| |
Vietsciences-Nguyễn Đình Nguyên 21/05/2007 |
gãy trong thể bệnh này dễ chữa hơn các thể khác. Gãy xương thường xuất hiện trước tuổi dậy thì. Thể bệnh này thường có tầm vóc bình thường hoặc tương đối như bình thường. Có biểu hiện yếu dây chằng khớp, và trương lực cơ cũng yếu làm cho sự di chuyển của bệnh nhân có thể khó khăn. Một số trường hợp có biểu hiện có vết xanh thâm hay tím ở tròng trắng của mắt. Bệnh nhi có thể có khuôn mặt hình tam giác. Cột sống có thể cong. Có thể dễ bị gãy răng.
|
![]() |
Loại III:1: đàn ông 27 t cao 94cm; 2: đàn bà 40 t, 84cm |
Cũng là một dạng tạo collagen không thích hợp thường là gây nên tình trạng biến dạng xương nặng. Trẻ thường sinh ra xương đã gãy. Lòng trắng mắt có thể quá trắng hoặc có màu xanh hoặc màu xám. Bệnh nhân mắc OI loại III thường có tầm vóc thấp, có các biến chứng bề hô hấp, rối loạn về răng. Có thể giảm chức năng nghe.
![]() |
Loại IV: 1: đàn ông 40 t cao 90 cm; 2: đàn bà 35 t, 124 cm |
Là dạng nặng trung bình về rối loạn tạo collagen, giữa các mức độ I, II và III. Các xương dễ bị gãy. Một số bệnh nhân có thể có tầm vóc thấp hơn bình thường và có thể có rối loạn ở răng. Các xương bị biến dạng ở mức nhẹ đến trung bình.
Tuy nhiên hiện nay cũng đã có đến loại V, VI, và VII [4-6]. Như vậy, về mặt mức độ từ nhẹ đến nặng trên lâm sàng được xếp như sau:
Trong thời kỳ mẹ mang thai, siêu âm có thể phát hiện được các trường hợp bệnh nặng. Hoặc xét nghiệm di truyền có thể nhận dạng được tình trạng đột biến của gen. Trong nhiều trường hợp, các xương gãy gần như tự nhiên hoặc do sang chấn tối thiểu, là một dấu hiệu chỉ điểm của OI.
Loại V: Biểu hiện lâm sàng như loại IV, chẩn đoán bằng
sinh thiết xương
![]() |
![]() |
Loại V: người lớn Loại V: trẻ nhỏ
Loại VI: Biểu hiện lâm sàng như các thể trung bình đến nặng. Ngoài ra còn có tăng một loại biểu thị tố luân chuyển xương (bone turnover marker) là alkaline phosphatase.
Cho đến hiện nay, chứng bất toàn trong tạo sinh xương vẫn được
xem là một rối loạn di truyền không thể chữa khỏi được. Lý do là
chưa có thể thay thế lại được cấu trúc của chất collagen trong
cơ thể cũng như hiện nay chưa có phương thức nào kích thích cho
cơ thể tăng tổng hợp số lượng collagen. Phương pháp can thiệp
vào cấu trúc di truyền vẫn là một thiết kế trong ý tưởng.
Vì thế, hiện nay vấn đề đặt ra là quản lý bệnh nhân như thế nào,
và giúp cho bệnh nhân giảm thiểu tai biến gãy xương đến mức có
thể chứ không đặt nặng vấn đề chữa khỏi. Điều trị phải dựa trên
từng bệnh nhân tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và tuổi
tác của bệnh nhân. Điều trị bệnh này phải có sự phối hợp của một
đội ngũ các thầy thuốc các chuyên khoa, vật lý trị liệu, y tá
chuyên ngành, nhân viên y tế cộng đồng.
