Tên gọi
Bệnh tả xuất hiện từ xa xưa tại nhiều
nơi trên thế giới, nhất là tại vùng châu thổ sông Hằng (Ấn
độ ). Bệnh tả đã gây nhiều nỗi sợ hãi cho người Ấn với những vụ
dịch thuờng xuyên xảy ra làm nhiều người chết đến mức độ tại thành phố
Kolkata, có một ngôi đền Ola Beebe được xây để thờ vị nữ thần tiêu
chảy nhằm xin phù hộ cho nhân dân trong vùng khỏi mắc bệnh.
Theo cổ văn Sanskrit, thì từ những
năm 500 đến năm 400 trước Công nguyên, đã có những mô tả về một
bệnh giống như bệnh tả xảy ra tại Sushruta Samshita ( Ấn
độ). Các tài liệu lịch sử trước đây 2000 năm viết bằng chữ Hi lạp
và Sanskrit đều có nhắc tới những bệnh tương tự như bệnh tả.
Như vậy, rõ ràng bệnh tả đã xảy ra rất lâu trước năm 1817, năm có
báo cáo về đại dịch. Tuy nhiên, như đã nêu, bệnh tả đã tồn tại tại
tiểu lục địa Ấn độ nhiều năm trước khi người Âu có mặt. Theo
lời Gaspar Correa, sĩ quan của Vasco da Gama tham gia đổ bộ lên
vùng Malabar thuộc bờ biển tây nam của Ấn độ, cho biết vào năm
1503 có đến 20.000 người tại Calicut chết vì 1 chứng
bệnh xảy ra đột ngột trong bụng, có người chết nhanh sau khi khi mắc
được 8 giờ ".
Từ thế kỷ 18 đến nay, nhân loại đã
trải qua 8 đại dịch với qui mô số người mắc, số vùng, số nước mắc nhiều
hơn, và tốc độ lây lan cũng nhanh hơn. Trận dịch thứ 7 - do typ
sinh học El Tor - bắt đầu tại Indonesia vào năm 1961 và sau đó lan
ra khắp châu Á, thay thế cho typ cổ điển là chủng lưu hành tại vùng này.
Từ năm đầu của thập niên 1970, dịch tả do El Tor đã bùng phát tại châu
Phi, gây nên một số vụ dịch lớn trước khi trở thành bệnh lưu hành
tại châu lục này.
Hiện nay, >90% các trường hợp tả
hàng năm báo cáo cho WHO đều phát xuất từ châu Phi. Trong giai đoạn
2000-2004, số ca tả báo cáo hàng năm xấp xỉ 100.000. Dĩ nhiên con
số này thấp hơn nhiều so với thực tế, vì có nhiều nước không tham
gia báo cáo.
Tuy Việt nam nằm trong vùng lưu hành
nhưng qua nhiều năm bệnh tả không xuất hiện. Năm 2007, nhiều trường hợp
tiêu chảy đã được báo cáo tại các tỉnh miền bắc, nhất là khu vực quanh
thành phố Hà nội. Do tính chất lây lan nhanh và nguy hiểm
cho nên một khi đã xác định được ít nhất có một trường hợp bệnh nhân bị
tiêu chảy cấp do tả, thì đợt dịch đó cần phải định danh là dịch tả và
tất cả mọi bệnh nhân có triệu chứng tiêu chảy cấp nằm trong vùng địa dư
có dịch phải được xử trí như tả.Tuy nhiên, thay vì gọi thẳng là dịch tả,
thì ngành y tế Việt nam đã sử dụng cụm từ "dịch tiêu chảy cấp
nguy hiểm (TCCNH) trong đó có nguyên nhân từ phẩy khuẩn tả và trong
nhiều tuần đã ồn ào kết tội mắm tôm chính là thủ phạm gây ra dịch
tả .
Năm nay 2009, dịch tả lại xuất hiện tại
các tỉnh phía bắc. Lần này, tuy trên báo chí dịch tả được gọi đúng
tên ngắn gọn, nhưng lại có 1 phát hiện mới là thịt chó tham gia vào quá
trình lây lan dịch tả, vì trong ruột của chó bị giết tại các quán
thịt cầy tìm thấy Vibrio cholerae.
Từ những thực tế này tưởng cũng nêu lại
vài kiến thức liên quan đến 1 bệnh truyền nhiễm đã đồng hành với nếp ăn
ở của con người từ hồi " xưa như quả đất ".
Trước hết về tên gọi. Không biết vì phải
chịu ảnh hưởng của cách định danh bệnh tả của Việt nam hay không
mà từ xa xưa, từ nguyên của bệnh tả cũng có phần rối rắm. Bệnh tả
theo tiếng Anh là cholera, tiếng Pháp choléra. Từ nguyên
của tiếng Anh, và tiếng Pháp đều bắt nguồn từ tiếng latin là cholera,
đi từ gốc Hy lạp kholera Từ kholera có gốc là kholē.
Kholē có 2 nghĩa, " mật ", trạng thái buồn
chán, hoặc " máng xối.
P. Raufman, trong một bài viết
đăng trên tạp chí Am J Med, cho rằng cholera đi từ
nghĩa là cái máng xối khi so sánh với tình trạng
tiêu chảy xối xả của người bị tả cũng giống lượng nước chảy ồ ạt
qua máng xối khi trời mưa ( Am J Med. 1997;104). D. Barua
chẳng hạn cho rằng trong tiếng Hi lạp, từ cholera có nghĩa là dòng
chảy của mật phát xuất từ 2 từ gốc : chole ( nghĩa là
mật ) và rein ( dòng chảy ). Và chính Thomas Sydenham là người đầu tiên
phân biệt giữa cholera là bệnh với cholera là 1 trạng thái
giận dữ và đưa ra từ cholera morbus tức là tiêu chảy nặng
( trích lại trong Mandell, Douglas, and Bennett’s Principles and
Practice of Infectious Diseases, 5th Edition, ).
Vi khuẩn học
Tác nhân gây bệnh tả là Vibrio
cholerae, thuộc chi Vibrio, là vi khuẩn gram âm, có 1 tua dài ở phần
đuôi để di chuyển trong môi trường, vốn sống tại các vùng cửa
sông, đầm lầy và vùng ven biển nước lợ.
Do đặc điểm Vibro cholera cần
có môi trường mặn để phát triển, cho nên các nhà vi trùng
học nghĩ rằng chúng có nguồn gốc từ dưới đáy đại dương. Các
nghiên cứu về cấu trúc bộ gene cũng bổ sung ý kiến này. Năm
1999, 2 tàu ngầm nghiên cứu khoa học Alvin và Nautile
đã lấy mẫu nước từ miệng núi lửa thuộc
dãy ngầm Đông Thái bình dương, và chứng minh những loài Vibrio lấy
được từ đây rất giống với Vibrio cholerae, và
cho rằng là loài này vốn cư trú tại vùng biển sâu.

Vibrio cholerae, là 1 vi khuẩn
gram âm, không xâm nhập, được phân loại căn cứ trên KN O ở phần
thân thành các serovars hoặc serogroup và đến nay
người ta biết có ít nhất 200 serogroups.

