Những bài cùng tác giả
Từ khi kinh tế nước ta chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường, mở cửa
bang giao, các hình thức chuyển giao công nghệ đầu tư công nghệ cao thi nhau
“trăm hoa đua nở”. Nền công nghiệp chế biến thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ em
trong nước cũng phát triển nhanh và mạnh mẽ thi đua cùng với những hàng
ngoại được phép nhập vào. Dạo quanh thị trường dinh dưỡng trẻ em ngày nay
thì những người phải nuôi con mọn chừng thập niên trước phải thèm thuồng
ghen tị về sự sẵn sàng, tiện dụng, mọi thứ được trang bị tới “tận chân
răng”. Những tiểu gia đình trẻ bây giờ nuôi con có lẽ không còn và không cần
nhớ tới việc phải làm thức ăn cho con thế nào, quấy bột ra làm sao, ăn những
thứ gì bao nhiêu là vừa. Nhoàng một cái ra siêu thị hoặc chợ, thôi thì đủ
thứ đóng hộp sẵn, hướng dẫn rõ; nào là bột dinh dưỡng cho trẻ bé, cho trẻ
nhỡ, cho bé lớn; bột mặn, bột ngọt; bột đa sinh tố, bột đa khoáng; hàng nội,
hàng ngoại ê hề mà giá cả phải chăng… Không những chỉ người tiêu dùng thấy
thích thú, mà giới chuyên môn cũng lấy làm hãnh diện hơn vì từ nay sẽ có
thêm cái để mà tư vấn cho phụ huynh- cái này được, cái kia tốt; thứ nọ hợp,
thứ kia không.
Thế nhưng, cái gì cũng có mặt trái của nó. Mà điều khó khăn, nghịch lý là
ở chỗ không có ai giải thích ngọn ngành, trong khi giới thương mại tiếp thị
thì rầm rộ khuyếch trương, quảng cáo nào là “thức ăn bổ dưỡng”, “thức ăn
được bổ sung chất bổ đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng”. Một khi đã thành niềm
tin tập nhiễm rồi thì khó mà thuyết phục. Thói thường làm cha mẹ thì ai
chẳng muốn con mình khoẻ mạnh bụ bẫm, cho nên cứ nghe cái gì bổ, thức ăn gì
tốt thì bạc triệu cũng chẳng tiếc, con ăn chứ ai vào đấy mà ăn! Thực tế thì
không như vậy, chuyện nuôi dưỡng trẻ em nói riêng và dinh dưỡng nói chung là
một “câu chuyện dài nhiều tập” chưa có hồi kết và hết sức phức tạp, bài viết
này không có tham vọng bao trùm được mọi khía cạnh, mà chỉ là một tiếng
chuông cảnh tỉnh cho giới phụ huynh khi cân nhắc việc lựa chọn thức ăn dinh
dưỡng lành mạnh cho con mình.
Dinh dưỡng của trẻ: “Tây hoá ta, ta hoá tây”!
