Những bài cùng tác giả
Bài này mong giới thiệu một công trình lý thuyết cơ bản về
vật lý của giáo sư Đàm Thanh Sơn ở Đại học Washington (Seatle, Mĩ) mà tạp
chí Physics Today tháng 5 năm 2010 đề cập và ca ngợi trong ba bài liên
tiếp, điều khá hiếm. Những tiên đoán và kết quả
tính toán của ông cùng cộng tác viên, gọi tắt là nhóm ĐTS[1]
vừa được hai thực nghiệm kiểm chứng thành công. Điều đáng chú ý là hai thực
nghiệm nói trên nằm ở hai thái cực, một bên với nhiệt độ cực kỳ lớn (hàng
tỷ lần tỷ độ tuyệt đối K) ở Trung tâm máy gia tốc ion
nặng tương đối tính (Relativistic Heavy Ion Collider,
RHIC), và một bên với nhiệt độ cực kỳ nhỏ (một vài phần
triệu độ K) ở Đại học Duke. Tuy đối cực đến như vậy mà hai thực nghiệm đều
quan sát được một dòng chảy gần hoàn hảo và đo lường được độ nhớt
h của nó: ở RHIC khi cho hạt
nhân của nguyên tử vàng va chạm nhau cực mạnh, và ở Đại học Duke khi để các
nguyên tử của Lithium đông lạnh cùng cực.
Điều này minh họa công trình phong phú của nhóm KSS mang
tính chất phổ cập, đáp ứng với nhiều hệ thống vật lý rất khác biệt. Nó đòi
hỏi các tác giả phải có một kiến thức vừa sâu sắc vừa tổng thể, bao trùm đa
ngành vật lý và thấu triệt nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau để đặt đúng
vấn đề, giải thích nó thoả đáng cùng tiên đoán những hiện tượng mới mẻ, quan
sát đo lường được bởi thực nghiệm. Công trình của nhóm ĐTS mở đường cho một
loạt nghiên cứu về những địa hạt tưởng chừng không chút liên hệ với nhau
(Thuỷ động lực học, Vũ trụ và Thiên văn vật lý, Siêu dây và Hạt, Siêu dẫn và
vật lý chất đặc, Chất hạt nhân) nhưng mang một đặc tính chung phổ quát và cơ
bản.
Trong cuốn “Kỷ Yếu Max Planck
“[2],
công trình trên đã được nhà vật lý Nguyễn Trọng Hiền ở Đại học Caltech nhắc
đến trong bài “Sự đo đạc hằng số Planck”, thực thế nhóm ĐTS chứng minh là độ
nhớt
h
tỷ lệ thuận với h, hằng số cơ bản Planck. Hằng số
h
của vật lý lượng tử, như ta biết đóng vai trò khai phóng, vừa làm nền móng
cơ bản cho khoa học vừa thú vị, thiết thực trong kỹ thuật và đời sống hàng
ngày. Theo J. A. Wheeler ước tính, một phần ba tổng
sản lượng kinh tế của cường quốc số một hiện nay có gốc nguồn từ những ứng
dụng trực tiếp của công nghệ lượng tử, điều này cho thấy biết bao ứng dụng
thực tiễn trong đời sống con người đã hầu như khởi đầu từ những công trình
nghiên cứu thuần cơ bản. Cũng trong cuốn Kỷ Yếu
này, nhiều lý thuyết cao siêu mà nhóm ĐTS hòa hợp để tìm kiếm sợi dây liên
đới giữa chúng - như thuyết Siêu dây, Nguyên lý Toàn ảnh , Lỗ đen lượng tử
phóng xạ ra ngoài chân trời tối kín - đều được phác họa trong bài “Tồn tại
chăng một Lý thuyết của Tất cả ? “ của giáo sư Cao Chi thuộc Viện Năng
lượng Nguyên tử Việt Nam.
Có lẽ đây là lần đầu tiên mà sự kết hợp hòa nhịp giữa hai
thuyết Siêu dây và Lỗ đen lượng tử trong một không-thời gian đa chiều khá xa
vời với đời sống bình thường đã diễn tả được một thực tại trên trái đất: với
tài tổng hợp mầu nhiệm các lý thuyết trừu tượng này, nhóm ĐTS đã giải thích
sự hiện hữu của một lớp các chất lỏng lượng tử cùng tính toán được độ nhớt
của chúng, điều mà cả hai thực nghiệm nói trên vừa kiểm định.