Trước năm 1992, nhóm O 1 là serogroup
duy nhất gây ra dịch. Các chủng thuộc serogroup O 1
được chia ra làm 2 biotyp, là typ cổ điển và typ El Tor dựa theo sự phân
biệt các kiểu hình và gần đây bằng các marker di truyền. Có
đến 7 đại dịch đã xảy ra,và có bằng chứng chắc chắn là ít nhất
đại dịch thứ 5 và thứ 6 là do các chủng thuộc nhóm O 1 cổ
điển. Đại dịch thứ 7 hiện nay là do biotyp El Tor. Năm 1992, một
serogroup khác, là O 139 gây ra các vụ bùng phát tại Ấn độ và
Bangladesh (Ramamurthy et al., 1993). Hiện thời, 2 serogroup này là
nguy6en nhân gây bệnh tả lưu hành và phát thành dịch ; còn những
serogroup V.cholerae khác không gây dịch hoặc đại
dịch được gộp chung lại thành nhóm V.cholerae non-O1,
non-O139.

Việc phân loại nhóm huyết thanh được
thực hiện bằng cách cho kháng huyết thanh ( antisera) hấp phụ hoặc cho
các KT đơn dòng hấp phụ thành phần KN "O” của lớp lipopolysaccharide
trên màng vi khuẩn.
Ngoài ra, V. cholerae O1
còn được phân ra thành 3 serotyp, Ogawa, Inaba và Hikojima; typ
thứ 3 này ít gặp và cũng chưa được mô tả đầy đủ. Các serotyp này được
chia thành 3 loại KN: A, B và C. KN A cấu tạo từ 3-
deoxy-L-glycerotetronic acid, còn KN B và C chưa rõ. Chủng O 139 Bengal
và những chủng gây bộc phát thuộc serogroup O 1 của cả 2 biotyp cổ
điển và El Tor có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có nhiều
điểm khác biệt đáng kể. Chủng O 139 có vỏ bọc, đó là điểm khác với các
chủng O 1 và còn có nhiều điểm khác biệt trong thành phần KN " O "
ở phần lipopolysaccharide ở màng vi khuẩn.
Tại Việt nam, từ 1979 đến 1981 các ca
bệnh tả chủ yếu là do nhóm sinh học El Tor, nhóm phụ Ogawa;
từ 1982 đến 1990 tất cả các ca bệnh tả đều nhiễm nhóm phụ Inaba ;
nhưng trong những năm sau 1990 thì tất cả các ca đều do nhóm phụ
Ogawa. Còn ở Thái Lan, khoảng 52% các ca bệnh tả đều do nhiễm nhóm
phụ Ogawa.
Sinh thái học
Vòng đời của V
cholerae gồm có 2 giai đoạn : giai đoạn ở trong lòng ruột ký chủ và
giai đoạn ở bên ngoài trong môi trường nước .
Trong tự nhiên ( môi trường nước bên ngoài cơ thể
)
Mặc dù
V. cholerae là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy cấp đáng sợ, nhưng vi
khuẩn này cũng là 1 thành phần tự nhiên của quần thể các vi
sinh vật sống tự nhiên trong môi trường nước . Điều này phải mất đến 100
năm nghiên cứu mới hiểu rõ được.
Có nhiều khảo sát chứng minh rằng
V. cholerae được phân bố rộng rãi trong các môi
trường nước ở vùng ôn đới và nhiệt đới . Tuy hầu hết các loài Vibrio đều
rất phổ biến tại các môi trường cửa sông, biển và
cả ở vùng nước ngọt khi có một độ mặn tối thiểu từ 5-
30 phần nghìn, nhưng ở ngoài khơi vi khuẩn cũng sống được. Chủng
V.cholerae sinh bệnh vẫn sống được khi độ mặn trong nước
thấp, và tình huống bù trừ cho độ mặn thấp xảy ra khi nhiệt độ
trong nước tăng lên và môi trường có chứa nhiều chất dinh dưỡng hữu cơ
cao . Cũng tương tự như thế, trong môi trường nước ngọt, các
cation hóa trị 2 sẽ bù trừ cho Na+ thấp. Trong nước biển,
V.cholerae có thể sống đến 50 ngày. Ngoài ra, sự sống sót của
V. cholerae còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố phi
sinh học (abiotic ) như thành phần các chất hữu cơ và vô cơ trong
nước và chất trầm lắng, pH, giao động nhiệt độ, giao động áp suất từng
phần oxygen (oxygen tension) và sự tiếp xúc với tia cực tím
trong ánh sáng.
Khi môi trường không có đủ điều kiện
thuận lợi cho chúng sinh trưởng, Vibrio có thể thay đổi hình dạng và lui
vào trạng thái ngủ ( dormancy ) tức là dạng vẫn còn sống nhưng
không nuôi cấy được (VBNC). Trong giai đoạn ngủ, Vk có thể chịu
đựng được những thay đổi về nhiệt độ, độ mặn, hàm lượng chất hữu
cơ trong môi trường giống như các vi khuẩn sinh bào tử
loài Bacillus spp. chẳng hạn. Khi nhiệt độ tăng lên (
choáng nhiệt ) thì vi khuẩn sống trở lại. Ở dạng VBNC này, vi
khuẩn vẫn còn giữ được khả năng gây nhiễm, vì thế V.cholerae là
nguyên nhân gây xuất hiện những vụ dịch theo mùa tại vùng lưu hành
do chúng có thể sống trong môi trường nước một thời gian
dài.
Khi ở bên ngoài cơ thể ký chủ, tùy theo
điều kiện của môi trường V.cholerae tồn tại dưới 5
hình thái :
- dạng tự do chuyển động trong nước ;
- dạng cọng sinh với phù phiêu sinh vật thực vật ;
- dạng hội sinh với phù phiêu sinh vật động vật ;
- dạng còn sống nhưng lại không nuôi cấy được ;
- sản xuất ra lớp biofilm bám vào các bề mặt có
chất chitin hoặc không có chất sống ( abiotic ).
Khả năng bám dính là 1 thuộc tính
quan trọng của V. cholerae, dù ở trong môi
trường hoặc ở trong ruột con người.. Những chủng V cholerae sinh
bệnh có khả năng bám dính tốt nhất. Vi khuẩn bám vào
bề mặt của 1 vật thể nhằm giúp chúng tiếp xúc với các nguồn
thức ăn li ti qua khả năng sản xuất chất chitinase rất mạnh giúp
cho vi khuẩn sống trên bề mặt lớp chitin của những phù phiêu sinh
vật ( plankton ) như loài giáp xác copepod . Ngoài việc định khu
trên copepod, V.cholerae cũng hiện diện trên loài sò vẹm,
tảo, loài giáp xác . Colwell cho rằng lý do mà V.cholerae bám
trên các sinh vật biển như copepod, loài giáp xác …, là nhằm sử
dụng 1 bề mặt để phát triển, lấy chất nuôi dưỡng và có lẽ vì một
vài lợi ích cho cả 2 bên. Một khả năng thú vị khác là V.cholerae
còn tiết ra mucinase giúp cho Vk chui qua được hàng rào chất nhầy phủ
trên biểu mô đường tiêu hóa. Carla Pruzzo, thuộc Đại học Università
Politecnica delle Marche ( Ancona, Italy ), cho biết là huyết thanh
thuộc hệ thống huyết dịch của loài vẹm Mytilus
galloprovincialis vùng Địa trung hải làm tăng tính gắn
kết của Vk vào các tb biểu mô tiêu hóa. Kết cuộc là khi ta
ăn đồ biển có nhiễm Vibrio, Vibrio sẽ lợi dụng các
phân tử "bắt cầu " này để bám chặt vào tế bào ruột. Cả
2 đặc điểm độc lực và tính lây nhiễm đều phụ thuộc vào
các thuộc tính của vi khuẩn và các yếu tố môi trường.