Nguyên tắc trị liệu bao gồm:
- Tối ưu hoá chức năng của bộ xương
- Tối thiêu hoá các biến dạng và sự tàn phế
- Hỗ trợ và phát triển kỹ năng sinh tồn độc lập của người bệnh
- Duy trì sức khoẻ toàn trạng, điều trị vật lý
Hầu hết các trị liệu áp dụng cho bệnh nhân OI là trị liệu
không can thiệp phẫu thuật kể cả xương bị gãy. Bó bột, bất động,
nẹp cố định là những biện pháp áp dụng để chữa gãy xương trong
OI. Tuy nhiên việc bất động trong trị liệu này cũng gây ra nguy
cơ là làm tăng nguy cơ mắc bệnh khác cũng như tăng nguy cơ gãy
xương thêm. Do đó việc cố định xương trị liệu phải kết hợp với
vận động và vật lý trị liệu ngay sau đó để giảm thiểu các nguy
cơ khác phát sinh.
Tuy hiếm, nhưng phẫu thuật cũng có thể áp dụng trên những xương
bị gãy đi gãy lại nhiều lần, biến dạng nặng. Trong những trường
hợp đó thường là đóng đinh để cố định xương, nhưng phức tạp là
cần phải có tái phẫu thuật để thay đinh cho phù hợp với tuổi lớn
của trẻ.
Đây có lẽ là vấn đề nóng bỏng nhất trong phương thức trị liệu
hội chứng bất toàn trong tạo sinh xương. Như đã đề cập ở trên,
mục đích tìm kiếm một hoá trị liệu hiện nay không nhằm để sửa
chữa được khả năng sản xuất chất collagen của cơ thể mà là nhằm
vào việc làm gia tăng sức bền của xương cũng như cải thiện tầm
vóc cho bệnh nhân.
Tuy nhiên, nhiều loại thuốc được dùng để điều trị cho bệnh nhân
bệnh OI gần như là không đạt được một kết quả khả quan nào. Một
nghiên cứu tổng hợp [7] đánh giá hiệu quả điều trị của khoảng 20
loại thuốc khác nhau bao gồm các nhóm hormone, vitamin, khoáng
chất và một số hoá chất ngoại sinh, nhưng hầu như không có loại
nào chứng tỏ là hiệu quả sau một thời gian điều trị. Các loại
thuốc này là: calcitonin, cortisone, oestrogens, androgens,
thyroxine; các vitamin A, C và D; aluminium, calcium, fluoride,
magnesium, phosphate và strontium; arsenic, các chất phóng xạ,
acid HCl pha loãng và chiết xuất từ xương bò con.
Vấn đề tầm vóc của bệnh nhân trong bệnh OI là một vấn đê
nghiêm trọng, vì các thể trung bình đến nặng, bệnh nhân đều có
tầm vóc rất thấp. Cho đến nay khoa học cũng chưa tìm được lý do
tại sao. Thế nhưng, về mặt sinh lý học, một loại hormone gọi là
hormone tăng trưởng (growth hormone) nó đóng vai trò giúp cho cơ
thể phát triển chiều cao đặc biệt trong giai đoạn dậy thì. Cho
nên các nhà khoa học hướng đến việc thử nghiệm sử dụng chất này
cho những bệnh nhân OI có tầm vóc thấp.
Cho đến hiện nay, việc sử dụng hormone tăng trưởng đối với chứng
OI vẫn còn đang bắt đầu thử nghiệm lâm sàng ở giai đoạn 2 (Mỗi
một quy trình thử nghiệm lâm sàng phải trải qua 4 giai đoạn),
tức là quy mô nghiên cứu mở rộng hơn, số lượng đối tượng nghiên
cứu lớn hơn, từ 100-300 người, và nghiên cứu không chỉ dừng lại
ở tác dụng mà còn nghiên cứu độ an toàn, tác dụng phụ của thuốc.
Kỳ thực giai đoạn 2 của nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng của
hormone tăng trưởng chỉ mới trong giai đoạn trứng nước, có nghĩa
là vẫn còn đang tìm kiếm đối tượng bệnh nhân tình nguyện (đủ
tiêu chuẩn nghiên cứu) tham gia nghiên cứu.
Thế nhưng, nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng sử dụng hormone tăng
trưởng giai đoạn 1 cũng không cho một kết quả nào khả quan hơn.
Trong một nhóm có 22 trẻ (13 trai, 9 gái) bị OI đang tuổi dậy
thì [8], 10 trẻ bị OI loại III, 10 loại IV và 2 trẻ bị loại I.