Mấy dặm sơn khê
1- Độ nhớt của một chất lỏng là đại lượng vật lý để chỉ
định tích chất đặc thù của dòng chảy, nôm na độ nhớt (hay độ ma sát) diễn tả
xu hướng chống lại lưu lượng nhẹ nhàng đều đặn của chất lỏng. Độ nhớt càng
nhỏ thì dòng chảy càng hoàn hảo, tuy vậy nước và ngay cả chất siêu lỏng (như
Helium siêu chảy có thể tự nhiên chảy ngược dòng để thoát khỏi ống chứa nó bởi lực
mao dẫn) cũng chưa phải là chất lỏng hoàn hảo. Xét về khía cạnh vi mô của
những phần tử cấu thành nên chất lỏng thì độ nhớt tỷ lệ nghịch với cường độ
của lực tương tác giữa những phần tử vi mô đó, lực càng lớn thì độ nhớt càng
nhỏ. Trái lại độ nhớt lớn vô hạn trong những chất khí lý tưởng, vì các phần
tử cấu thành khí loãng đó xa biệt nhau, chẳng tương tác với nhau do lực gắn
kết chúng rất nhỏ.
2- Entropi S (hay mật độ entropi s), một đại
lượng phổ biến trong nhiệt động học chỉ định mức độ hỗn loạn của một hệ vật
lý, nó che dấu phần nào sự hiểu biết khiếm khuyết của chúng ta về hệ vật lý
đó. Theo nguyên lý thứ hai của Nhiệt động học[3]
entropi của một hệ cô lập luôn luôn tăng trưởng, mọi vật đều có xu hướng
tiến về trạng thái hỗn loạn hơn lên. Entropi liên quan tới việc tính toán
ra con số chỉ định có bao nhiêu cách thức sắp xếp khả dĩ những thành phần
sơ cấp của một hệ vật lý mà không ảnh hưởng đến tính chất tổng thể vĩ mô
(như năng lượng hay áp suất) của hệ đó. Người cha của vật lý thống kê
Ludwig Boltzmann nhận xét rằng phép thống kê là gốc nguồn của nguyên lý thứ
hai trong nhiệt động học và entropi của một hệ tỷ lệ thuận với logarithm của
tổng số các cách thức sắp xếp mọi trạng thái sơ cấp vi mô khả dĩ của hệ đó[4].
3- Theo sự hiểu biết hiện nay thì quark và
electron là hai viên gạch sơ đẳng của vật chất. Qua sự trao đổi gluon giữa
các quark, chúng gắn kết với nhau để cấu tạo nên các hạt nhân nguyên tử, còn
electron trao đổi photon với quark sẽ dao động chung quanh quark để tạo nên
các nguyên tử. Định luật điều hành tương tác mạnh
của quark với gluon được gọi là Sắc động lực học lượng tử
(Quantum Chromodynamics hay QCD), ngôn từ vay mượn chữ Ðiện động
lực học lượng tử (Quantum Electrodynamics hay QED). Thuyết QED diễn tả
tương tác điện từ trong thế giới vi mô của các hạt cơ bản mang điện tích.
Hai danh từ sắc và điện để chỉ định hai tính chất lượng tử
riêng biệt, sắc tích (color charge) của quark và điện tích
(electric charge) của electron. Sắc động lực học lượng tử có một đặc tính
duy nhất và độc đáo mà các lực khác không có, đó là tính chất "Tự do Tiệm
tiến" (Asymptotic Freedom)[5].
Trái ngược với lực điện từ bị
giảm đi theo bình phương khoảng cách của hai điện tích (luật Coulomb), tính
"tự do tiệm tiến" của QCD khiến cho lực mạnh gắn quark với nhau không giảm
với khoảng cách giữa hai quark, càng tìm cách đẩy chúng ra xa nhau để tách
rời chúng thì thế năng gắn kết chúng lại càng mạnh hơn lên để kéo giữ chúng.
Nhờ đó có thể giải thích tại sao
ở nhiệt độ (hay năng lượng) bình thường trong đời sống hằng ngày thì quark
bị “cầm tù”
[6]
trong hạt nhân nguyên tử, chúng không sao thoát ra ngoài để lộ mặt, khác với
electron nhan nhản khắp nơi.
4- Trong những năm gần đây, các nhà vật lý tại RHIC đã tạo
ra được vật chất ở nhiệt độ cao chưa từng có trên Trái đất. Mục tiêu của thí
nghiệm này là tái tạo trạng thái vật chất từng tồn tại trong mấy phần triệu
giây đầu tiên sau vụ nổ lớn (Big Bang), từ đó khi nguội dần đã hình thành vũ
trụ chúng ta đang sống. Hiểu được pha ban đầu này của vật chất để tiến xa
hơn nữa, hoặc kiểm nhận hoặc bác bỏ những lý thuyết nhằm giải đáp nguồn gốc
của vũ trụ, từ đâu và như thế nào cái vô cùng bé (diễn tả bởi thuyết Trường
Lượng tử) sinh nở ra cái vô cùng lớn (diễn tả bởi thuyết Tương đối rộng).