Một số chủng khi bám vào các
thực vật thủy sinh thì gia tăng sản xuất độc tố. Số lượng các
V. cholerae lơ lững trong môi trường nước thường thấp, khoảng
103 cfu/litre đối với các Vibrio non-O1 và thấp hơn 50
cfu/litre đối với Vibrio O1. Tuy nhiên, VK có thể nhân lên rất
nhanh khi nước uống bị nhiễm bẩn và nhất là khi
có thêm các loài thủy sinh khác như cyanobacteria, tảo, phù phiêu động
vật, và loài giáp xác ( kể cả cua ). Một điểm đáng nói là trong
khi số lượng VK lơ lững trong nước có thể thấp, nhưng trên bề mặt các
copepod trong cùng môi trường số lượng VK bám vào có thể lên đến
105 (Huq et al., 1983).
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt
độ môi trường nước, độ mặn, và pH trên sự tồn tại và phát triển
của chủng O 1 sinh độc tố phát triển cùng với phù phiêu
copepod, Huq và cs (1984) kết luận rằng với độ mặn 15%, nhiệt độ nước 30
°C và pH 8,5 là điều kiện thuận lợi cho sự gắn dính và
sinh sôi mạnh của V. cholerae trên loài copepod.
Vibrio có thể sống sót nhiều ngày
trong các thức phẩm bị nhiễm bẩn nhưng còn ẩm. Phải ở trong môi trường
có nước chúng mới sống được, chúng không chịu được sự khô
ráo. Nhiệt độ cao kéo dài quá 10 phút sẽ giết chúng, và chúng cũng
không chịu được môi trường có độ acid thấp . Vi khuẩn có thể
sống được trong nước đá từ 1-2 tuần.
Trong ruột
Con người bị nhiễm V. cholerae
khi uống nước hoặc ăn hải sản ( cá hoặc sò vẹm ) còn sống hoặc nấu
chưa chín có xuất xứ từ nguồn nước bị vấy nhiễm
Vibrio .
Đa số các Vibrio chết
sau khi được nuốt vào bụng, bởi vì ngay khi vào đến dạ dày,
acid của dịch vị sẽ tấn công chúng. Tuy nhiên, thức ăn được
nuốt vào cùng lúc với Vibrio sẽ làm dịu đi sức tấn công của acid
dịch vị đối với chúng và cho phép một số vi khuẩn yên ổn qua được
cửa ải dạ dày. Chỉ có một số nhỏ các chủng Vibrio phát
triển được các chiến lược thích ứng giúp chúng sống sót và sinh
sôi khi ở trong ruột con người, còn đa số thì không có
khả năng này.
Bệnh lý tả là do các độc tố của Vk
tác động lên lớp biểu mô ruột non. Robert Koch là người đầu tiên đề cập
đến độc tố tả choleratoxin (CT) vào năm 1884 nhưng mãi đến
75 năm sau mới được các nhà nghiên cứu như De (1959) và
Dutta, Pause & Kulkarni (1959) chứng minh. CT gồm có 1 tiều đơn vị
A và 5 tiểu đơn vị B. Các tiểu đơn vị B giúp gắn tiểu đơn vị A vào
ganglioside GM1 là thụ thể của tế bào ruột. Tiều đơn vị A có chức
năng enzym chuyên biệt và hoạt động khi vào bên trong tế bào cụ
thể là làm tăng lượng cAMP nội bào khiến cho ruột non không còn
chức năng hấp thu mà chuyển sang chức năng thải tiết dịch tức là
tiêu chảy . Với chủng V. cholerae cổ điển, người nhiễm có
thể bị tiêu chảy ồ ạt, gây mất dịch nặng, người bệnh bị sốc do thể tích
tuần hoàn giảm, khả năng tử vong cao nếu không được xử lý kịp thời
và đúng mức.
Khi bị tiêu chảy, người bệnh tống
phân có vi khuẩn ra khỏi ruột, đưa vi khuẩn trở lại môi trường tự nhiên
của chúng hoặc sẽ gây nhiễm cho người khác qua nguồn nước uống, thức ăn
bị vấy nhiễm phân. Do con người là ổ chứa duy nhất, cho nên sự sống sót
của V. cholerae, trong thời gian giữa 2 vụ dịch, phụ thuộc vào
sự hiện diện của những trường hợp nhẹ không được chẩn đoán
và không có triệu chứng. Những trường hợp người lành mang trùng
dài ngày tuy được báo cáo nhưng rất hiếm. Trường
hợp cổ điển được nhắc tới là nàng "Doleres dịch tả "
tại Philippines đã mắc tả vào năm 1961 và tiếp tục chứa chấp phẩy khuẩn
tả trong túi mật và thải trùng ra phân cho đến năm
1973 .
Các yếu tố độc lực
Có 2 trình tự quan trọng trong quá trình
tiến hóa của V.cholerae gây bệnh lý. Trước hết, các chủng
V.cholerae tiếp nhận phage TCP và biến thành
V.cholerae TCP +. Sau khi trở thành TCP+, tức là vi khuẩn có
tua, tua sẽ đóng vai trò thụ thể cho phage CTXΦ để cho phage chui
vào vi khuẩn,và gắn DNA của nó vào chromosome của V.cholerae
theo cơ chế phage tiềm tan ( lysogenic ).

Bản chất của các gene CTX và TCP đều là
bacteriophage từ bên ngoài được gắn vào trong chromosome của
V.cholerae.Có người cho rằng V.cholerae vốn là 1 con vi
khuẩn "hiền " nhưng khi bị các bacteriophage gây nhiễm chúng mới trở
thành chủng sinh độc tố và gây bệnh lý. V. cholerae trở thành
chủng sinh độc tố ( toxicogenic V. cholerae ) và gây
bệnh khi nào chúng có tiêm mao ( pili) giúp Vk bám vào niêm mạc ruột
non.

Giữa các bacteriophage CTX và TCP
có một sự cọng tác như sau : phage CTX Φ chui vào tế bào
V.cholerae thông qua các tua ( pili ) vốn do 1 phage khác là
TCP Φ mã hóa. Khi DNA của CTX Φ gắn vào chromosome thành 1 gene,
gene này chịu sự kiểm soát của 1 gene khác là ToxR, vốn là gene cũng mã
hóa gene TCP, để sản xuất ra độc tố tả CT.

Cơ chế sinh độc tố này nằm
trong bí mật về trình tự di truyền của V.cholerae mới được
giải mã vào năm 2000 khi người ta phát hiện vi khuẩn này có 2
chromosome, 1 lớn ( chr 1 ) và 1 bé ( Chr 2 ). Đây là điều thú vị
bởi vì các vi khuẩn khác đều chỉ có 1 chromosome . 2 chromosome
của V.cholerae đóng vai trò chuyển hóa và sao chép,
tạo ra lợi thế tiến hóa cho vi khuẩn trong môi trường khi khí hậu
thay đổi. Chromosome lớn ( chr I ) chứa hầu hết những gene cần
thiết cho sự tăng trưởng và sinh bệnh giúp cho Vk thích ứng và
phát triển với môi trường ở ruột, Chr 2 phụ trách chu trình
( pathway ) biến dưỡng và điều hòa cần thiết để Vk sống trong các ổ
ngoài môi trường.