Khi còn là bào thai, trẻ hoàn toàn được nuôi dưỡng thụ động thông qua hệ
thống máu trao đổi qua rau thai mẹ. Trong thời gian đó trẻ bắt đầu hoàn
thiện dần các chức năng. Khi ra đời trẻ mới bắt đầu một chức năng tiêu hoá
tự lập nhưng chưa được hoàn chỉnh. Chưa hoàn chỉnh nhưng trẻ phải đảm nhận
việc tự tiêu hoá để cung cấp tố chất cho cơ thể của mình lớn và hoàn thiện
về nhiều mặt. Trong vòng 6 tháng đầu đời, trẻ chỉ có một thức ăn duy nhất
thích hợp cho bộ máy tiêu hoá của mình đó là sữa mẹ. Ngoài việc sữa mẹ là
nguồn thức ăn thì sữa mẹ còn là một “vũ khí” ngăn ngừa bệnh tật tuyệt vời
cho con trẻ, tất cả những “kinh nghiệm chống bệnh tật” quý giá của mẹ được
tích luỹ và truyền sang cho con của mình qua nguồn sữa. Nhiều nghiên cứu
khác cũng đã chứng minh rằng nhóm trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn trong thời
gian ít nhất là một năm thì có chỉ số thông minh cao hơn trẻ không được bú
mẹ. Không những thế, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng rẻ tiền nhất. Với sữa nhân
tạo thì còn chưa kể đến việc nhiêu khê trong công đoạn pha chế sữa, nhất là
giấc khuya, pha chế không đúng quy cách, tiệt trùng chai không sạch v.v…
Vào những thập niên giữa của thế kỷ XX, ở các nước công nghiệp phát
triển, ngành công nghiệp dinh dưỡng cũng theo đà này đã tung ra thị trường
những sản phẩm “thay thế sữa mẹ” là những sữa đóng hộp mà được chế biến từ
sữa bò, sữa dê qua khâu tiệt trùng, khử đạm, bổ sung vitamin và khoáng chất.
Hoà theo phong trào phụ nữ được giải phóng, thế là “nhà nhà cho con bú bình,
người người cho con bú bình” cũng rầm rộ hầu khắp các nước tân tiến, làm cho
tỷ lệ bú mẹ của trẻ em ở các nước này vào những thập niên 60-70 giảm sút một
cách nghiêm trọng. Vài thập niên trôi qua, khi thế hệ thứ nhất, thứ hai bú
bình trưởng thành, thì vấn đề bắt đầu được nhìn nhận lại. Giới khoa học gia
lên tiếng cảnh báo về vấn nạn bú bình gây nhiều phiền toái hơn là có ích. Và
từ thập niên cuối của thế kỷ XX này, giới phụ huynh tây âu lại bắt đầu quay
về với truyền thống cho con bú mẹ. Và hình ảnh thân yêu, quyến rũ- các bà mẹ
trẻ ngồi “giữa ba quân thiên hạ” cho con mình bú mẹ lại được thấy ở chính
các nước tây âu là cái nôi của công nghệ chế tạo sữa nhân tạo. Tỷ lệ cho con
bú mẹ hoàn toàn và bú mẹ kéo dài ở các nước đã phát triển này tăng lên trở
lại, như Thuỵ điển chẳng hạn, đến trên 98% các bà mẹ hiện nay cho con bú mẹ
hoàn toàn ngay từ khi sinh.
Trong khi đó thì giới phụ huynh trẻ ở các nước đang phát triển trong đó
có Việt Nam thì lại đua nhau theo “tây”, là từ bỏ việc cho con bú sữa mẹ để
cho con mình bú sữa nhân tạo (sữa lon). Có nhiều người mẹ lại quan niệm là
cho bú sữa tây để con mình lớn như tây, hoặc con tây nó bú sữa lon nên nó
mới lớn! Trong một nghiên cứu của người viết bài này là tác giả chính và
cộng sự (Đọc bài viết Sự phát triển và thực hành nuôi dưỡng trẻ em người
Việt ở Úc, đăng trên Tập san Dinh dưỡng Lâm sàng Âu châu số ra tháng 2 năm
2004, Bộ 58, trang 356-62- Nguyen ND, Allen JR, Peat JK, Schofield WN,
Nossar V, Eisenbruch M, Gaskin KJ..Growth and feeding practices of
Vietnamese infants in Australia. Eur J Clin Nutr. 2004 Feb;58(2):356-62)
thấy rằng tỷ lệ các bà mẹ Việt Nam tại Úc cho con bú mẹ rất thấp, chỉ có 78%
các bà mẹ sinh con cho con bú sau khi sinh và 50% ngưng cho bú mẹ ở thời
điểm trước ba tháng. Một điều lý thú là đến trên 60% các bà mẹ này không đi
làm việc bên ngoài. Tình hình bú mẹ ở tại Việt Nam cũng không khá gì hơn, tỷ
lệ trẻ em sinh ra được bú mẹ trong giai đoạn sau này giảm thấp hơn nhiều so
với trước đây (75-77% so với trên 98% trong những thập niên 80 trở về
trước).