Thử nghiệm lâm sàng này đặt ra nhiều mục tiêu, như xem các trẻ
bị OI có bị thiếu hụt hormone tăng trưởng không, chúng có đáp
ứng với kích thích tăng hormone không và xem có đáp ứng với điều
trị bằng hormone tăng trưởng không. Nhưng đối với mục tiêu đánh
giá tác động của hormone tăng trưởng thì chỉ mới tiến hành ở mức
độ thử nghiệm tiên phong (pilot), tức là chỉ nghiên cứu trên một
nhóm ít bệnh nhân xem nó có kết quả hứa hẹn gì không; thì nghiên
cứu tiên phong này chỉ có 7 trẻ, một sử dụng hormone tăng trưởng
ngoại sinh và 6 trẻ được dùng clonidine, trong một thời gian 6
tháng. Kết quả sau đó cho thấy 1 trẻ dùng hormone tăng trưởng
ngoại sinh và 3/6 trẻ còn lại có tăng chiều cao trung bình
4.7cm/năm so với tỷ lệ tăng trưởng của trẻ trước điều trị. Như
vậy có nghĩa là cũng chỉ có một vài trẻ có đáp ứng tăng trưởng
chiều cao trong một thời gian theo dõi, một vài thì không; còn
về lâu về dài thì không rõ. Chính vì vậy mà thử nghiệm lâm sàng
dùng hormone tăng trưởng nhằm để cái thiện chiều cao của trẻ bị
chứng bất toàn trong tạo sinh xương vẫn còn đang tiếp tục với số
lượng bệnh nhân nghiên cứu lớn hơn và với thời gian theo dõi dự
kiến sẽ lâu hơn.
Việc sử dụng hormone tăng trưởng có thể đạt kết quả tốt hơn khi
kết hợp với thuốc chống huỷ xương nhóm bisphosphonates, nhưng
vẫn còn đang trên con đường tìm tòi và thử nghiệm.
Trong những năm cuối XX và đầu XXI, một trong những thử
nghiệm hoá dược trong điều trị OI được coi là hứa hẹn nhất hiện
nay đó là sử dụng thuốc ngăn cản quá trình huỷ xương
(antiresorption agent) nhóm bisphosphonates, mà thuốc chủ yếu là
pamidronate. Từ 1997, có tất cả 18 nghiên cứu quan sát sử dụng
bisphosphonates điều trị trong bệnh OI, số lượng bệnh nhân trong
một nghiên cứu ít nhất là 4 [9] và nhiều nhất là 165 [10]; trong
số đó có 15 nghiên cứu sử dụng pamidronate.
Đặc điểm nổi bật cần chú ý trong các nghiên cứu này là:
- Tất cả các nghiên cứu này đều không phải là các thử nghiệm lâm sàng (bằng chứng có giá trị cao nhất trong bậc thang giá trị khoa học) mà chỉ là các nghiên cứu quan sát (chỉ có giá trị gợi ý nhất định).
- Pamidronate truyền tĩnh mạch là chủ yếu.
- Tuổi nghiên cứu của bệnh nhân dao động khá rộng giữa các nghiên cứu, nhưng đa số là tuổi nhỏ đến vị thành niên.
- Thời gian theo dõi trung bình là khoảng 1 đến 3 năm.
- Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân mắc OI thể trung bình nặng đến nặng.
Hiệu quả tác dụng của điều trị (dùng pamidronate truyền tĩnh mạch) không đồng bộ giữa các nghiên cứu quan sát này, và hiệu quả cũng không xảy ra ở đại đa số bệnh nhân trong mỗi nghiên cứu: có biểu hiện giảm đau sau vài tuần điều trị [9-14], có cảm giác khoẻ khoắn hơn [15], tăng lực cơ [16]. Một số các nghiên cứu cho thấy mật độ xương đốt sống tăng hơn những bệnh nhân không được điều trị [11, 15, 17-19]. Và cũng nên nhắc lại rằng, các triệu chứng này chỉ là kết quả của các nghiên cứu quan sát; chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai và bị chi phối bởi các yếu tố gây nhiễu khác, mà bản chất của một nghiên cứu quan sát không cho phép kiểm soát để có câu trả lời thoả đáng. Nhưng dù sao cũng là những điểm nên ghi nhận để kiểm chứng.
