Những bài cùng tác giả
Thông tin trên báo chí trong thời gian qua cho biết hàm lượng đạm trong một số
sữa mà các nhà sản xuất quảng cáo trên bao bì không đúng với hàm lượng thật. Hàm
lượng đạm thật trong các sản phẩm này được đánh giá là “siêu thấp. Nhưng đọc kĩ
các thông tin trên báo, tôi lại nghĩ hàm lượng đạm trong các sản phẩm sữa đó quá
cao, hay ít ra là cao hơn những chuẩn quốc tế đề ra. Vấn đề hàm lượng đạm quá
cao đặt ra câu hỏi về các thành phần dinh dưỡng khác trong các sản phẩm sữa này
có thể bất bình thường và có khả năng tác động tiêu cực đến sức khỏe.
Không cần nói ra, ai cũng biết rằng sữa là một nguồn dinh dưỡng quan trọng cho
trẻ trong thời kì tăng trưởng. Dinh dưỡng trong những năm đầu cuộc sống có ảnh
hưởng đến sự phát triển của cơ thể và bệnh tật về sau. Sữa mẹ là một nguồn dinh
dưỡng lí tưởng nhất cho trẻ sơ sinh, bởi vì sữa mẹ cung cấp đầy đủ các chất đạm,
khoáng và carbohydrate cần thiết và an toàn để cơ thể phát triển. Sữa mẹ còn có
khả năng bảo vệ trẻ chống các bệnh nhiễm trong quá trình phát triển. Chính vì
thế mà các nhà y học khuyến khích các bà mẹ cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu
sau khi sinh.
Nhưng một số bà mẹ thiếu sữa, hay do một lí do bất khả kháng nào đó, không thể
cho con mình bú sữa, thì sữa công nghiệp là một nguồn dinh dưỡng cũng quan trọng
không kém sữa mẹ. Sữa công nghiệp được sản xuất bằng qui trình kĩ nghệ, và mô
phỏng theo các thành phần dinh dưỡng trong sữa mẹ. Các thành phần dinh dưỡng
trong sữa có thể chia thành 4 nhóm chính: đạm (protein), chất béo, carbohydrate,
và chất khoáng (bao gồm calcium và các sinh tố A, C và phosphorus). Vì vai trò
đặc biệt của sữa đối với sự phát triển của trẻ (và ý nghĩa nòi giống dân tộc),
cho nên hàm lượng và phẩm chất của các chất dinh dưỡng này phải được kiểm soát
chặt chẽ. Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Lương nông thế giới (FAO), và các
hiệp hội nhi khoa đã đề ra những qui định về hàm lượng các chất dinh dưỡng tối
thiểu cần có trong sữa (1), và đề nghị các nhà sản xuất phải ghi rõ hàm lượng
ngoài bao bì (1,2).
Tuần qua, qua báo chí, công chúng mới biết rằng có nhiều sữa hiện lưu hành trên
thị trường có hàm lượng đạm không giống như những gì nhà sản xuất công bố. Trong
số 99 mẫu sữa được Viện Vệ sinh y tế công cộng kiểm nghiệm, có đến 37 mẫu có hàm
lượng đạm thấp hơn hàm lượng ghi trên bao bì! Rất dễ hiểu khi công chúng phản
ứng rất gay gắt trước thông tin này.
Thông tin mù mờ
Một thông tin khác cho biết gần 100% mẫu sữa ở TP.HCM có hàm lượng đạm thấp. Tuy
nhiên, đọc kĩ các thông tin trong bài báo, người viết bài này không tìm thấy một
chuẩn nào để xác định hàm lượng đạm là thấp hay cao. Những gì nhà sản xuất ghi
trên bao bì chỉ có thể nói là quảng cáo, chào hàng, chứ không thể xem là “chuẩn”
được. Do đó, không thể dựa vào những gì nhà sản xuất công bố hay quảng cáo để
phát biểu sản phẩm của họ có đạt chuẩn hay không.