Để tạm kết cho vấn đề sữa mẹ, nên nhớ một điều rằng SỮA NGƯỜI LÀ ĐỂ NUÔI
NGƯỜI, SỮA BÒ LÀ ĐỂ NUÔI BÒ. Con người thì cần dinh dưỡng để phát triển trí
tuệ, bò cần dinh dưỡng để cho thịt cho nên sữa bò phải chứa nhiều thành phần
đạm (tăng thịt) hơn sữa người và sữa người phải ưu việt hơn hẳn các loại sữa
khác để có một loài linh trưởng cao cấp. Cho nên chỉ có trường hợp vạn bất
đắc dĩ mới dùng sữa động vật để thay thế nuôi trẻ em mà thôi. Nhiều nước
hiện nay đã và đang áp dụng một chính sách khá nghiêm ngặt về sữa hộp trẻ
em, thí dụ như nghiêm cấm việc bán sữa lon đại trà, chai sữa và núm ti chỉ
được bán theo đơn của bác sĩ, thiết nghĩ đây cũng là vấn đề không quá sớm mà
giới chuyên môn hữu trách phải cân nhắc đối với Việt Nam khi tình hình chưa
quá nghiêm trọng.
Đó là vấn đề bú mẹ với trẻ dưới 6 tháng, còn thức ăn sam, thức ăn cho trẻ
lớn thì sao? Trẻ khi bắt đầu 6 tháng tuổi trở đi, hệ tiêu hoá bắt đầu có khả
năng cho dung nạp các thức ăn ngoàì sữa mẹ. Thứ hai là do nhu cầu phát triển
về thể lực, trẻ cũng bắt đầu hoạt động nhiều hơn do đó nhu cầu về dinh dưỡng
cao hơn, trong khi đó sữa mẹ vào thời điểm này bắt đầu có thể không đủ cung
cấp cho nhu cầu của trẻ nữa. Các chất dinh dưỡng được lưu trữ trong cơ thể
trẻ từ khi trong bào thai bắt đầu cạn dần. Cho nên từ 6 tháng tuổi là trẻ
bắt đầu nên được cho ăn sam, nhưng không bắt buộc. Ngoài 9 tháng thì bắt
buộc cho trẻ ăn sam. Đến trên một tuổi thì thức ăn ngoài là thức ăn chính
còn sữa chỉ là thức ăn phụ, để cung cấp thêm can-xi cho trẻ mà thôi, đóng
vai trò thấp trong việc cung cấp dinh dưỡng. Trong một nghiên cứu khác cũng
của người viết (Tình trạng chất sắt trong cơ thể của trẻ em Việt Nam ở Úc,
trong Tập san Nhi khoa và Sức khoẻ Trẻ em –Journal of Paediatrics and Child
health, đang in ấn. Nguyen N.D., Allen, J.R., Peat J.K., Beal P., Webster
B., Gaskin K.J.. Iron status in young Vietnamese in Australia. Journal of
Paediatrics and Child Health. In-press), nhận thấy rằng, trong số nghiên
cứu, đa số người mẹ Việt Nam ở Úc cho con chỉ hoàn toàn bú sữa tươi cho đến
2 tuổi, có cháu mỗi ngày tiêu thụ hết 2 lít sữa tươi. Hậu quả? Một phần tư
(26%) số trẻ nghiên cứu cho thấy có tình trạng thiếu hụt hoặc thiếu máu
thiếu sắt. Như vậy trẻ em Việt Nam ở Úc hoàn toàn không thể nói là đói ăn
được (thiếu nuôi dưỡng) mà là đói dưỡng chất hay còn gọi là nuôi dưỡng sai
lầm. Mặc dù trẻ vẫn đủ năng lượng để đạt được tiêu chuẩn lớn về thể lực
nhưng vẫn thiếu về chất lượng nuôi dưỡng.