Trên chrI có 2 cụm gene đặc biệt
đó là CTXΦ và VPI. Năm 1999, người ta phát hiện rằng VPI
vốn là 1 bacteriophage gọi là VPIΦ mã hóa cho thụ thể TCP để cho 1
bacteriophage khác (CTXΦ ) gắn kết vào ChrI và sản xuất ra CT.Như vậy,
một chủng V.cholerae không sinh độc tố sẽ trở thành chủng
sinh độc tố khi chủng này thu nhận được phage CTXΦ cần thiết. Do CT chỉ
được sản xuất do sự chuyển gene của phage CTXΦ gắn vào 1
tiêm mao ( pili ) nhất định trên chủng V.choleare,
cho nên giải thích được phần nào vì sao giới hạn loài đóng vai trò ký
chủ cho Vibrio cholerae O1 sinh độc tố cực kỳ hạn
chế.
Sự hình thành các chủng sinh độc tố mới
Cho mãi tới gần đây, dịch tả vẫn được coi
là bệnh được lây từ người nhiễm sang người dễ cảm thụ thông qua sự vấy
nhiễm phân có mang Vk trong thức ăn và nguồn nước và chính do sự
di chuyển của các quần thể con người mới làm cho bệnh lây lan ra
tòan cầu. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây về môi trường thủy sinh
cho thấy rằng V.cholerae, bao gồm các chủng O1 và O139, là thành
phần bình thường của nước bề mặt, nhất là tại các vùng nước lợ,
các Vk này tồn tại và sinh sôi qua cách kết hợp với các phù
phiêu động vật và thực vật, hoàn tòan độc lập với người bị nhiễm. Do
những thay đổi khí hậu tòan cầu tác động đến sự phát triển
của các phù phiêu sinh vật, cho nên sự phát triển của các
chủng Vibrio gắn kết với các phù phiêu này cũng có thể bị
biến đổi.Tại các vùng có bệnh tả lưu hành, người ta phát hiện vi
khuẩn tả bám dính vào các phù phiêu động vật. Các dòng chảy đại
dương khi chảy men theo vùng bờ biển sẽ cuốn
theo các phù phiêu và cùng các hành khách bám trên bề mặt
của chúng làm phát tán VK ra nhiều nơi trên thế giới.

Mặc dù V.cholerae là 1
thành phần của khuẩn chí bình thường vùng cửa sông, nhưng các
chủng sinh độc tố chủ yếu chỉ phân lập được tại những môi trường chắc
chắn bị vấy nhiễm bởi nguồn phẩy khuẩn từ người nhiễm thải ra. Các
phân lập từ môi trường lấy ở các khu vực cách xa vùng có người nhiễm
thường không chứa gene độc tố.
Các thí nghiệm trên mô hình động vật cho
thấy rằng môi trường ruột là nơi mà các chủng V.cholerae có
thể tiếp nhận các yếu tố di động ( TCP ) hiệu quả nhất. Vì thế, có
thể hình dung V.cholerae như là 1 vi khuẩn cố hữu ở môi
trường nước mặn, chúng chỉ định khu và tăng sinh một thời
gian ngắn trong ruột người khi gây nhiễm cho người, rồi sau đó
quay về cái ổ " cố hữu " của nó, đó là vùng cửa sông, trong thời
gian giữa 2 vụ dịch.
Tuy V. cholerae nằm trong nhóm
các vi sinh vật thuộc hệ sinh thái là môi trường nước, nhưng trong
môi trường bên ngoài, các chủng O 1 và O 139 được phân lập ít
so với các chủng non-O 1 và non –O 139 . Hơn thế nữa, nằm
ngoài vùng dịch và cách xa vùng bị b/n tả gây vấy
nhiễm, người ta thấy các phân lập ngoài môi trường của V.cholerae
O 1 thường không mang độc tố CT.

Người ta chứng minh được là các chủng
sinh độc tố V. cholerae O1 và O139 trong tự nhiên là có thể
bị phage CTXΦ dẫn dụ. Trong in vitro cũng có khả năng xảy
ra tính dẫn dụ nhưng thường không gắn với tính sinh
bệnh của V.cholerae ở người. Có thể là trong bối cảnh sinh
thái tự nhiên, các yếu tố môi trường nào đó có sự dẫn dụ CTXΦ lysogenic
ở chủng V. cholerae sinh độc tố và làm cho các vi hạt
CTXΦ ngoại tế bào được phóng thích vào môi trường nước. Các phage
tự do này tham gia vào quá trình hình thành các chủng
V.cholerae sinh độc tố mới qua sự tương tác với các chủng không sinh
độc tố ( nontoxigenic ) có trong môi trường và trong quần thể con
người khi họ sử dụng nguồn nước của môi trường đó. Những chủng
V.cholerae trong môi trường có khả năng thích ứng với
môi trường ở ruột khi thu nạp những gene độc lực . Người ta đã
chứng minh là trong môi trường ruột non nơi có đầy đủ các yếu tố độc lực
như TCP, CTXΦ gây nhiễm các chủng V. cholerae hữu
hiệu hơn. Do các chủng V. cholerae có TCP + nhưng CTX - ít
khi phân lập được khi lấy mẫu ngoài môi trường, có thể là
những chủng này bình thường chỉ hiện diện rất ít ỏi trong môi
trường, nhưng sau khi được CTXΦ chuyển đổi thành chủng sinh độc tố,
những chủng này được phong phú hóa trong lòng ruột non
và sau đó trở thành 1 chủng V. cholerae sinh độc tố mới.
Có bằng chứng cho thấy V,cholerae O 1 El
Tor chuyển thành chủng O 139 khi thu nạp 1 DNA mới, DNA này được
gắn vào rồi thay thế cho cụm gene O ở chủng thu nhận.
Trong labo, đã chứng minh được sự chuyển
đổi giữa chủng V. cholerae O 1 thành non-O 1 và ngựơc lại. Sự
hiện diện cùng 1 lúc của các chủng Vibrio cholerae 01 và
0139 Bengal trên các phù phiêu sinh vật đã được chứng minh tại
Bangladesh. Các bằng chứng gần đây cho thấy các phân lập O139 có thể
phát sinh do sự trao đổi di truyền với những chủng V. cholerae
non- O 1 cũng như những chủng lâm sàng O 1
Khi người nhiễm V.cholerae tiêu
chảy ồ ạt,V. cholerae sinh độc tố được thải ra ngoài, nếu
vấy nhiễm vào môi trường nước sẽ làm cho nồng độ chủng
trong môi trường nước tăng lên và nếu nguồn nước này được sử dụng, sự
vấy nhiễm qua nước uống và thực phẩm tăng lên, sau đó có thể là
nguyên nhân dẫn tới các vụ bùng phát dịch tả. Trong khi sự chuyển
đổi các chủng V.choleare không sinh độc tố xảy ra
thuận lợi trong đường ruột của ký chủ loài có vú, thì sự
chọn lọc tự nhiên và tồn tại của các chủng sinh độc tố mới có thể
cần đến cả 2 yếu tố đường ruột và môi trường, tình trạng miễn dịch
của quần thể ký chủ và đặc trưng kháng nguyên của chủng gây
bệnh mới. Sự dẫn dụ các phage CTXΦ lysogens có lẽ chịu sự
kiểm soát của các tín hiệu chính xác từ môi trừng chẳng hạn như nhiệt độ
tối ưu, ánh sáng mặt trời và các điều kiện về thẩm thấu
và điều này cũng giải thích vì sao có những vụ bộc phát dịch theo
mùa tại vùng có bệnh tả lưu hành .