Một khó khăn khác là hầu hết các bài báo nói đến phần trăm hàm lượng đạm (như
câu văn “hàm lượng protid của sữa bột […] theo công bố là 34%, nhưng thực tế
kiểm nghiệm là 14,97%”) nhưng chúng ta không biết những con số phần trăm này là
gì. Cố nhiên, con số phần trăm phải có tử số và mẫu số. Ở đây chúng ta biết (hay
hi vọng là biết) rằng tử số là hàm lượng đạm, nhưng còn mẫu số là gì thì không
ai rõ cả, và cũng chẳng có phóng viên nào giải thích!
Trong thực tế, có hai cách đánh giá hàm lượng đạm trong sữa. Cách thứ nhất là
lấy hàm lượng đạm (thường đo bằng gram) chia cho trọng lượng sữa (tính bằng gram
hoặc millilitre). Cách thứ hai là lấy hàm lượng đạm chia cho số năng lượng (tính
bằng kilojoule hoặc kilocalorie; 1 joule bằng 0,2390 calorie). Trong y học, các
nhà nghiên cứu thường mô tả hàm lượng đạm tương đối với năng lượng, và đơn vị đo
lường là g/kcal. Nhưng các nhà sản xuất thường mô tả hàm lượng đạm so với trọng
lượng, tức đơn vị đo lường phần trăm.
Giá trị tham chiếu
Nếu các chỉ số hàm lượng đạm được báo chí tường thuật hiện nay là số gram đạm
trên 100 g (hay 100 mL) sữa, thì câu hỏi đặt ra là hàm lượng đạm trong sữa trên
thị trường nước ta cao hay thấp? Hàm lượng đạm trong sữa là một đề tài vẫn còn
trong vòng tranh cãi giữa các chuyên gia nhi khoa, và chưa ai biết được hàm
lượng tối ưu. Hàm lượng các chất dinh dưỡng nói chung thay đổi theo thời gian,
sau khi có bằng chứng khoa học mới nhất. Trong thời gian gần đây, có ý kiến được
nhiều người chấp nhận là nên giảm hàm lượng đạm trong sữa công nghiệp, vì có
bằng chứng cho thấy khi trẻ uống nhiều chất đạm trong những năm đầu dễ trở thành
béo phì khi trưởng thành (3,4).
Ở các nước phương Tây ngày nay, hàm lượng đạm (trong sữa cho trẻ) tính trên kcal
năng lượng là khoảng 2 g / 100 kcal (tức khoảng 1,3% trọng lượng sữa). Một
nghiên cứu mới đây cho thấy tỉ số đạm trên năng lượng khoảng 1,7 g / 100 kcal là
đầy đủ cho hệ thống nội tiết – chuyển hóa nhưng có thể không “an toàn” bởi vì có
thể làm tăng trọng lượng cho trẻ (5). Tuy nhiên, quan tâm “an toàn” này có lẽ
không thích hợp cho phần lớn trẻ Việt Nam vì trọng lượng sinh của trẻ nước ta
tương đối thấp hơn trẻ người da trắng.
Hai năm trước, các chuyên gia nhi khoa quốc tế qua hội thảo đã đề suất giá trị
tham chiếu cho hàm lượng tối thiểu và tối đa cho một số chất dinh dưỡng trong
sữa dành cho trẻ. Theo đề suất này, hàm lượng đạm trong sữa bò tối thiểu là 1,8
g /100 kcal và tối đa 3 g /100 kcal (xem bảng dưới đây).
Nhưng có lẽ câu hỏi quan trọng hơn là hàm lượng đạm trên 100 g sữa bao nhiêu là
đầy đủ? Trả lời câu hỏi này còn tùy thuộc vào số năng lượng trên mỗi 100 g sữa.
Ở các nước phương Tây, các sản phẩm sữa của các nhà sản xuất lớn và có uy tín có
khoảng 60 đến 70 kilocalorie (kcal) trên 100 g sữa. Do đó, các chuẩn trong bảng
trên có thể tương đương với 1,2 g (tối thiểu) và 1,95 g (tối đa) hàm lượng đạm
cho mỗi 100 g sữa (hay nói theo ngôn ngữ báo chí hiện nay là từ 1,2% đến 2%).
