 |
Little boy, bom nguyên tử
đầu tiên, nặng 9000 pounds, có sức mạnh 15 kiloton thuốc nổ TNT, nổ tại Hiroshima trong
Thế chiến thứ II |
Vũ khí hạt nhân (tiếng Anh:
nuclear weapon) là loại vũ
khí mà năng lượng của nó do
các phản ứng phân hạch
hoặc/và nhiệt hạch gây ra.
Một vũ khí hạt nhân nhỏ nhất
cũng có sức công phá lớn hơn
bất kỳ vũ khí quy ước nào.
Vũ khí có sức công phá tương
đương với 10 triệu tấn thuốc
nổ có thể phá hủy hoàn toàn
một thành phố. Nếu sức công
phá là 100 triệu tấn (mặc dù
hiện nay chưa thể thực hiện
được) thì có thể phá hủy một
vùng với bán kính 100 - 160
km. Cho đến nay, mới chỉ có
hai quả bom hạt nhân được
dùng trong Đệ nhị thế chiến;
quả bom thứ nhất được ném
xuống Hiroshima (Nhật Bản)
vào ngày 6/8/1945 có tên là
Little Boy được làm từ
uranium; quả bom cuối cùng
với cái tên Fat Man được ném
xuống
Nagasaki, cũng ở Nhật
Bản ba ngày sau đó, nó được
làm từ plutonium.
 |
Fat
Man, vũ khí hạt nhân thứ hai, nặng 10000 pounds và có
sức nổ 21 kiloton thuốc nổ TNT,
nổ trên Nagasaki, Nhật làm
thiệt mệnh 74000 nạn nhân.
|
Hơn hai ngàn vụ nổ hạt nhân
sau đó là do việc thử nghiệm
hạt nhân, chủ yếu là do các
quốc gia sau đây thực hiện:
Hoa Kỳ, Liên Xô, Pháp, Anh,
Trung Quốc, Ấn Độ và
Pakistan.
Các nước công bố có vũ khí
hạt nhân là Hoa Kỳ, Liên Xô,
Pháp, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ
và Pakistan. Thêm vào đó,
Israel có nhiều dấu hiệu
chứng tỏ sở hữu bom hạt nhân
mặc dù chưa bao giờ chính
thức thừa nhận. Gần đây,
CHDCND Triều Tiên cũng công
bố đã chế tạo được vũ khí
hạt nhân. Ukraina cũng có
thể sở hữu một quả bom hạt
nhân cũ từ thời Liên Xô do
sai lầm của thời kỳ hậu
chiến tranh lạnh. Việc phi
quân sự hóa năng lượng hạt
nhân đã được đề xuất cho rất
nhiều các ứng dụng dân sự.


Những nạn
nhân của bom nguyên tử (Thế
chiến II, Nagasaki và
Hiroshoma, Nhật)
Các loại vũ khí hạt nhân
Vũ khí hạt nhân đơn giản
nhất lấy năng lượng từ quá
trình phân hạch (còn gọi là
phân rã hạt nhân). Một vật
liệu có khả năng phân rã
được lắp ráp vào một khối
lượng tới hạn, trong đó khởi
phát một phản ứng dây chuyền
và phản ứng đó gia tăng theo
tốc độ của hàm mũ, giải
thoát một năng lượng khổng
lồ. Quá trình này được thực
hiện bằng cách bắn một mẩu
vật liệu chưa tới hạn này
vào một mẩu vật liệu chưa
tới hạn khác để tạo ra một
trạng thái gọi là siêu tới
hạn. Khó khăn chủ yếu trong
việc thiết kế tất cả các vũ
khí hạt nhân là đảm bảo một
phần chủ yếu các nhiêu liệu
được dùng trước khi vũ khí
tự phá hủy bản thân nó.
Thông thường vũ khí như vậy
được gọi là bom nguyên tử
(còn gọi là bom A).
Các loại vũ khí cao cấp hơn
thì lấy năng lượng nhiều hơn
từ quá trình nhiệt hạch (còn
gọi là tổng hợp hạt nhân).