Bệnh lý và lâm sàng
Các CT do Vibrio gây bệnh phóng thích ra
sẽ giúp chúng làm thay đổi sự trao đổi các ion Na+ và Cl-
xuyên qua hàng rào niêm mạc của ruột non. Kết quả dẫn tới là độ
mặn và khối lượng dịch trong lòng ruột tăng lên rất nhiều, tương
tự như môi trường nước trong tự nhiên của chúng. Các dưỡng chất
của cơ thể được hấp thu tại ruột non, và đây là phần ruột giám sát
những sự trao đổi dịch từ dạ dày và tụy tạng, gan, đường mật cũng
như dịch do chính ruột tiết ra. Có đến >10 lít dịch được
trao đổi tại ruột trong vòng 24 giờ. Với 1 phần nhỏ dịch đến được
ruột già và đa số sẽ bị hấp thu qua thành ruột. Các
chủng Vibrio gây bệnh phá hủy nghiêm trọng sự thăng bằng này, khi chúng
giữ lại dịch trong lòng ruột và tống ra ngoài một
lượng lớn dịch khi gây ra tiêu chảy tòan nước. Cuối cùng làm cho
người bệnh bị kiệt nước trầm trọng.
Đặc trưng của bệnh tả là tiêu chảy
đột ngột, ồ ạt, không đau bụng, với phân đục như " nước vo gạo " và
mùi rất tanh. Đôi khi, ngoài tiêu chảy lại còn có ói tòan nước trong.
Các triệu chứng thường xảy ra 2-3 ngày sau khi nuốt phải Vibrio, nhưng
cũng có khi trong vòng vài giờ hoặc thậm chí đến 5
ngày sau. Các phản ứng của ký chủ đối với của Vibrio dẫn đến tiêu chảy
thực ra đó là 1 cuộc chiến giữa các globuline miễn dịch của
ruột với với kẻ xâm nhập, cọng thêm với sự tiết
dịch của màng niêm và nhu động của ruột. Về mặt di truyền, người có nhóm
máu O dễ bị mắc tả hơn các nhóm khác .
Tiêu chảy có thể đi từ nhẹ đến trầm
trọng, tùy theo chủng Vibrio gây bệnh và sự nhanh nhẹn cũng như
hiệu quả của các tế bào miễn dịch tại ruột. Phần lớn các ca tả
đều gây tiêu chảy nhẹ hoặc vừa, còn Vibrio được thải ra phân mãi
đến 2 tuần mới hết. Nhũ nhi và trẻ em khi mắc tả dễ bị tiêu chảy
nặng. Chỉ trong vòng vài giờ bị tiêu chảy sẽ khiến cho nhóm này
kiệt nước, dẫn đến tử vong. Người lớn khi mắc tả cũng bị nguy kịch nếu
kiệt nước xảy ra . Tiêu chảy nặng dẫn đến kiệt nước gây tử
vong, và có đến 70% các trường hợp mắc tả chết là do kiệt nước .
Các triệu chứng kiệt nước
trầm trọng bắt đầu bằng sự khát nước và da mất độ đàn hồi,
sau đó là sốc do giảm thể tích máu khi người bệnh mất nhìều hơn
10% lượng dịch cơ thể và sau đó là trụy tuần hoàn. Tay chân lạnh,
mắt trũng sâu, đầu lưỡi và môi chuyển sang tím, miệng khô, đau cơ
và thở gấp. Tả thường có biến chứng là hạ đường huyết , nhất là ở trẻ
em, khi sự hấp thu các dưỡng chất trong lòng ruột bị thay đổi, làm
ảnh hưởng đến sự nuôi dưỡng trong suốt quá trình bị bệnh.
Cách điều trị đơn giản bồi
phụ dịch và chất điện giải cùng với việc cho ăn nước cháo (
gạo hoặc ngũ cốc ) đã làm giảm tỉ suất tử vong xuống còn 1%
trong những năm gần đây. Thành phần carbohydrate trong các
thức ăn trên sẽ phân giải nhanh thành thành ra các đường đơn
và các acid amin được hấp thu qua ruột nhằm đảo ngược
sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng và hạ đường huyết gặp ở trẻ
em. Ngũ cốc cũng giúp đẩy nước và các chất điện giải cần có xuyên
qua các tế bào ruột non để vào hệ tuần hoàn. Cần phải
bồi phụ dịch đến 4-6 ngày trong khi tiêu chảy giảm dần, và
cơ thể tạo được miễn dịch chống lại những đợt mắc bệnh sau này .
Phát sinh dịch và các đại dịch
Nói đến dịch tả là phải nhắc đến Ấn độ.
Mối quan hệ qua lại giữa Vibrio và con người tại vùng châu thổ sông Hằng
có nhiều khả năng xảy ra khi những làng mạc đầu tiên ở đây bắt
đầu canh tác. Mối quan hệ này cuối cùng làm cho Vibrio thích
ứng với môi trường trong lòng ruột của con người và tạo ra bệnh tả
lưu hành.
Nhưng mãi đến cuối thế kỷ thứ 18 khi
người Anh đến tiểu lục địa Ấn độ, bệnh tả mới được thế giới
chú ý. Người Anh xây dựng trung tâm thương mại lớn tại
Calcutta nằm ở phía tây của vùng đồng bằng này để thu hút nguồn
lao động là dân nghèo.Đám dân mới đến chen chúc trong các khu ổ
chụôt, với nước uống bẩn và môi trường vệ sinh kém, là những điều kiện
tốt để bệnh tả nổ ra.
Người Anh mở rộng sự kiểm
soát của mình trên thuộc địa mới bằng cách xây dựng đường sắt
xuyên qua vùng này nhằm di chuyển quân lính, hàng hóa và dân chúng
qua lại khắp vùng nhiều hơn, nhanh hơn. Các đội tàu cũng tăng số
lượng nhằm chuyên chở hàng hóa và nguyên liệu từ Ấn độ ra khắp thế giới.
Những cải tiến về phương thức vận chuyển trên bộ và
trên biển đã tạo điều kiện để bệnh tả nhanh chóng vượt ra khỏi
môi trường tự nhiên của chúng.
Kolkota trở thành cái ổ
chính của bệnh tả. Từ những đoàn tín đồ Ấn giáo hành hương
tới vùng hạ lưu sông Hằng, khi về thường mang theo bệnh tả, và hệ
thống đường sắt tân tiến lại giúp họ phân tán bệnh tả từ cái
thành phố đang phát triển này nhanh chóng lan ra các khu vực
khác. Các khách hành hương từ các nơi xa xôi có thể chu du đến
vùng sông Hằng rồi quay về nhà trong một thời gian rất ngắn. Các tân
binh bị nhiễm tả khi di chuyển bằng đương sắt lại mang bệnh
đi tới những vùng xa xôi thuộc tiểu lục địa Ấn độ, còn các
tàu biển với khoang nước nhiễm bẩn ở đáy tàu cũng mang vi khuẩn
đến các hải cảng, đảo xa xôi.
Vào năm 1818, trận đại dịch tả thứ
nhất phát xuất từ châu thổ sông Hằng đã được thế giới biết đến.
