)3 (1989) 244-51
12- N.Q. Khang, J.L. Guillaume,
J. Hoebeke, A blood group A specific lectin from the seed of Crotalaria
striata, Biochem. Biophys. Acta 1033 (1990) 210-1
13- N. Pineau, P. Aucouturier,
J.C. Brugier, J.L. Preud’homme, Jacalin : a lectin mitogenic for human
CD4 T lymphocytes, Clin. Exp. Immmunol. 80 (1990) 420-5
14- J. Favero, J. Dornand, P.
Corbeau, C. Devaux, M. Nicolas, J.P. Liautard, Medicinal use of jacalin
and fragments thereof in particular for treating HIV virus-related diseases,
PCT Int. Appl. WO 92 22,574 (1992) 27 tr.
15- D.N. Lien, I.M. Cesari, I.
Bouty, D. Bout, J. Hoebeke, Immunocapture assay for quantification of
human IgA antibodies to parasite antigenic enzymes. Application with the
alkaline phosphatase of Shistosoma mansoni, J. Immunoassay (4)13
(1992) 521-36
16- J. Favero, P. Corbeau, M.
Nicolas, M. Benkirane, G. Travé, J.F.P. Dixon, P. Aucouturier, S. Rasheed ;
J.W. Parker, J.P. Liautard, C. Devaux, J. Dornand, Inhibition of human
immunodefiency virus infection by the lectin jacalin and by a derived
peptide showing a sequence similarly with gp120, Eur. J. Immunol.
23 (1993) 179-85
17- D.N. Lien, M. Brillard, J.
Hoebeke, The
a-
and b-subnits
of the jacalins are cleavage products from a 17-kDa precursor,
Biochem. Biophs. Acta
1156
(1993) 219-22
18- D.N. Lien, M. Brillard, J.
Hoebeke, P. Aucouturier, A new
a
chain of jacalin from jack-fruit seeds of two wild species,
C.R. Acad. Sci.III (2)318 (1995) 167-72
19- Y. Wu, D. Zhou, Research
on Artocarpus lingnanensis binding proteins of human serum or colostrum,
Miannyixue Zazhi (4)11 (1995) 235-7
20- F. Blasco, D. N. Lien, P.
Aucouturier, J.L. Preud’homme, A. Barra, Mitogenic activity of new
lectins from seeds of wild Artocarpus species from Vietnam, C.R.
Acad. Sci.III 319 (1996) 405-9
21- S. Suresh, P. Rani, P.
Geetha, J. Pratap, J. Venkatesh, R. Sankaranarayanan, A. Surolia, M.
Vijayan, Homology between jacalin and artocarpin from jackfruit
(Artocarpus integrifolia) seeds. Partial sequence and preliminary
crystallographic studies of artocarpin, Acta Cryst.D Biol. Cryst.
(4)D53 (1997) 469-71
22- S. Kabir, Jacalin : a
jackfruit (Artocarpus heterophyllus) seed-derivated lectin of versatile
applications in immunobiological research, J. Immunol. Methods
(2)212 (1998) 193-211
23- A.M. Kerr, L.M. Loomes,
B.C. Bonner, A.M. Hutchings, B.W. Bernard, Purification and
characterization of human serum secretory IgA1 and IgA2 using jacalin,
Methods Mol. Med. 9 (1998) 265-78
24- J.V. Pratap, A.A.
Jeyaprakash, P.G. Rani, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Crystal
structures of artocarpin, a Moraceae lectin with mannose specificity, and
its complex with methy-a-D-mannose :
implications to the generation of carbohydrate specificity,
J. Mol. Biol.
(2)317 (2002) 237-47
25- A.A. Jeyaprakash, P.G. Rani, G.B. Reddy,
S. Banumathi, C. Betzel, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Crystal
structure of the jacalin-T-antigen complex and a comparative study of
lectin-T-antigen compexes, J. Mol. Biol. (4) 321 (2002)
467-45
26- A.A. Jeyaprakash, S.
Katiyar, C.P. Swaminathan, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Structural
basis of the carbohydrate specificities of jacalin : an X-ray and medeling
study, J. Mol. Biol.
(1) 332 (2003) 217-28
27- S.M. Lakshmi Tamma, V.S. Kalyanaraman,
S. Pahwa, P. Dominguez, R.R. Modesto, The lectin jacalin induces
phosphorylation of ERK and JNK in CD4+T cells, J. Leucocyte Biol.73
(2003) 682-8
28- A.A. Jeyaprakash, G.
jayashree, S.K. Mahanta, C.P. Swaminathan, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan,
Structural basis for the energetics of jacalin-sugar interactions :
promiscuity versus specificity, J. Mol.
Biol.
(1) 347 (2005) 181-8
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Võ Quang Yến
|