Trong một vũ khí như thế
này, bức xạ nhiệt tia X từ
vụ nổ trong phân rã hạt nhân
được dùng để nung nóng và
nén đầu mang tritium,
deuterium, hoặc lithium mà
từ đó phản ứng nhiệt hạch
với năng lượng được giải
thoát lớn hơn rất nhiều xảy
ra. Thông thường vũ khí như
vậy được gọi là bom khinh
khí (còn gọi là
bom
hydrogen
hay bom H). Nó có thể giải
thoát một năng lượng lớn hơn
hàng trăm lần so với bom
nguyên tử.
Người ta còn tạo ra các vũ
khí tinh vi hơn cho một số
mục đích đặc biệt. Vụ nổ hạt
nhân được thực hiện nhờ một
luồng bức xạ neutron xung
quanh vũ khí hạt nhân, sự có
mặt của các vật liệu phù hợp
(như đồng hoặc vàng) có thể
gia tăng độ ô nhiễm phóng
xạ. Người ta có thể thiết kế
vũ khí hạt nhân có thể cho
phép neutron thoát ra nhiều
nhất; những quả bom như vậy
được gọi là bom neutron. Về
lý thuyết, các vũ khí phản
vật chất, trong đó sử dụng
các phản ứng giữa vật chất
và phản vật chất, không phải
là vũ khí hạt nhân nhưng nó
có thể là một vũ khí với sức
công phá cao hơn cả vũ khí
hạt nhân.
Ảnh hưởng của vụ nổ hạt
nhân
Năng lượng được giải thoát
từ vũ khí hạt nhân gây ra
bốn loại sau đây:
* Áp lực — 40-60% tổng năng
lượng
* Bức xạ nhiệt — 30-50% tổng
năng lượng
* Bức xạ ion — 5% tổng năng
lượng
* Bức xạ dư (bụi phóng xạ) —
5-10% tổng năng lượng
Lượng năng lượng giải thoát
của từng loại phụ thuộc vào
thiết kế của vũ khí và môi
trường mà vụ nổ hạt nhân xảy
ra. Bức xạ dư là năng lượng
được giải thoát sau vụ nổ,
trong khi các loại khác thì
được giải thoát ngay lập
tức.
Năng lượng được giải thoát
bởi vụ nổ bom hạt nhân được
đo bằng kiloton hoặc megaton
— tương đương với hàng ngàn
và hàng triệu tấn thuốc nổ
TNT (trinitrotoluen). Vũ khí
phân hạch đầu tiên có sức
công phá đo được là vài ngàn
kiloton, trong khi vụ nổ bom
khinh khí lớn nhất đo được
là 10 megaton. Trên thực tế
vũ khí hạt nhân có thể tạo
ra các sức công phá khác
nhau, từ nhỏ hơn kiloton ở
các vũ khí hạt nhân cầm tay
như Davy Crockett của Hoa Kỳ
cho đến 54 megaton như Tsar
Bomba của Liên Xô (bom này
chỉ đưa ra với mục đích
chính trị chứ khó thao tác
được).
Hiệu ứng quan trọng nhất của
vũ khí hạt nhân là áp lực và
bức xạ nhiệt có cơ chế phá
hủy giống như các vũ khí quy
ước. Sự khác biệt cơ bản là
vũ khí hạt nhân có thể giải
thoát một lượng lớn năng
lượng tại một thời điểm. Tàn
phá chủ yếu của bom hạt nhân
không liên quan trực tiếp
đến quá trình hạt nhân giải
thoát năng lượng mà liên
quan đến sức mạnh của vụ nổ.
Mức độ tàn phá của ba loại
năng lượng đầu tiên khác
nhau tùy theo kích thước của
bom. Bức xạ nhiệt suy giảm
theo khoảng cách chậm nhất,
do đó, bom càng lớn thì hiệu
ứng phá hủy do nhiệt càng
mạnh. Bức xạ ion bị suy giảm
nhanh chóng trong không khí,
nên nó chỉ nguy hiểm đối với
các vũ khí hạt nhân hạng
nhẹ. Áp lực suy giảm nhanh
hơn bức xạ nhiệt nhưng chậm
hơn bức xạ ion.