Trong thời gian ngắn ngủi đầu tiên cực nóng ấy, các quark và gluon - theo
QCD với đặc tính Tự do Tiệm tiến - vì không gắn kết chặt chẽ
với nhau nên ở trạng thái nhầy nhẽo gọi là quark-gluon plasma (QGP). Chúng
chưa hợp lại để trở thành proton, neutron, rồi nguyên tử, phân tử và muôn
vật chung quanh ta khi vũ trụ nguội dần. Do tính Tự do Tiệm tiến,
lực QCD gắn kết các thành phần cơ bản của vật chất phải rất nhỏ ở thời điểm
ban đầu cực nóng nên QGP thông thường ra phải giống chất khí (xem đoạn 1),
nhưng thực nghiệm tại RHIC không thấy như vậy mà lại thấy chất lỏng, một
ngạc nhiên lớn !
Hoàn toàn khác với RHIC, thực nghiệm ở Đại học Duke thuộc
vào lãnh vực thủy động học, và vật lý siêu dẫn với dòng chảy của đông tụ
Bose-Einstein (hay của cặp Cooper liên kết hai electron có spin đối nghịch).
Nhóm ĐTS giải thích tại sao trong những trường hợp rất khác
biệt như vậy mà trạng thái của vật chất là chất lỏng và hơn nữa còn tính
toán được độ nhớt phổ quát
h của nó,
h chỉ phụ thuộc duy nhất vào
hai hằng số cơ bản (h của Planck và kB
của Boltzmann). Để đạt tới kết quả kỳ diệu này, các tác giả sử dụng và hòa
nhịp mấy lý thuyết sau đây:
A- Lý thuyết Siêu dây
cho rằng các hạt cơ bản của vật chất không phải là những điểm, mà
là những dao động khác nhau của một vật thể gọi là dây (1 chiều không gian).
Theo trải nghiệm bình thường thì không - thời gian chỉ có bốn chiều (3 cho
không gian và 1 cho thời gian). Vậy mà theo lý thuyết siêu dây thì không -
thời gian có tới những 10 chiều (hay 11 chiều của thuyết siêu dây mở rộng
gọi là thuyết M như Màng). Sáu (hay bảy) chiều dư đã cuộn lại giấu mình
thành một đa tạp có cấu trúc nhất định với kích thước lc cực
nhỏ, chỉ vào khoảng một phần triệu tỉ tỉ tỉ (10-
33) cm mà ta gọi là chiều dài Planck. Lý thuyết
Siêu dây hay Màng này được đề xuất để mở đường dung hòa hai trụ cột của vật
lý đương đại, Lượng tử và Tương đối rộng (thuyết này mô tả trọng lực). Thực
thế, ở thời điểm vô cùng bé 10-
41 giây (gọi là thời gian Planck) sau Big
bang, khi vũ trụ còn nhỏ nhoi với đường kính khoảng chiều dài Planck thì xảy
ra cuộc xung đột mạnh mẽ giữa hai lý thuyết trụ cột nói trên vì lượng tử là
cả một vũ đài náo nhiệt, sôi sục thăng giáng liên hồi còn mọi sự lại trơn
tru theo thuyết tương đối rộng. Sự dung hòa hai trụ cột nói trên sao cho
chúng tương thích với nhau mang tên là thuyết hấp dẫn lượng tử (quantum
gravity), đó là cả một quá trình nghiên cứu gian lao chưa đến hồi chung kết
và thuyết Siêu dây được coi là ứng cử viên sáng láng nhất trong quá trình
dung hòa này.
B- Nguyên lý Toàn ảnh.
Trong quang học như ta biết có một phương pháp gọi là toàn ảnh để ghi một
vật thể 3 chiều bằng một ảnh 2 chiều. Như vậy mọi thông tin mô tả vật thể ba
chiều (3d) có thể mã hóa trong mặt biên hai chiều (2d). Đem nguyên lý toàn
ảnh áp dụng vào thuyết siêu dây, Gerard ’t Hooft cho rằng ta có thể thay
thế cách mô tả thuyết hấp dẫn lượng tử (ngự trị trong một vùng không-thời
gian d+1 chiều) bằng một lý thuyết phi hấp dẫn (như QCD của quark chẳng hạn) ở mặt biên d chiều. Ta
gọi nó là phép đối ngẫu toàn ảnh (holographic dual), hơn nữa đó lại
là một đối ngẫu “mạnh «
yếu”, nghĩa là một thuyết có hằng số tương tác liên kết mạnh thì thuyết đối
ngẫu của nó lại có hằng số tương tác liên kết yếu ở chiều nhỏ hơn, và ngược
lại. Câu chuyện xảy ra như sau:
Tóm lược
- Nhóm ĐTS đã sử
dụng lý thuyết Siêu dây (qua lỗ đen bức xạ) để lý giải một vấn đề của vật lý
thực nghiệm với năng lượng cao cũng như thấp và tìm ra công thức phổ quát
cho độ nhớt của dòng chảy lỏng ở trái đất ngày nay cũng như ở giây phút ban
đầu của vũ trụ nguyên thủy.