“Siêu thấp” hay “siêu cao”?
Ở Úc, loại sữa thông dụng nhất hàm chứa 3,4 g / 100 kcal, tức tương đương 2,2%
trọng lượng (6). Ở Việt Nam, sữa của một số hãng (Vinamilk, Ensure, Enplus,
Similac, Dumex, Dutch Lady) cũng hàm chứa khoảng 3 đến 4 g đạm trong 100 mL (xem
bảng dưới đây).
Nhưng kết quả phân tích hàm lượng đạm do Sở Y tế TPHCM báo cáo cho ra một “bức
tranh” khác. Trong số 27 sản phẩm sữa phân tích, có 6 sản phẩm có hàm lượng đạm
thấp hơn 1,2%, 19 sản phẩm với hàm lượng đạm cao hơn 2% (có sản phẩm với hàm
lượng đạm lên đến 27,8%!) Chỉ có 2 sản phẩm mà hàm lượng đạm nằm trong khoảng
1,2% đến 2%. Như vậy, dù lượng đạm trong sữa của các nhà sản xuất thấp hơn những
gì họ quảng cáo, nhưng không phải tất cả đều “siêu thấp”. Thật ra, “siêu cao”
thì đúng hơn!
Thật ra, như đề cập trên, chúng ta không biết 27,8% có nghĩa là 27,8 g đạm trên
100 mL sữa, hay 27,8 g trên 100 kcal năng lượng. Nhưng giả dụ rằng 27,8 g trên
100 kcal năng lượng, và cứ 100 mL sữa hàm chứa 70 kcal năng lượng, thì con số
27,8% cũng có nghĩa là trong mỗi 100 mL có 19,4 g trên 100 mL sữa, tức vẫn còn
cao.
Nếu thật sự (vì vẫn chưa chắc chắn) hàm lượng đạm quá cao của các sản phẩm sữa
này đặt ra nhiều câu hỏi khác: tại sao hàm lượng đạm quá cao? Các thành phần
dinh dưỡng khác như chất béo, carbohydrate, calcium, v.v.. là bao nhiêu? Nếu hàm
lượng đạm thực tế không như các nhà sản xuất quảng cáo (ghi trên bao bì) thì các
thành phần dinh dưỡng khác cũng có thể cũng không chính xác.
Vấn đề có lẽ quan trọng hơn là nếu hàm lượng đạm quá cao, có thể thành phần các
chất dinh dưỡng khác cũng sẽ bất bình thường. Như đề cập trong phần đầu của bài
viết, sữa công nghiệp được sản xuất với công thức hóa học “bắt chước” theo thành
phần dinh dưỡng trong sữa mẹ. Nói cách khác sữa mẹ là chuẩn. Do đó, nếu thành
phần dinh dưỡng của các loại sữa “có vấn đề” hiện nay không phù hợp với chuẩn
của sữa mẹ, và xã hội có lí do để quan tâm.
Về với sữa mẹ!
Sữa công nghiệp không thể thay thế sữa mẹ (7). Đó là một chân lí mà giới y khoa
phương Tây đã nhận thức được trong thời gian qua (nhưng chân lí chẳng có gì mới
đối với Việt Nam vì ông bà chúng ta đã biết điều đó cả ngàn năm qua). Tuy nhiên,
một xu hướng không mấy tích cực hiện nay ở nước ta là càng ngày càng có ít bà mẹ
cho con bú sữa mẹ. Theo một nghiên cứu thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh vào
năm 2002, chỉ có 53% bà mẹ cho con bú sữa mẹ, một tỉ lệ thấp hơn cả những bà mẹ
ở các nước phương Tây (8). Trước đó, một điều tra do Tổ chức Y tế thế giới thực
hiện ở nước ta cũng ghi nhận một tỉ lệ tương tự. Những nghiên cứu này cũng chỉ
ra rằng có một số không nhỏ bà mẹ trẻ ở Việt Nam nghĩ rằng sữa công nghiệp bổ
dưỡng hơn sữa mẹ, nhưng rất tiếc đó là một suy nghĩ không đúng.