Trong điều trị bệnh OI, mục tiêu tối hậu là làm giảm tỷ lệ
gãy xương, ngăn cản quá trình làm biến dạng các xương dài gây ra
gù vẹo cột sống cũng như cong vẹo chi, và cải thiện chức năng
phụ thuộc vào khung xương (hô hấp, vận động). Thế nhưng các
nghiên cứu về vấn đề mấu chốt này lại rất hiếm hoi [20]. Thực
tế, mới chỉ có hai nghiên cứu đề cập đến vấn đề hậu quả gãy
xương của OI [11, 16]. Hai nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ mắc
bệnh trong số các bệnh nhân dùng pamidronate thấp hơn so với
những bệnh nhân không dùng. Tuy nhiên, cũng cần phải cân đối
nhiều yếu tố tác động đến tỷ lệ gãy xương như tuổi tác chênh
lệch giữa hai nhóm, can thiệp điều trị khác (như phẫu thuật, vật
lý trị liệu) giữa hai nhóm khác nhau cũng như các đặc tính khác
mà trong nghiên cứu quan sát không có khả năng điều chỉnh [20].
Chỉ có một nghiên cứu [11] trong số hai nghiên cứu này cho thấy
tỷ lệ tử vong trong số bệnh nhân dùng pamidronate thấp hơn so
với số bệnh nhân không dùng. Thế nhưng tỷ lệ tử vong giảm này
chỉ có một phần là do tác dụng của pamidronate mà thôi. Cho đến
hiện nay, chưa có câu trả lời, liệu pamidronate có tác dụng
phòng ngừa biến dạng xương dài hay di chứng gù vẹo hay không so
với những bệnh nhân cùng điều kiện bệnh lý mà không dung thuốc
[20].
Trong khi hiệu quả của việc sử dụng pamidronate điều trị bệnh
nhân OI còn chưa ngã ngũ và chưa có bằng chứng đáng tin cậy thì
không ít các tác dụng phụ cũng xày ra, chủ yếu ở bệnh nhi và vị
thành niên (đối tượng chủ yếu cần điều trị OI). Tai biến sớm
trong điều trị pamidronate là giảm nồng độ calcium huyết thanh.
Nhiều bệnh nhân khác có biểu hiện như cúm.
Điều đáng ngại nhất của việc sử dụng nhóm bisphosphonates trong
điều trị OI là tai biến về xa. Do đặc điểm của bệnh là bệnh di
truyền, do đó điều trị không thể nhất thời mà phải điều trị dài
hạn. Thế nhưng cho đến hiện nay, giới chuyên môn lo ngại tác hại
khi sử dụng bisphosphonates lâu dài [21]. Về cơ chế, các loại
bisphosphonates là thuốc chống quá trình huỷ xương, làm giảm
tình trạng thủng nát bè xương, và trong quá trình đó chúng ức
chế các biểu tố luân chuyển xương (bone turnover markers), hậu
quả gây tăng quá trình khoáng hoá và tích luỹ các vi tổn thương.
Chính quá trình khoáng hoá làm cho xương trở nên dòn hơn. Điều
này đã được minh chứng thông qua đo các yếu tố cơ sinh của xương
[22]. Một khi quá trình huỷ xương bị ức chế mạnh thì nó sẽ gây
hiệu ứng ngược, ngăn cản quá trình sửa chữa các thương tổn vì
không có hoạt động của huỷ cốt bào. Trên nghiên cứu thực nghiệm
ở động vật cho thấy dùng bisphosphonates liều cao gây ra sự tích
tụ các vi thương tổn của xương [23]. Nghiên cứu trên chuột cũng
cho thấy dùng bisphosphonates gây ức chế phát triển xương dài
[24]. Về nguyên lý sinh học, quá trình tái cấu trúc xương có lẽ
là quá trình loại bỏ những vi thương tổn của xương cũ và thay
thế chất xương mới vào. Nếu quá trình này bị dừng lại, thì
thương tổn tích luỹ và cuối cùng thì làm cho xương yếu hơn [25].