Thức ăn cung cấp cho trẻ những gì? Trên một nguyên tắc, những gì chúng ta
ăn được thì trẻ em cũng có thể ăn được, nhưng vì chức năng hệ tiêu hoá của
trẻ chưa hoàn thiện cho nên trẻ phải tập ăn từ thức ăn dễ tiêu, thức ăn mềm
rồi đến thức ăn như người lón. Một số loại thức ăn có khả năng gây dị ứng
cao cho một số trẻ như trứng, đồ biển có kitin (tôm, cua) hoặc thực vật như
bơ đậu phộng (peanut butter, không phải đậu phộng hay lạc thô) hoặc đồ ăn dễ
gây sặc và ngạt do kích thước nhỏ và cứng thì không cho trẻ nhỏ ăn. Trên một
nguyên tắc bao quát, trẻ em cần nguồn năng lượng tức thời để sử dụng ngay:
tinh bột, gạo; nguồn năng lượng dự trữ: mỡ, nguồn để xây dựng cơ thể: đạm,
mỡ; nguồn để hỗ trợ: vitamin và khoáng chất. Các thức này phải được cung cấp
theo một tỷ lệ thích hợp để tạo sự cân đối trong thăng bằng năng lượng thu
nhập.
Khủng hoảng thừa và khủng hoảng thiếu: Một bất nghịch lý trong việc cung
và cầu trong dinh dưỡng trẻ là cơ thể trẻ em còn nhỏ, thể tích chứa của dạ
dày thấp nhưng ngược lại nhu cầu năng lượng tính theo tỷ lệ so với thể trọng
lại cao gấp đôi người lớn. Nhu cầu về các dưỡng tố cũng khác nhau theo tuỳ
loại. Trong khi đó thức ăn thì không phải một thứ duy nhất nào có thể cung
cấp được đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ, vì thế mà phải đa dạng hoá thức
ăn. Có những thức ăn bổ dưỡng thì trẻ chưa thể tiêu hoá được, mà những thức
ăn trẻ tiêu hoá được lại thiếu chất bổ dưỡng. Có những thức ăn có đậm độ
dưỡng tố thấp (tức là lượng dưỡng tố chứa trong một đơn vị trọng lượng thức
ăn) thì cần phải ăn một số lượng lớn mới đạt được nhu cầu, điều đó thì khó
cho khả năng của trẻ; nhưng đối với một trẻ khác, có thể lại thu nạp được
hết một lượng thức ăn lớn thì đủ lượng dưỡng tố nào đó nhưng lại thừa năng
lượng do ăn quá nhiều. Đối với lại thức ăn có đậm độ năng lượng cao như
những thức ăn chứa nhiều mỡ, chất béo, chỉ cần một lượng nhỏ cũng đủ đạt đến
một nhu cầu năng lượng cần thiết, thế nhưng nó lại không cung cấp đủ các
dưỡng tố cần thiết. Tình trạng khủng hoảng thừa và khủng hoảng thiếu năng
lượng cũng như dưỡng tố là vấn đề hết sức nan giải. Cho nên việc nuôi dưỡng
trẻ em thành một “nghệ thuật” khá nhiêu khê và lắt léo. Thế nhưng việc tính
toán cũng không phải đến mức chi li cân đo đong đếm như người thợ bạc. Trên
một nguyên lý sinh tồn, trẻ sẽ ăn theo nhu cầu của cơ thể. Phụ huynh chỉ có
việc cung cấp đủ thức ăn, đa dạng hoá thức ăn thì trẻ sẽ đầy đủ chất dinh
dưỡng, còn ăn như thế nào, ăn bao nhiêu thì tự cơ thể trẻ sẽ quyết định lấy.