Các tin đồn về một căn bệnh mới và khủng khiếp tại Ấn độ
chẳng bao lâu lan đến nước Anh. Vào năm 1821, trên các con tàu mang dịch
tả đi theo hướng tây qua biển Ả-rập và vùng Vịnh có đến hàng
ngàn người chết. Các đoàn lữ hành bằng lạc đà mang bệnh tả trên
cạn đi xuyên qua Syria và đến nước Nga vào năm
1822. Cùng lúc lan truyền sang phía tây, thì bệnh tả cũng
quay sang hướng đông theo các tàu biển đến vùng đông nam Á,
kể cả Indonesia, Philippines và nhiều nơi trên nước Tàu rộng lớn, và
cuối cùng đến Nhật vào năm 1820.
Một trận đại dịch thứ 2 xuất hiện
tại vùng châu thổ sông Hằng vào năm 1826, cũng theo những lộ
trình sang tây và sang đông như lần trước. Bệnh tả nhanh chóng tạo ra 1
ổ bệnh trong các nhóm tín đồ đạo Hồi hành hương đến Mecca vùng
Trung đông, giống như với các tín đồ Ấn giáo hành hương
đến sông Hằng tại Ấn độ trước kia. Bệnh tả sẽ còn là 1 tai họa cho
khách hành hương đạo Hồi đến Mecca mãi đến năm 1910 mới giảm dần khi
người ta biết được cách xử lý bệnh này trong nhóm tín
đố hành hương.
Quân đội và thương mãi một lần nữa
lại đóng vai trò chính làm lây lan bệnh này. Quân đội Nga tham
chiến tại Ba-tư và Thổ -nhĩ -kỳ, cùng với tàu bè đi ngược sông Volga và
sông Don đã mang bệnh tả đến nước Nga, đến Moscow vào năm 1830.
Các đợt chuyển quân Nga đến vùng Baltic, đổ xô tham gia các hội
chợ mua bán, và việc đi lại bằng tàu thuyền đã nhanh chóng phát
tán bệnh tả ra khắp châu Âu.
Mối lo sợ về căn bệnh mới
tàn khốc này đã dấy lên những biện pháp kiểm dịch
tuyệt vọng nhằm cô lập nó lại. Quân đội Nga bao vây
các làng bị kiểm dịch được lệnh sẽ bắn bỏ bất cứ ai trốn ra ngoài.
Biên giới bị đóng lại và tàu bè đều bị kiểm dịch vì sợ bệnh lây
lan. Đám dân lao động nghèo bị thiệt hại nhiều nhất do dịch, và họ nổi
loạn do sợ bị tầng lớp cai trị và người nước ngoài đánh
thúôc độc.
Quá sợ hãi chứng bệnh mới này, dù
rằng nó chưa đến bờ, chính phủ Anh ra lệnh thực hiện kiểm dịch
cho tất cả các tàu cập cảng trong suốt mùa hè năm
1831. Trên 700 chiếc tàu chở đầy sợi lanh và sợi gai từ cảng Riga
vùng Baltic, cùng với trên 3000 chiếc tàu khác đều
phải chịu kiểm dịch tại các trạm dọc theo bờ biển Đông bắc nước
Anh trong vòng 14 ngày. Tuy vậy, mùa hè năm sau, bệnh tả bùng phát
dù được kiểm dịch và đã tấn công và trung tâm thương
mại Sunderland nằm ở bờ biển Đông bắc nước Anh Có lẽ việc kiểm dịch
của quá nhiều tàu dọc theo bờ biển này đã tạo điều kiện cho Vibrio
bệnh tả trong các khoang chứa nước đáy tàu phát tán ra các
vùng vịnh và cửa sông tại đây, từ đó làm vấy nhiễm cá và tôm cua
được dân địa phương đánh bắt và tiêu thụ sau đó. Việc kiểm dịch
thay vì ngăn chặn lại giúp cho bệnh lây lan.
Bệnh tả nhanh chóng lan ra khắp thành
phố London và tòan bộ nước Anh. Chính tại London là nơi mà
vào năm 1853 John Snow đưa ra thuyết bệnh tả lây truyền theo
đường nước. Ông cho rằng bệnh đã lây lan khi phân của người
bệnh đi vào nguồn nước bị nhiễm bẩn nước cống. Snow căn cứ vào
những nhận xét khi thấy những quận bị dịch tả là nơi sử dụng nước do 1
công ty khai thác nước lấy từ sông Thames bị nhiễm bẩn nước cống.
Snow chứng minh điều này vào năm 1954 khi điều tra trạm bơm Broad
Street tại quận Soho mắc dịch tả. Các nhà xí ở đây đã xì nước bẩn
vào giếng và khi ông thuyết phục chính quyền ở đây
tháo tay bơm thì bệnh giảm đi. Mặc dù có bằng chứng như thế,
nhưng Snow cũng không làm cho các đồng nghiệp tin rằng
bệnh tả lây lan theo đường nước. Nhiều năm sau khi mất, các biện pháp dự
phòng của Snow mới được áp dụng.
Nước Úc cũng không tránh khỏi trận dịch
tả ; năm 1832 thì bệnh đã đến bờ vùng bờ biển phía tây của nước
này. Cùng năm đó lần đầu tiên bệnh tả cũng vượt qua Đại tây dương, đến
được các thành phố hải cảng Bắc Mỹ. Thành phố Quebec bị tấn công
đầu tiên, sau đó là Montreal, rồi đến New York và Philadelphia ;
rồi bệnh cứ lan rộng dọc theo bờ biển phía đông và đến các
thành phố cảng vùng vịnh vào năm 1834. Cuba và các cảng vùng
Trung Mỹ cũng bị mắc bệnh. Đến ăm 1836, bệnh tả biến mất tại Bắc
Mỹ, chỉ quay trở lại vào năm 1848, trụ ở đó một thời
gian dài hơn, rồi đến bờ biển phia tây vào năm 1850.
Trận đại dịch thứ 3
bắt đầu vào năm 1852, với đầy vẻ khốc liệt như các trận dịch trước, nó
lan xuống Nam Mỹ và tòan bộ châu Phi. Trận đại dịch thứ 4 xuất
hiện vào năm 1863, gây ra khoảng 30 ngàn tử vong trong
số 90 ngàn khách hành hương đạo Hồi đến Mecca trong năm
1865. Dịch tả là 1 trong những trận dịch tệ hại nhất trong
lịch sử châu Âu vào năm 1966, riêng tại Nga đã có đến 90 ngàn người
chết .
Đến lúc này, nhận thức được mức độ tai
hại của dịch tả, cho nên người ta mới qui định các biện pháp y tế công
cọng nhằm chặn đứng sự phát tán của căn bệnh lây
truyền theo đường nước này tại nhiều nơi ở châu Âu và Bắc
Mỹ. Khi đại dịch thứ 5 tấn công thế giới vào năm 1881, các biện pháp này
chứng tỏ hiệu quả, không tấn công những thành phố đã có chuẩn bị.
Tuy nhiên, dịch tả vẫn còn hoành hành ở nơi nào các biện pháp y tế công
cọng không triển khai và thiếu kiến thức về tập tính của
phẩy khuẩn Vibrio. Cho nên, bệnh tả vẫn còn tàn phá nhiều
nơi tại châu Âu, Nga, vùng Trung đông, Bắc Phi, tòan bộ châu Á, và Nam
Mỹ.