Phóng vũ khí hạt nhân đến
mục tiêu
Thuật ngữ vũ khí hạt nhân
chiến lược được dùng để chỉ
các vũ khí lớn với các mục
tiêu phát hủy lớn như các
thành phố. Vũ khí hạt nhân
chiến thuật là các vũ khí
hạt nhân nhỏ hơn được dùng
để phá hủy các mục tiêu quân
sự, viễn thông hoặc hạ tầng
cơ sở. Theo tiêu chuẩn hiện
đại thì các quả bom ném
xuống Hiroshima và Nagasaki
vào năm 1945 có thể được coi
là các vũ khí hạt nhân chiến
thuật (sức công phá là 15 và
21 kiloton), mặc dù, các vũ
khí hạt nhân chiến thuật nhẹ
hơn và nhỏ hơn đáng kể.
Các phương pháp phóng vũ khí
hạt nhân:
Bom hấp dẫn
Không một vũ khí hạt nhân
nào đủ tiêu chuẩn là bom gỗ
— đó là từ lóng mà quân đội
Hoa Kỳ dùng để chỉ một loại
bom hoàn thiện, không phải
bảo hành sửa chữa, không
nguy hiểm dưới mọi điều kiện
trước khi cho nổ. Bom hấp
dẫn là loại bom được thiết
kế để được thả xuống từ các
máy bay. Yêu cầu của loại
bom này là phải chịu được
các dao động và thay đổi về
nhiệt độ và áp suất của
không khí. Lúc đầu, các vũ
khí thường có một cái chốt
an toàn ở trạng thái đóng
trong quá trình bay. Chúng
phải thỏa mãn các yêu cầu về
độ ổn định để tránh các vụ
nổ hoặc rơi bất ngờ có thể
xảy ra. Rất nhiều loại vũ
khí có một thiết bị đóng
ngắt để khởi động quá trình
nổ. Các vũ khí hạt nhân của
Mỹ mà thỏa mãn các tiêu
chuẩn an toàn nói trên sẽ
được ký hiệu bởi chữ cái "B"
tiếp theo (không có dấu nối)
là các ký hiệu vật lý cần
thiết. Ví dụ bom B61 là một
loại bom như vậy, được Mỹ
chế tạo rất nhiều và lưu trữ
trong các kho chứa đạn dược
trong nhiều thập kỷ.
Có nhiều kỹ thuật ném bom
như thả bom tự do trong
không khí, thả bom bằng dù
với cơ chế cho nổ chậm để
máy bay ném bom có thời gian
thoát khỏi vùng nguy hiểm
khi bom nổ.
Những quả bom hấp dẫn đầu
tiên chỉ có thể được mang
bằng siêu pháo đài bay B-29.
Thế bom hệ tiếp theo vẫn rất
lớn và nặng, chỉ có các siêu
pháo đài bay B-52, máy bay
ném bom lớn V mới có thể
mang được. Nhưng vào giữa
những năm 1950, người ta có
thể chế tạo được các vũ khí
nhỏ, nhẹ hơn và có thể được
mang bằng các máy bay chiến
đấu kiêm ném bom bình
thường.

Máy bay thả bom B52Tính chất
Kích
thước
Sải cánh : 56,39 m
Chiều dài
: 48,03 m |
Khối
lượng
Khối lượng tối đa lúc khởi
động : 221 360 kg |
Thành
tích
Vận tốc tối đa : 960
km/h
Khoảng cách
đã vượt qua : 12 070 km |
Máy
4
động cơ phản lực
Pratt & Whitney J87-P-43W cỡ
5 080 kgp |
Tên lửa đạn đạo mang đầu
đạn hạt nhân
Các tên lửa đạn đạo là các
tên lửa sau khi phóng thì
chúng chỉ chịu ảnh hưởng của
lực hấp dẫn và lực cản của
không khí gây ra. Tên lửa
đạn đạo dùng để mang các đầu
đạn với tầm xa từ mười cho
đến vài trăm km. Các tên lửa
đạn đạo xuyên lục địa hoặc
các tên lửa đạn đạo vượt đại
châu được phóng từ các tàu
ngầm có thể theo các lộ
trình dưới quỹ đạo hoặc quỹ
đạo với tầm xa xuyên lục
địa. Các tên lửa đầu tiên
chỉ có thể mang một đầu đạn,
thường với sức công phá
khoảng megaton. Các tên lửa
như cậy yêu cầu phải có khả
năng hoạt động với tính
chính xác rất cao để đảm bảo
phá hủy mục tiêu.