Sữa công nghiệp chứa nhiều sinh tố, chất khoáng, đạm và chất béo với thành phần
cấu trúc được bào chế giống như sữa mẹ. Nhưng phần lớn sữa công nghiệp hoặc
thiếu hoặc không hàm chứa kháng thể, không có các tế bào sống, không có yếu tố
tăng trưởng (growth factors), không có enzymes hay hormone, những yếu tố sinh
học này vốn có trong sữa mẹ và đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của
trẻ. Ngược lại, sữa công nghiệp hàm chứa nhiều chất đạm (hay trong trường hợp
hiện nay có một số sữa chứa quá nhiều chất đạm) hơn sữa mẹ, và đó là một điều
không tốt.
Tóm lại, những phân tích trên đây cho thấy hàm lượng đạm trong một số sữa đang
lưu hành trên thị trường có thể cao hơn trung bình, chứ chưa hẳn “siêu thấp”.
Và, vấn đề này đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến hàm lượng các chất dinh dưỡng
khác có thể mất cân đối so với sữa mẹ. Đó cũng là một lời nhắc nhở về sự quí báu
của sữa mẹ mà một số bà mẹ Việt chưa nhận thức đầy đủ. Những lùm xùm chung quanh
vấn đề hàm lượng đạm trong sữa công nghiệp là một lời cảnh tỉnh rằng: đối với
trẻ mới sinh không có chất dinh dưỡng gì có thể thay thế sữa mẹ.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
(1) Koletzko B. Standards for infant formular milk. British Medical Journal
18/3/2006.
(2) Koletzko B, et al. Global standard for the composition of infant formula:
recommendations of an ESPGHAN coordinated international expert group. Journal of
Pediatric Gastroenterology and Nutrition 2005; 41:584-599.
(3) Rolland-Cachera MF, et al. Influence of macronutrients on adiposity
development: a follow-up study of nutrition and growth from 10 months to 8
years. International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders 1995;
19:573-578.
(4) Agostoni C, et al. How much protein is safe? International Journal of
Obesity 2005; 29:S8-S13.
(5) Fomon SJ, et al. Infant formula with protein-energy ratio of 1.76 g / 100
kcal is adequate but may not be safe. Journal of Pediatric Gastroenterology and
Nutrition 1999; 28:495-501.
(6) Sữa mà tôi chọn là sản phẩm của nhà sản xuất Dairy Farmers. Theo thông tin
ghi trên bao bì, năng lượng là 65 kcal trên 100 g sữa. Thành phần dinh dưỡng ghi
trên bao bì (tính trên 100 kcal) như sau: đạm 3,4 g; chất béo 3,6 g;
carbohydrate 4,8 g; sodium 49 mg; và calcium 118 mg.
(7) Motil K, et al. Infant feeding: a critical look at infant formulas. Current
Opinions in Pediatrics 2000; 12:469-476.
(8) Liubai L, et al. Prevalence of breast-feeding and its correlates in Ho Chi
Minh City, Vietnam. Pediatrics International, 2002; 44:47-54.
Posted by Nguyễn Văn Tuấn at 4:39 PM
Sunday, February 8, 2009
Những chuẩn thiếu tính khoa học
Nhân dịp đọc qua những chuẩn cho trẻ 5 tuổi, tôi có nêu vài ý kiến chung quanh
vấn đề nguyên lí và khoa học của các chuẩn này. Bài này đã đăng trên Tuổi Trẻ
ngày hôm nay với tựa đề Những chuẩn thiếu tính khoa học đối với trẻ 5 tuổi. Vì
lí do hạn chế số chữ nên TT không thể đăng hết các đoạn trong bài viết. Bản sau
đây là bản đầy đủ.
NVT
===
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) vừa ban hành “Chuẩn phát triển của trẻ 5 tuổi”.