Cho dù trên đây là những lập luận về mặt sinh học, cơ chế và
những thực nghiệm. Khoa học vẫn chưa có câu trả lời liệu tác
dụng xấu đó có xảy ra trên cơ thể người hay không. Tuy nhiên
điều quan trọng là chúng ta phải biết để tìm hiểu thêm, nhất là
đối với những bệnh nhân OI là đối tượng cần dùng thuốc kéo dài.
Tóm lại, cho đến hiện nay, vẫn còn quá nhiều câu hỏi chưa có câu
trả lời cho việc sử dụng pamidronate để điều trị bệnh nhân bất
toàn trong tạo sinh xương [20]: Lợi ích lâu dài của pamidronate
là gì? Thời gian sử dụng pamidronate là bao lâu để có thể đạt
được kết quả tối ưu mà tác dụng phụ tối thiểu? Liệu thuốc có thể
dùng được suốt đời không? Nếu không, điều gì sẽ phát sinh sau
khi ngừng điều trị thuốc? Cùng là một nhóm bisphosphonates với
nhau, hiện nay chỉ có pamidronate là được nghiên cứu nhiều hơn
cả, vậy những loại khác cùng họ bisphosphonates mà giá thành rẻ
hơn, liệu có hiệu quả như pamidronate không?
Các câu hỏi này chỉ có thể giải đáp được bằng các nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng được thiết kế công phu, kỹ lưỡng, mà trên hết là
rất tốn kém. Cho đến hiện nay, chưa có một thử nghiệm lâm sàng
nào tiến hành nghiên cứu tác dụng của pamidronate đối với bệnh
nhân bất toàn trong tạo sinh xương cả.
Một dạng điều trị khác được cho là có tiềm năng đối với bệnh
nhân bất toàn trong tạo sinh xương đó là việc cấy tuỷ sử dụng tế
bào bình thường hoặc thậm chí cả mô bào. Tuy nhiên các nghiên
cứu này còn chỉ ở mới dạng phôi thai.
Việc tác động vào hệ thống di truyền chỉ huy việc sản xuất
collagen là một vấn đề thiên nan vạn nan, nhưng chúng ta vẫn có
quyền hy vọng vào sự tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật.
Tập thể dụng là biện pháp tốt để giúp cho người bệnh tăng
cường độ chịu lực của xương và sức lực của cơ bắp, là các yếu tố
giúp ngăn ngừa gãy xương.
Bơi lội có lẽ là một biện pháp tập luyện cơ xương khớp toàn thân
tốt và thích hợp nhất đối với bệnh nhân mắc OI, vì vận động dưới
nước ít bị nguy cơ gãy xương. Đối với những người đi lại được
thì đi bộ là một loại hình tập thể dục khá thích hợp. Tuy nhiên,
với từng cá nhân, việc tư vấn với các chuyên gia về lý trị liệu
và phục hồi chức năng chuyên khoa là cần thiết để có thể có từng
mô hình tập luyện thích hợp cho từng cá nhân một. Điều này chỉ
có thể thực hiện ở những nơi có đội ngũ chuyên môn chuyên khoa
sâu, chuyên biệt hoá và nhân viên được huấn luyện kỹ về chứng
bất toàn trong tạo sinh xương.
Duy trì trọng lượng cơ thể cũng là một yếu tố quan trọng, cho
nên vai trò dinh dưỡng trong bệnh OI cần phải lưu tâm. Bệnh nhân
cũng cần phải thực hiện một lối sống lành mạnh là không hút
thuốc lá, tránh uống cà phê, rượu, tránh dùng các loại thuốc
chống viêm có corticosteroid.
Nói tóm lại, bệnh bất toàn trong tạo sinh xương là một bệnh lý
di truyền, gây hậu quả lên sức bền của khung xương nặng hay nhẹ
tuỳ theo thể bệnh. Cho đến hiện nay, vẫn chưa có phương thức
điều trị triệt để. Bệnh dù không thể chữa khỏi, nhưng vẫn có một
số biện pháp quản lý nhằm hạn chế biến chứng của bệnh, làm giảm
tần suất gãy xương cũng như cải thiện các chức năng khác của cơ
thể.