Từ những năm 1970, các tên
lửa đạn đạo hiện đại được
phát triển với khả năng nhắm
tới mục tiêu với độ chính
xác cao hơn nhiều. Điều này
làm cho một tên lửa, trong
một lần phóng, có thể mang
đến hơn một chục đầu đạn và
nhắm tới các mục tiêu độc
lập với nhau. Mỗi đầu đạn có
thể có sức công phá vài
kiloton. Đây là một điểm
mạnh quan trọng của tên lửa
đạn đạo có nhiều đầu đạn. Nó
không chỉ cho phép phá hủy
các mục tiêu khác nhau, độc
lập với nhau mà còn có thể
cùng công phá một mục tiêu
theo kiểu bủa vây hoặc có
thể tác chiến với các vũ khí
chiến thuật khác để vô hiệu
hóa tất cả các hệ thống
phòng thủ của đối phương.
Vào những năm 1970, Liên Xô
công bố kế hoạch nhằm chế
tạo ra các tên lửa đạn đạo
nhiều đầu đạn. Số tên lửa
như vậy đủ lớn để cứ mỗi 19
giây đến 3 phút thì phóng
một tên lửa tới các thành
phố lớn của nước Mỹ, và việc
đó có thể được thực hiện
liên tục trong một giờ đồng
hồ.
Tên lửa mang đầu đạn ở trong
các kho lưu trữ đạn được của
Hoa Kỳ được ký hiệu bằng chữ
"W" ở đầu, ví dụ W61 có các
tính chất như B61 nói ở trên
nhưng có các yêu cầu về môi
trường khác hẳn.
Tên lửa hành trình mang
đầu đạn hạt nhân
Tên lửa hành trình có thể
mang đầu đạn hạt nhân và bay
ở độ cao rất thấp, khoảng
cách ngắn và được dẫn đường
bởi các hệ thống điều khiển
bên trong hoặc bên ngoài
(như hệ thống định vị toàn
cầu - GPS) làm cho chúng khó
có thể bị đối phương phát
hiện và ngăn chặn. Tên lửa
hành trình mang được trọng
lượng nhỏ hơn tên lửa đạn
đạo rất nhiều nên sức công
phá của đầu đạn mà nó mang
thường là nhỏ. Tên lửa hành
trình không thể mang nhiều
đầu đạn nên không thể công
phá nhiều mục tiêu. Mỗi tên
lửa như vậy chỉ mang một đầu
đạn mà thôi. Tuy nhiên, do
gọn nhẹ nên tên lửa hành
trình quy ước có thể được
phóng đi từ các bệ phóng di
động trên mặt đất, từ các
chiến hạm hoặc từ các máy
bay chiến đấu. Tên của các
đầu đạn dành cho tên lửa
hành trình của Mỹ không khác
biệt với tên của các đầu đạn
dành cho tên lửa đạn đạo.
Các phương pháp khác
Các phương pháp mang đầu đạn
hạt nhân khác gồm súng cối,
mìn, bom phá tàu ngầm, ngư
lôi,... Vào những năm 1950,
Hoa Kỳ còn phát triển một
loại đầu đạt hạt nhân với
mục đích phòng không có tên
là Nike Hercules. Sau đó, nó
được phát triển thành loại
tên lửa chống tên lửa đạn
đạo với đầu đạn lớn hơn.