Nhưng ngay sau khi ban hành, những chuẩn và chỉ tiêu này đã gây ra nhiều phản
ứng không mấy tích cực. Trong hàng trăm ý kiến phản biện, phần lớn tập trung vào
những sự mâu thuẫn, trùng hợp, thiếu hợp lí, và tính phi thực tế của bộ chuẩn.
Có người thậm chí còn cho rằng một số chuẩn rất ngô nghê (như trẻ phải biết mình
là trai hay gái)! Tuy nhiên, ngoài những vấn đề trên, bộ chuẩn này còn có nhiều
vấn đề mang tính nguyên lí và khoa học cần phải được thảo luận đề đi đến một bộ
chuẩn hoàn chỉnh và mang tính khả thi cao hơn.
Trước hết là vấn đề nguyên lí và định nghĩa. Theo quan điểm của Bộ GD-ĐT thì
"chuẩn là yêu cầu về năng lực mà chúng ta mong muốn trẻ biết và có thể làm
được". Nhưng theo cách hiểu của giới khoa học thì chuẩn là những chỉ tiêu chung
mà phần lớn trẻ trong cùng độ tuổi (5 tuổi) nên biết và có khả năng thực hành.
Vấn đề nguyên lí
Bất cứ chuẩn nào cũng phải được phát triển dựa vào một số nguyên lí. Ở đây, chưa
ai biết Bộ GD-ĐT dựa vào những nguyên lí nào để phát triển bộ chuẩn này. Là
người từng đóng vai trò người cha, tôi nghĩ những nguyên lí không thể thiếu được
là: (1) tất cả trẻ cần tích cực tìm hiểu thế giới chung quanh mình, tiếp thu
kiến thức và phát triển những kĩ năng giải quyết vấn đề; (2) trẻ tiếp thu kiến
thức và giá trị đạo đức qua tương tác với cha mẹ, bà con quyến thuộc, thầy cô,
láng giềng, và qua khám phá môi trường xã hội; (3) khuyến khích trẻ làm việc
theo nhóm, có những mối liên hệ hợp tác với bạn cùng lứa tuổi; (4) ghi nhận rằng
trẻ có quyền biểu lộ những khác biệt cá nhân trong quá trình phát triển; và (5)
gia đình và cha mẹ là những người thầy cô quan trọng nhất.
Tôi có cảm tưởng phần lớn các chuẩn và chỉ tiêu Bộ GD-ĐT đề ra bám sát các
nguyên lí trên đây, nhưng cũng có chỉ tiêu còn xa rời với thực tế. Có lẽ chính
vì thế bộ chuẩn rất cứng nhắc. Thực tế xã hội cho thấy một số trẻ có thể vượt
trội, nhưng cũng có một số trẻ chưa đạt được, những chuẩn này. Cũng như nhiều
người trong xã hội có những kĩ năng khác nhau và có thể đóng góp cho phát triển
xã hội, và vì thế cần ghi nhận rằng những khác biệt về kĩ năng và kiến thức giữa
trẻ là hoàn toàn tự nhiên. Do đó, đặt ra những con số cụ thể là vô hình chung
biến vấn đề mang tính nhân văn thành máy móc phi nhân bản.
Rất khó hiểu hai chữ “chúng ta” (trong câu thì "chuẩn là yêu cầu về năng lực mà
chúng ta mong muốn trẻ biết và có thể làm được") đề cập đến ai. Có thể “chúng
ta” là giáo viên, cũng có thể là Bộ GD-ĐT, nhưng cũng có thể là cha mẹ trẻ.
Nhưng mỗi đối tượng “chúng ta” này có những nhu cầu và giá trị riêng, không thể
nói chung chung là “chúng ta” được.
Nên ghi vào hồ sơ của trẻ?