Trận đại dịch thứ 6, kéo dài từ 1899 đến
1923, đã tấn công vào những vùng từng mắc trong những đại dịch
trước. Bệnh tả cuối cùng rời bỏ Bắc Mỹ vào năm 1911,
và châu Âu vào năm 1925. Một vụ bùng phát lớn tại Ai cập vào năm 1947
đã để lại hơn 20.000 người chết. Đến thập niên 1950, liệu pháp bồi phụ
dịch để làm giảm đáng kể số ca tử vong do bệnh tả.
Trận đại dịch thứ 7 bắt đầu
vào năm 1961 với 1 vụ bùng phát tại Sulawesi, Indonesia. Đây là đại dịch
đầu tiên do một chủng Vibrio mới là El Tor ( một trạm
y tế tiếp nhận người hành hương tại Mecca, Saudi Arabia ). Về mặt bệnh
lý, El Tor thường chỉ gây tiêu chảy vài lần, không làm mất dịch
đáng kể và thường cũng không kèm theo triệu chứng gì
nhiều.Nhóm O1 cổ điển (classic O1) có số người phát bệnh (symptomatic
infection) và mang bệnh (asymptomatic infection) ngang nhau. Ở nhóm El
Tor, 1 người có triệu chứng bệnh thì có 20-100 người không có triệu
chứng trong số người nhiễm vi khuẩn tả. Về mặt vi khuẩn học,
El Tor thuộc 2 nhóm phụ Ogawa và Inaba thay nhau xuất hiện. Chủng này
khác với chủng cổ điển có nguồn gốc từ châu thổ sông Hằng ở điểm
là mã di truyền để tạo ra CT ít hơn.
Về mặt di truyền học, chủng El Tor chỉ
có 1 phiên bản các gene tạo độc tố, trong khi chủng cổ điển đối
với gene tạo độc tố lại có đến 2 phiên bản. El Tor được ghi nhận
đầu tiên vào năm 1937 tại Indonesia, gây tiêu chảy giống bệnh tả
nhưng nhẹ hơn .
El Tor có vẻ dày dạn hơn chủng cổ điển.
Chúng có thể chịu đựng được những biến đổi lớn trong môi trường về
độ mặn của nước, nhất là tại những vùng thường bị ngập úng. Kể từ
thập niên 1970 trở đi, chủng El Tor đã thay thế chủng cổ
điển hầu như khắp nơi trên thế giới trừ vùng châu thổ sông Hằng,
nơi đây chủng cổ điển tồn tại song hành với chủng El Tor.
Trong những năm 1970, El Tor
đã lây lan sang vùng Tây Á, châu Phi, châu Âu và Philippines. Các
ca ngoại nhập thỉnh thoảng cũng xuất hiện tại các nơi có nguồn
nước sạch, hệ thống vệ sinh môi trường được kiểm soát, và có sự giám sát
y tế công cọng. Cuối cùng, chủng El Tor trở thành chủng lưu hành,
thường trú tại vùng duyên hải của tất cả các nước trên thế giới. Trong
những năm 1970, hầu như nửa số tôm cua bắt được dọc theo bờ biển Bồ đào
nha đều có chứa vibrio El Tor, và các vụ bùng phát
trên thế giới đều xảy ra ở nơi nào có El Tor. Kể cả vùng bờ biển các
vịnh ở Bắc Mỹ và Queensland, Úc. Các hải sản không được nấu chín hoặc
còn sống, nhất là tôm cua, trở thành nguồn lây truyền chính của
bệnh tả, cọng với việc uống nước chưa xử lý đúng mức, dùng nước bị
nhiễm bẩn để tưới tiêu và rửa hoa quả, các thức ăn khác.
Mãi đến năm 1991, đại dịch thứ 7 mới
tiến vùng Nam Mỹ. Vụ bùng phát lớn gần đây nhất xảy ra vào tháng
1/1991, tại Lima, Peru.
Dịch lan ra khắp vùng duyên hải xứ Peru vào tháng
giêng 1991, sau đó bùng nổ dữ dội hầu như khắp các nước Nam Mỹ và
Trung Mỹ và sau đó lan đến Mexico. Có đến 400.000 ca được báo cáo
trong năm đầu vụ dịch, và đến cuối năm 1994, có đến > 1 triệu ca
bệnh được báo cáo. Trong khi tỉ suất chết tích lũy thấp hơn 1%, thì
tại những cọng đồng bị tấu công đầu tiên, tỉ suất này lên
đến 30% do hệ thống y tế bị bất ngờ, chưa biết cách điều trị không
hiệu quả. Về sau khi các nhân viên y tế được tập huấn về cách điều
trị và có sự cảnh giác của cộng đồng đã làm giảm nhiều tỉ suất tử
vong.
Qua vụ dịch tại Peru, người ta nhấn mạnh
đến yếu tố thay đổi thời tiết ảnh hưởng đến sự xuất hiện và lan
nhanh của dịch tả. Lúc đầu có người ta cho rằng vụ dịch xảy ra do
ăn phải tôm cua và cá sống hoặc nấu chưa chín bị vấy
nhiễm Vibrio từ nước khoang đáy của các tàu biển đi từ vùng có dịch đến
cập cảng tại Lima. Nhưng căn cứ trên thực tế là vụ dịch lan rộng
rất nhanh, và đến ngày 7/2/1991, các ca tả xác định được báo cáo
dọc theo khắp bờ biển Peru từ Chili đến biên giới Ecuador,
kéo dài trên 2000km khó mà giải thích hợp lý là do sự tháo
thải nước khoang đáy tàu tại Lima. Do đó, một cách giải thích khác khả
dĩ hơn được đua ra, đó là do sự thay đổi khí hậu dưới ảnh hưởng
của El Niño, đã làm cho mưa nhiều, cuốn theo các chất nuôi dưỡng từ đất
liền ra biển và làm tăng nhiệt độ nước biển tạo điều kiện
cho các phù phiêu động vật nở rộ và cơ hội nuốt hoặc tiêu thụ các
nguồn thực phẩm hải sản có mang Vibrio.
Cũng như tình hình xảy ra tại châu Phi 2
thập niên trước, chủng El Tor gây dịch lần này đã du nhập vào các
môi trường nước nội địa thay vì chỉ khu trú tại những ổ cổ điển
dọc theo vùng bờ biển, và V.cholerae đã trở thành 1 bệnh
lưu hành tại nhiều nước vùng Nam Mỹ. Một số trường hợp tả được báo cáo
tại Mỹ là do tiêu thụ các hải sản bị vấy nhiễm nhập khẩu từ các
nước Nam Mỹ.