Máy gia tốc
RHIC (NewYork, Mĩ)
(a) Tổng quan nhìn từ trên cao, (b) trong hầm sâu của
máy, ống dẫn hai chùm ion va chạm nhau, (c) và (d) hàng ngàn vết của các
hạt bắn ra trong hai máy dò PHENIX và STAR.
[1]
P.Kovtun, D.T. Son, A. O. Starinets, Phys. Rev. Lett
94, 111601 (2005); D.T. Son and A. O. Starinets, Ann. Rev. Nucl. Part.
Sci. vol. 57, 95 (2007).
[2]
Max Planck, Người khai sáng thuyết lượng tử, nxbTri thức Hanoi (2008).
[3]
Nguyên lý thứ nhất của nhiệt động học là định luật bảo toàn năng lượng.
[4]
Hãy lấy một thí dụ để minh họa khái niệm entropi liên đới đến sự hỗn
loạn. Trong một bàn cờ tướng gồm 10 x 10 = 100 ô vuông, mở đầu ta để n
con bọ chét trên một ô nào đó và ta để cho chúng tự do nhảy. Sau một
thời gian, chúng được phân phối trên tất cả các ô vuông, vậy trạng thái
cuối cùng rõ ràng hỗn loạn hơn trạng thái ban đầu. Ta có thể định lượng
sự tăng trưởng của mức độ hỗn loạn như sau. Ở trạng thái cuối cùng, mỗi
bọ chét có thể ở bất kỳ một trong 100 ô, vậy con số các trạng thái có
thể có đối với một con bọ chét là 100, nếu có 2 con bọ chét thì tổng
cộng các trạng thái của chúng là 100 x 100 hay 1002 và
với n bọ thì tổng số các cấu hình khả dĩ xảy ra cho chúng là 100n.
So với trạng thái ban đầu với duy nhất một cấu hình (n con bọ chét chỉ ở
trong một ô vuông chọn sẵn) thì ta thấy ngay sự tăng trưởng hỗn loạn ở
trạng thái cuối cùng. Một cách
tổng quát hơn, nếu diện tích (hay thể tích) của trạng thái cuối cùng
tăng lên r lần so với trạng thái ban đầu thì tổng số
W
các cấu hình khả dĩ xảy ra cho n phần tử độc lập của một hệ vật lý
sẽ tăng lên rn, và ta biết
log (rn) = n log (r). Entropi
S = kB log
W
với kB là hằng số Boltzmann.
[5]
Giải Nobel vật lý 2004 vinh tặng H. D. Politzer, D. J. Gross và F.
Wilczek đã khám phá ra đặc tính Tự do tiệm
tiến của QCD. Chi tiết chứng minh Tự do
tiệm tiến của QCD có thể tìm trong chương 15 của Elementary
Particles and their Interactions, Concepts and Phenomena của Hồ Kim
Quang và Phạm Xuân Yêm, nxb Springer, Berlin, New York (1998). Cụ thể tự
do tiệm tiến có nghĩa là hằng số tương tác mạnh gs của quark
với gluon trong QCD phải giảm đi với năng lượng E của chúng, gs
(E) ~ 1/ log (E). Khi năng lượng tăng "tiệm tiến" đến vô
hạn, E → ∞ thì gs (E) → 0, tương tác gắn bó quark mất đi và
quark được tự do. Đó là trường hợp ta có thể thấy quark ở những
máy gia tốc cực kỳ mạnh, hay ở trên các thiên thể đang bùng phá.
[6]
Ngược lại ta suy đoán ra (nhưng chưa chứng minh nhất quán được) là khi E
nhỏ thì gs (E) lớn (E → 0 thì gs (E) → ∞), tính
chất này được gọi là nô lệ hồng ngoại (infrared slavery) nghĩa là
tìm quark với ánh sáng hồng ngoại (năng lượng nhỏ) không nổi, quark bị
cầm tù trong vật chất ở nhiệt độ bình thường. Viện toán học Clay (Clay
Mathematics Institute) treo giải một triệu dollars cho ai chứng minh
được tính nô lệ hồng ngoại của QCD. Cũng viện Clay năm 2004 đã vinh tặng
hai giáo sư Gérard Laumon và Ngô Bảo Châu giải nghiên cứu hàng năm vì
chứng minh được một trường hợp đặc biệt của bổ đề Langlands.
|