Đặc biệt, gần đây trong nước rộ lên một số thông tin cho
rằng: “Trong vài năm gần đây loại thuốc bisphosphnate
pamidronate (biệt dược Aredia của hãng Novartis) được đưa vào sử
dụng và đã đạt kết quả khả quan. Chế phẩm này làm tăng tỷ trọng
xương, giảm số lần gẫy xương, giảm biến dạng xương và giảm triệu
chứng đau xương một cách rõ rệt ở bệnh nhân” là một thông tin
không đầy đủ, gây tình trạng sai lạc thông tin và gây hiểu nhầm.
Cần phải thừa nhận, sử dụng pamidronate điều trị bệnh không phải
là không có tác dụng nhưng những hiệu quả tác dụng đó còn rời
rạc, không đủ bằng chứng và chưa thể áp dụng để điều trị đại trà
cho bệnh nhân mà chỉ còn trong vòng nghiên cứu. Dẫu rằng việc
điều trị đơn lẻ có ghi nhận được một số kết quả nào đó đi nữa
thì cũng còn chứa nhiều yếu tố ngoại lai và ngẫu nhiên hoặc chỉ
là một vài trường hợp lâm sàng đơn lẻ mà thôi. Đem kết quả trên
các nghiên cứu quan sát, ít có giá trị khoa học, trên một nhóm
nhỏ quần thể bệnh nhân đặc biệt để vào điều trị cho một bệnh
nhân cụ thể hoặc cho đại trà bệnh nhân với các mặt bệnh khác
nhau và đặc điểm cá thể khác nhau là một suy diễn ngoại suy
không có tinh khoa học, Cần phải nghiên cứu cẩn thận, trước khi
cho bệnh nhân một niềm tin mà giá trị khoa học chưa được chứng
minh đầy đủ, cũng như mức độ tác hại của thuốc chưa được hiểu
rõ.
Nằm trong chiến lược “Sức khoẻ con người 2010”, trong năm 2001,
bộ Y tế Mỹ đã chi 1 triệu đô la cho chương trình hoạch định
nghiên cứu 9 mục tiêu chuyên biệt đối với bệnh bất toàn trong
tạo sinh xương, nhằm để hiểu rõ hơn cơ chế chuyển hoá các hoá
sinh trong bệnh, cơ chế tác động của một số thuốc trong đó có
bisphosphonates lên xương, về di truyền học. Giới khoa học gia
vẫn đang nổ lực nghiên cứu tìm ra phương thức khả quan hơn để
kiểm soát và quản lý bệnh
12/06-01/07
Trong khuôn khổ bài viết trên thông tin đại chúng, chúng tôi
lược bớt phần tài liệu tham khảo. Do đó bạn đọc muốn nghiên cứu
sâu, xin liên lạc với tác giả để có thêm phần tài liệu tham khảo
bổ sung (bằng tiếng Anh).
Tài liệu tham khảo:
1. National Institute of Health Osteoporosis and Related Bone
diseases, What is Osteogenesis Imperfecta? at
http://www.niams.nih.gov/bone, accessed Dec 18, 2006. (2006).
2. McPhee SJ, Lingappa VR, Ganong WF, In "Pathophysiology of
Disease: An Introduction to Clinical Medicine" (4th ed.).
McGraw-Hill Companies(2003).
3. Sillence DO, Senn A, Danks DM, Genetic heterogeneity in
osteogenesis imperfecta. J Med Genet. 16, 101-116 (1979).
4. Glorieux FH, Ward LM, Rauch F, Lalic L, Roughley PJ, Travers
R, Osteogenesis imperfecta type VI: a form of brittle bone
disease with a mineralization defect. J Bone Miner Res. 17,
30-38 (2002).
5. Glorieux FH, Rauch F, Plotkin H, Ward L, Travers R, Roughley
P, Lalic L, Glorieux DF, Fassier F, Bishop NJ, Type V
osteogenesis imperfecta: a new form of brittle bone disease. J
Bone Miner Res. 15, 1650-1658 (2000).
6. Ward LM, Rauch F, Travers R, Chabot G, Azouz EM, Lalic L,
Roughley PJ, Glorieux FH, Osteogenesis imperfecta type VII: an
autosomal recessive form of brittle bone disease. Bone. 31,
12-18 (2002).
7. Albright JA, Systemic treatment of osteogenesis imperfecta.
Clin Orthop Relat Res, 88-96 (1981).