Vào tháng 10 /1992,
một vụ bùng phát tả lớn có ca lâm sàng đã xảy ra
tại miền đông nam Ấn độ. Tác nhân gây bệnh là 1 V.cholerae
thuộc nhóm huyết thanh mới. Chủng này phát tán nhanh dọc
theo bờ biển vùng vịnh Bengal, tiến đến Bangladesh vào tháng
12/1992. Chỉ tại nước này, trong vòng 3 tháng đầu năm 1993, có đến
100.000 ca mắc. Sau đó, bệnh lây lan ra khắp tiểu lục địa Ấn
độ và sang các nước láng giềng, như Pakistan, Nepal, miền Tây Trung
quốc, Thái lan và đến Malaysia khoảng cuối năm 1994. Chủng này được định
danh là V. cholerae O139 Bengal. V. cholerae O139 có các
biểu hiện lâm sàng và dịch tể rất giống nhóm 01. Tuy nhiên, miễn
dịch của nhóm 01 không bảo vệ chéo với nhóm V.
cholerae O139 Bengal
Nhóm O139, bao gồm nhiều chủng loại khác
nhau có thể tạo ra độc tố và không tạo ra độc tố. Người ta phân loại
nhóm O139 theo ribosomes của chúng (9 ribotypes). Về mặt di
truyền học, nhóm O139 có vỏ bọc bên ngoài và chuỗi nhân di truyền của
kháng nguyên O có nhánh bên ngắn hơn của nhóm O1. Nhóm O139 có di
truyền gần với nhóm phụ O1 El tor trong trận đại dịch thứ 7 . Về phản
ứng huyết thanh (serotype), nhóm O139 không chia thành nhóm phụ
Ogawa & Inaba như ở nhóm O1.

Một số tác giả tin rằng sự xuất hiện
của V. cholerae O139 báo hiệu khởi đầu cho đại dịch thứ 8.
Thật vậy, cũng giống như nhóm 01 El Tor đã từng thế chỗ cho
nhóm cổ điển trước đó, O139 Bengal vào năm 1993 đã nhanh chóng
thay thế cho O1 El Tor là chủng được phân lập nhiều nhất trong môi
trường và tác nhân chủ đạo gây bệnh tả lâm sàng tại những khu vực
có nó xuất hiện. Tuy nhiên, đến đầu năm 1994, O1 El Tor đã quay trở lại
chiếm ưu thế tại Bangladesh ; và V. cholerae O139 chưa lan
ra khỏi khu vực châu Á, và hiện tại, tại phần lớn các nước trong vùng
Đông nam Á, V. cholerae O1 vẫn là tác nhân gây bệnh chính.
Những năm gần đây, bệnh tả xuất
hiện dưới hình thức các vụ bùng phát dịch lớn. Chiến tranh, thiên tai và
một số biến động xã hội đã dẫn đến sự xuống cấp hoặc thiếu các biện pháp
dự phòng. Dịch tả bùng phát tại các trại tị nạn dành cho người Rwanda
tại Goma, Zaire năm 1994 là 1 ví dụ.
Thứ tự
|
Năm |
Xuất xứ
|
Tác nhân gây bệnh |
1 |
1817-1823 |
Ấn độ |
? |
2 |
1829-1851 |
Ấn độ |
? |
3 |
1852-1859 |
Ấn độ |
? |
4 |
1863-1879 |
Ấn độ |
? |
5 |
1881-1896 |
Ấn độ |
V. cholerae
O1, cổ điển |
6 |
1899 -1923 |
Ấn độ |
V. cholerae
O1, cổ điển |
7 |
1961- tới nay |
Sulawesi, Indonesia
|
V. cholerae
O1, El Tor |
8 |
1992- tới nay
|
Madras, Ấn độ
|
V. cholerae
O139 |
Gần đây nhất, Bộ Y tế Zimbabwe báo cáo từ
tháng 8 đến ngày 1 tháng 12.2008, có đến 11735 ca tả, với 484
ca tử vong. Tỉ suất chết/mắc chung là 4% nhưng tại những vùng xa
xôi đã lên tới 20-30%. Do nền kinh tế bị phá sản, các cơ sở y tế
xuống cấp, thiếu thốn lương thực, dân cư sống chen chúc trong các khu ổ
chuột, không có đủ nước sạch cọng với bất lực trong
việc xử lý môi trường, người dân phải sử dụng các nguồn nước và thực
phẩm bị vấy nhiễm, tất cả đã khiến bệnh tả phát triển thành
dịch tại nước này.
Để kết luận :
Đã bứơc qua thế kỷ 21 nhưng dịch tả vẫn
còn là bệnh lưu hành có khả năng gây thành dịch lớn tại nhiều vùng trên
thế giới. Nhân loại đã biết được nhiều điều về sinh bệnh học và di
truyền của phẩy khuẩn V.cholerae, và cũng tìm ra các phương pháp
điều trị đơn giản và hiệu quả. Tuy nhiên, các chủng gây dịch mới
vẫn còn nhiều khả năng hình thành, tiến hóa và phát tán.Nhận định hiện
nay là không thể thanh toán được V cholerae, bởi vì vi sinh
vật này là 1 thành phần của khuẩn chí tự nhiên trong sinh thái
tầng nước bề mặt của hành tính chúng ta đang sống. Vì thế, chúng ta phải
học cách sống chung với bệnh tả ; và sự hiểu biết về sinh thái của
vi sinh vật này sẽ giúp cho chúng ta tránh được cơ hội phải
tiếp xúc với tác nhân có tính sinh bệnh cao này càng nhiều càng
tốt.
-----------------
1.Raufman J-P : Cholera. The American journal of medicine. Volume
104,April 1998.
2.Colwell R. R. :Infectious disease and environment: cholera as a
paradigm for waterborne disease,Int. microbiol. Vol. 7, 2004.
3.Colwell R.R: Global Climate and Infectious Disease: The Cholera
Paradigm*
Science 20 December 1996: Vol. 274. no. 5295, pp. 2025 – 2031
4.Sack D. A et al. : Cholera.Lancet 2004; 363: 223–33.
5.Faruque S...et al :Epidemiology, Genetics, and Ecology of Toxigenic
Vibrio cholerae.Microbiology and Molecular biology reviews,Dec.
1998, p. 1301–1314
6.Ewald P W et al. Evolutionary Control of Infectious Disease:
Prospects for Vectorborne and Waterborne Pathogens.Mem Inst Oswaldo
Cruz, Rio de Janeiro, Vol. 93(5): 567-576, Sep./Oct. 1998.
7.Nandi S. et al : :Genesis of variants of Vibrio cholerae O1
biotype El Tor: role of the CTXf array and its position in the
genome.Microbiology (2003), 149, 89–97.
8.Uma G. et al : Recent advances in cholera genetics.Current science,
vol. 85, no. 11, 10 December 2003.
9.Igbinosa E. O. and Okoh A I. Toxigenic Vibrio cholerae
strains and their associated malaises.African Journal of Microbiology
Research Vol. 3(5) pp. 200-211 May, 2009.
10.Blake K,, Olsvik O, eds. Vibrio cholerae and cholera:
molecular to global perspectives. Washington, DC, American
Society for Microbiology: 177-194....
11. Barnes E. Diseases and Human Evolution. Unviersity of New Mexico
Press . Albuquerque.2005.
12. Levin B. R. and Tauxe R. V. :Cholera: Nice bacteria and bad
viruses .Current Biology 1996, Vol 6 No 11:1389–1391.
13.A Huq, E B Small, P A West, M I Huq, R Rahman and R R Colwell :
Ecological relationships between Vibrio cholerae and planktonic
crustacean copepods.Appl Environ Microbiol. 1983 January; 45(1): 275-283
14. Finkelstein RA (1996). Cholera, Vibrio cholerae O1
and O139, and Other Pathogenic Vibrios. In: Barron's Medical
Microbiology (Barron S et al., eds.) (4th ed.). Univ of Texas
Medical Branch.
15.Lipp E. K.,et al : Effects of Global Climate on Infectious
Disease: the Cholera Model.Clinical microbiology reviews, Oct. 2002, p.
757–770.