Tuy nhiên, vì Bộ GD-ĐT muốn giáo viên phải là người trực tiếp đánh giá và kết
quả đánh giá sẽ được lưu trong hồ sơ cá nhân của trẻ. Tôi nghĩ cần phải xem xét
lại điểm này. Theo tôi, chuẩn không phải là chương trình giảng dạy giáo khoa,
nên không ai đưa vào hồ sơ cá nhân hay hồ sơ học tập của trẻ. Việc này cần phải
xem lại, vì tôi tin rằng Bộ GD-ĐT không có ý định gieo vào trẻ một tâm lí “thất
bại” khi hồ sơ của trẻ bị đánh giá chưa đạt.
Thật vậy, ở nước ngoài như Úc chẳng hạn, giáo viên không bao giờ ghi những chỉ
tiêu này vào học bạ, nhưng họ có thể báo cho phụ huynh học sinh biết nếu trẻ
thật sự có khiếm khuyết nghiêm trọng. Điều này hợp lí, bởi vì chuẩn là mục tiêu
cho cha mẹ sử dụng cho việc dạy dỗ con em mình, và theo nguyên lí số 5 trên, cha
mẹ chính là người “giáo viên” quan trọng cho trẻ.
Nội dung ôm đồm
Về nội dung, bộ chuẩn bao gồm 29 chuẩn và 125 “chỉ số”. Tuy Bộ GD-ĐT dùng từ
“chỉ số”, nhưng tôi nghĩ “chỉ tiêu” (indicator) thì đúng hơn, vì chỉ số hàm ý
nói đến khái niệm index. Theo tôi thấy, các chỉ tiêu Bộ GD-ĐT đưa ra quá nhiều,
và như đã có người chỉ ra là trùng hợp, mâu thuẫn, hay thậm chí không cần thiết.
Ở nước ngoài như Mĩ chẳng hạn, một số nhỏ (chứ không phải tất cả) trường mẫu
giáo cũng đề ra một số chuẩn để đánh giá khả năng của trẻ trước khi bước vào
tiểu học. Tuy nhiên, các chuẩn của họ thường nhẹ và không “ôm đồm” như của Bộ
GD-ĐT. Phần lớn các bộ chuẩn ở Mĩ mà người viết này biết chỉ bao gồm 3 chuẩn và
khoảng 18 chỉ tiêu. Ba chuẩn này là phát triển thể lực và thể chất, vệ sinh, và
ý thức về an toàn. Họ không có những chỉ tiêu mang tính “cân đo đong đếm”.
Chẳng hạn như chuẩn về vệ sinh và sức khỏe là: biết đi cầu, rửa tay, sử dụng
giấy tissue, bịt mũi và miệng khi ho hay xổ mũi; leo cầu thang, đỗ nước vào
bình; đi bộ cùng cha mẹ. Hay như chuẩn an toàn thì bao gồm việc lắng nghe và làm
theo chỉ dẫn của còi báo động, tuân thủ theo luật đi đường và an toàn, biết cách
tìm trợ giúp trong trường hợp khẩn cấp như quay điện thoại số 911, nhận thức
được lính cứu hỏa và cảnh sát, nhận thức được vài yếu tố nguy hiểm như kim
chích, lửa, nước nóng, người lạ mặt, thuốc men, rắn, cá sấu, v.v… Nói chung là
những chỉ tiêu “nhẹ nhàng” và rất gọn so với hàng chục chỉ tiêu quá chi tiết như
của Bộ GD-ĐT.
Để đánh giá chính xác 125 chỉ tiêu này, giáo viên cần phải có kiến thức chuyên
sâu về tâm lí xã hội học, vốn rất thiếu ở nước ta hiện nay. Chẳng hạn như không
phải ai có trình độ đại học (chứ chưa nói đến trẻ) có thể phân biệt nguyên nhân
và hệ quả (chứ không phải “kết quả” như Bộ GD-ĐT viết), vì vấn đề mang tính
triết lí khoa học. Do đó, nếu đưa vào thực tế, tính khả thi của bộ chuẩn này sẽ
rất thấp như nhiều người đã chỉ ra. Nếu thực hiện thì chắc chắn sẽ gây bất công,
tiêu cực, thậm chí xáo trộn trong nhà trường.