Phần lớn các vũ khí hạt nhân
phòng không đều không được
dùng vào cuối những năm
1960, các bom phá tàu ngầm
không được dùng vào năm
1990. Tuy vậy, Liên Xô (và
sau đó là Nga) vẫn tiếp tục
duy trì tên lửa chống tên
lửa đạn đạo với đầu đạn hạt
nhân. Một loại vũ khí chiến
thuật nhỏ, nhẹ, hai người
mang (thường hay bị gọi nhầm
là bom xách tay) cũng khá
phổ biến mặc dù nó không
chính xác và không tiện lợi
lắm.
Xem danh sách vũ khí hạt
nhân để biết thiết kế các
loại vũ khí hạt nhân.
Lịch sử vũ khí hạt nhân
Những vũ khí hạt nhân đầu
tiên được Hoa Kỳ chế tạo
cùng với sự giúp đỡ của Anh
Quốc trong Đệ nhị thế chiến,
đó là một phần của
dự án
Manhattan tối mật. Lúc đầu,
việc chế tạo vũ khí hạt nhân
là sự lo sợ Đức Quốc xã có
thể chế tạo và sử dụng trước
quân đội đồng minh. Nhưng
cuối cùng thì hai thành phố
của Nhật Bản là Hiroshima và
Nagasaki lại là nơi chịu sức
tàn phá của những quả bom
nguyên tử đầu tiên vào năm
1945. Liên Xô chế tạo và thử
nghiệm vũ khí hạt nhân đầu
tiên vào năm 1949. Cả Hoa Kỳ
và Liên Xô đều phát triển vũ
khí hạt nhân nhiệt hạch vào
những năm giữa của thập niên
1950. Việc phát minh ra các
tên lửa hoạt động ổn định
vào những năm 1960 đã làm
cho khả năng mang các vũ khí
hạt nhân đến bất kỳ nơi nào
trên thế giới trong một thời
gian ngắn trở thành hiện
thực. Hai siêu cường của
chiến tranh lạnh đã chấp
nhận một chiến dịch nhằm hạn
chế việc chạy đua vũ khí hạt
nhân nhằm duy trì một nền
hòa bình mong manh lúc đó.
Vũ khí hạt nhân từng là biểu
tượng cho sức mạnh quân sự
và sức mạnh quốc gia. Việc
thử nghiệm hạt nhân thường
để kiểm tra các thiết kế mới
cũng như là gửi các thông
điệp chính trị. Một số quốc
gia khác cũng phát triển vũ
khí hạt nhân trong thời gian
này, đó là Anh Quốc, Pháp,
Trung Quốc. Năm thành viên
của câu lạc bộ các nước có
vũ khí hạt nhân đồng ý một
thỏa hiệp hạn chế việc phổ
biến vũ khí hạt nhân ở các
quốc gia khác mặc dù có ít
nhất hai nước (Ấn Độ, Nam
Phi) đã chế tạo thành công
và một nước (Israel) có thể
đã phát triển vũ khí hạt
nhân vào thời điểm đó. Vào
đầu những năm 1990, nước kế
thừa Liên Xô trước đây là
nước Nga cùng với Hoa Kỳ cam
kết giảm số đầu đạn hạt nhân
dự trữ để gia tăng sự ổn
định quốc tế. Mặc dù vậy,
việc phổ biến vũ khí hạt
nhân vẫn tiếp tục. Pakistan
thử nghiệm vũ khí đầu tiên
của họ vào năm 1998, CHDCND
Triều Tiên công bố đã phát
triển vũ khí hạt nhân vào
năm 2004. Vũ khí hạt nhân là
một trong những vấn đề trọng
tâm của các căng thẳng về
chính trị quốc tế và vẫn
đóng vai trò quan trọng
trong các vấn đề xã hội từ
khi nó được khởi đầu từ
những năm 1940. Vũ khí hạt
nhân thường được coi là biểu
tượng phi thường của con
người trong việc sử dụng sức
mạnh của tự nhiên để hủy
diệt con người.
Bài đọc thêm:
|