8. Marini JC, Bordenick S, Heavner G, Rose S, Hintz R, Rosenfeld
R, Chrousos GP, The growth hormone and somatomedin axis in short
children with osteogenesis imperfecta. J Clin Endocrinol Metab.
76, 251-256 (1993).
9. Brumsen C, Hamdy NA, Papapoulos SE, Long-term effects of
bisphosphonates on the growing skeleton. Studies of young
patients with severe osteoporosis. Medicine (Baltimore). 76,
266-283 (1997).
10. Rauch F, Plotkin H, Travers R, Zeitlin L, Glorieux FH,
Osteogenesis imperfecta types I, III, and IV: effect of
pamidronate therapy on bone and mineral metabolism. J Clin
Endocrinol Metab. 88, 986-992 (2003).
11. Glorieux FH, Bishop NJ, Plotkin H, Chabot G, Lanoue G,
Travers R, Cyclic administration of pamidronate in children with
severe osteogenesis imperfecta. N Engl J Med. 339, 947-952
(1998).
12. Plotkin H, Rauch F, Bishop NJ, Montpetit K, Ruck-Gibis J,
Travers R, Glorieux FH, Pamidronate treatment of severe
osteogenesis imperfecta in children under 3 years of age. J Clin
Endocrinol Metab. 85, 1846-1850 (2000).
13. Rauch F, Plotkin H, Zeitlin L, Glorieux FH, Bone mass, size,
and density in children and adolescents with osteogenesis
imperfecta: effect of intravenous pamidronate therapy. J Bone
Miner Res. 18, 610-614 (2003).
14. Zeitlin L, Rauch F, Plotkin H, Glorieux FH, Height and
weight development during four years of therapy with cyclical
intravenous pamidronate in children and adolescents with
osteogenesis imperfecta types I, III, and IV. Pediatrics. 111,
1030-1036 (2003).
15. Astrom J, Beertema J, Reduced risk of hip fracture in the
mothers of patients with osteoarthritis of the hip. J Bone Joint
Surg Br. 74, 270-271 (1992).
16. Montpetit K, Plotkin H, Rauch F, Bilodeau N, Cloutier S,
Rabzel M, Glorieux FH, Rapid increase in grip force after start
of pamidronate therapy in children and adolescents with severe
osteogenesis imperfecta. Pediatrics. 111, e601-603 (2003).
17. Zacharin M, Bateman J, Pamidronate treatment of osteogenesis
imperfecta--lack of correlation between clinical severity, age
at onset of treatment, predicted collagen mutation and treatment
response. J Pediatr Endocrinol Metab. 15, 163-174 (2002).
18. Giraud F, Meunier PJ, Effect of cyclical intravenous
pamidronate therapy in children with osteogenesis imperfecta.
Open-label study in seven patients. Joint Bone Spine. 69,
486-490 (2002).
19. Lee YS, Low SL, Lim LA, Loke KY, Cyclic pamidronate infusion
improves bone mineralisation and reduces fracture incidence in
osteogenesis imperfecta. Eur J Pediatr. 160, 641-644 (2001).
20. Rauch F, Glorieux FH, Osteogenesis imperfecta. Lancet. 363,
1377-1385 (2004).
21. Srivastava T, Alon US, Bisphosphonates: from grandparents to
grandchildren. Clin Pediatr (Phila). 38, 687-702 (1999).
22. Currey JD, Effects of differences in mineralization on the
mechanical properties of bone. Philos Trans R Soc Lond B Biol
Sci. 304, 509-518 (1984).
23. Mashiba T, Turner CH, Hirano T, Forwood MR, Johnston CC,
Burr DB, Effects of suppressed bone turnover by bisphosphonates
on microdamage accumulation and biomechanical properties in
clinically relevant skeletal sites in beagles. Bone. 28, 524-531
(2001).
24. Schenk R, Eggli P, Fleisch H, Rosini S, Quantitative
morphometric evaluation of the inhibitory activity of new
aminobisphosphonates on bone resorption in the rat. Calcif
Tissue Int. 38, 342-349 (1986).
25. Ott SM, Long-term safety of bisphosphonates. J Clin
Endocrinol Metab. 90, 1897-1899 (2005).
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Nguyễn Đình Nguyên