Đọc qua những chỉ tiêu của Bộ GD-ĐT tôi có cảm giác như là một bộ câu hỏi
(questionnaire) mà chúng tôi hay sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng dịch tễ
học ở người cao tuổi. Tuy nhiên, cái khác biệt giữa bộ câu hỏi và bộ chuẩn của
Bộ GD-ĐT là bộ câu hỏi được phát triển và thử nghiệm rất kĩ trước khi áp dụng
vào thực tế lâm sàng. Còn những chỉ tiêu của Bộ GD-ĐT thì không ai biết tính
khoa học ra sao và theo tôi đó làm một khiếm khuyết nghiêm trọng. Ở nước ngoài,
không ai đưa vào chính sách hay qui định mà không qua nghiên cứu nghiêm chỉnh.
Thiếu bằng chứng khoa học
Bất cứ chính sách hay qui định nào có ảnh hưởng đến một phần lớn cộng đồng cần
phải dựa vào bằng chứng khoa học. Không nên đặt ra những con số cứng nhắc mà
không có cơ sở khoa học rõ ràng. Không ai biết Bộ GD-ĐT dựa vào cơ sở nào mà đưa
ra những chỉ tiêu cứng nhắc theo hình thức “cân đo đong đếm” như: phải có độ bật
xa tối thiểu 50 cm bằng hai chân, hay nhảy cò cò được ít nhất là 5 bước, đi giật
lùi được ít nhất 5 m, v.v... Người ta phải hỏi nếu một trẻ chỉ bật xa 49 cm là
không đạt chuẩn, và dựa vào tiêu chí gì để nói là đạt hay không đạt chuẩn. Đây
là những câu hỏi mang tính khoa học nhưng có ảnh hưởng đến nhiều trẻ.
Bộ GD-ĐT cho biết họ xây dựng bộ chuẩn dựa trên khảo sát 700 trẻ ở các vùng,
miền khác nhau. Nhưng chúng ta không thấy kết quả của khảo sát này được công bố
trên một tập san khoa học nào, hay được đề cập trên báo chí. Theo tôi, để nâng
cao tính minh bạch, Bộ GD-ĐT nên công bố chi tiết về phương pháp nghiên cứu, kết
quả ra sao (với số liệu cụ thể) để công chúng và các chuyên gia trong ngành có
thể thẩm định.
Vấn đề quan trọng đặt ra là làm sao Bộ GD-ĐT minh chứng được rằng 125 chỉ tiêu
đạt chuẩn mực khoa học. Cụ thể hơn, những chỉ tiêu đó có thật sự phản ảnh những
điều mà Bộ cần biết (còn gọi là tính “hợp lí nội tại”); những chỉ tiêu đó có
thật sự ứng dụng cho nhiều trẻ, kể cả trẻ khuyết tật (tức tính “hợp lí ngoại
tại”); và độ tin cậy của những chỉ tiêu đó ra sao (nếu áp dụng cho một trẻ nhiều
lần có cho ra cùng kết quả). Có rất nhiều câu hỏi cơ bản về khoa học và phương
pháp vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Rất tiếc là dù với những khiếm khuyết
khoa học như thế nhưng Bộ GD-ĐT vẫn ban hành bộ chuẩn!
Việc làm này làm chúng ta nhớ lại qui định về “ngực nở chân dài” trước đây của
Bộ Y tế cũng chẳng qua nghiên cứu khoa học nào. Để tránh một “sự cố” như thế xảy
ra một lần nữa, có lẽ cách tốt nhất là tiến hành nghiên cứu khoa học cẩn thận và
có hệ thống để thu thập dữ liệu làm cơ sở cho các chỉ tiêu. Các chỉ tiêu cần nên
được xem xét lại và đơn giản hóa sao cho phù hợp với những nguyên lí giáo dục
mầm non và gọn nhẹ, nhưng có thể đem lại lợi ích cho nhiều trẻ trong tương lai.
Đã đăng trên Tuan's blog
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Văn Tuấn
|