Chính vì sự nhiêu khê của việc lựa chọn thức ăn cho trẻ, chính vì sự chán
nản mệt mỏi của các bà mẹ trẻ khi nghĩ đến việc làm thức ăn cho con, chính
vì sự thiếu thời gian trong thời đại công nghiệp, mà ngành công nghiệp thực
phẩm đã “đánh hơi” được thị hiếu, thị trường. Hàng loạt công ty thực phẩm
trẻ em trên thế giới ra đời, hàng trăm hàng ngàn mẫu mã hấp dẫn lôi cuốn các
bà mẹ. Nào là thức ăn cho trẻ từ 4 tháng, từ 6 tháng, trên 9 tháng, trên 1
tuổi. Mẫu mã thôi thì đủ thứ, từ bột nhuyễn đến bột xay lợn cợn; từ bột ngọt
cho đến bột mặn; từ dạng lỏng đến dạng đặc; từ dạng xúc đến dạng cầm tay
v.v…không thể kế hết. Thành phần thì tinh bột có, đạm có, trái cây đóng hộp,
nước trái cây đóng hộp. Chất lượng thì thơm ngon, hương vị đa dạng dồi dào.
Mẫu mã thì bắt mắt. Không những thế mà giá thành lại rẻ, rẻ hơn nhiều so với
thức ăn gia đình tự chế biến vì do hàng công nghiệp sản xuất đại trà.
Tốt quá đi chứ, tiện quá đi chứ “nhanh, nhiều tốt, rẻ” thế thì còn có gì
để phải phàn nàn và kêu ca về các loại dinh dưỡng ăn nhanh đó?
Thứ nhất, thức ăn được chế biến qua công nghiệp hoá là thức ăn đóng hộp,
nó như là mì ăn liền, cho nên không thể là thức ăn tươi. Đã không tươi thì
không thể ngon.
Thứ hai, thức ăn thông qua khâu chế biến đóng hộp, ngoài một số tiệt
trùng bằng tia cực tím, đa số các thức ăn khác phải dùng hoá chất bảo quản
vì không thể tiệt trùng bằng tia vì tia làm biến chất thức ăn. Do đó cơ thể
trẻ phải tải một lượng hoá chất không cần thiết, lợi thì hẳn là không có
lợi, nhưng hại như thế nào, đến lúc chứng minh được thì cũng đã muộn. Thức
ăn đóng hộp thường để bắt mắt, và để nhại lại thức ăn tươi nên thường được
nhuộm màu, những loại màu thực phẩm này hoàn toàn không có một lợi ích gì mà
gan của trẻ lại phải làm việc để loại chúng ra khỏi cơ thể, chưa kể đến
những phẩm màu độc hại được sử dụng bừa bãi.
Thứ ba, thức ăn qua khâu chế biến, các chất dinh dưỡng bị thất thoát, bù
lại thì được bổ sung bởi những vitamin, khoáng chất nhân tạo. Dù rằng được
quảng cáo là thức ăn được bổ sung khoáng chất, vitamin đủ nhu cầu năng
lượng, giúp trí não phát triển. Nói thì thế, nhưng ít ai nghĩ rằng cơ thể
con người không phải là một nơi để dung nạp công thức toán học. Nó không đơn
giản là thiếu một thì bù một, cẩn thận thì bù hai ba, coi như là dư thừa.
Nghiên cứu cho thấy chất này có trong bộ não, thì lập tức ứng dụng ngay rằng
bổ sung chất đó sẽ giúp phát triển trí não. Tuy nhiên đó chỉ là những nghiên
cứu về mối liên quan chứ chưa phải là nghiên cứu nhân-quả, và nhiều khi đa
phần nghiên cứu chỉ được tiến hành trong phòng thí nghiệm, trên mô biệt lập
hoặc thậm chí trên động vật thực nghiệm. Còn từ kết quả nghiên cứu động vật
thực nghiệm đến áp dụng được trên con ngưòi thì là cả một quãng đường còn
xa, chưa có câu trả lời. Trong khi đó, cơ thể con người là sản phẩm của một
quá trình tiến hoá lâu dài xảy ra đến hàng triệu năm. Cơ thể con người chỉ
mới được thiên nhiên “thiết kế” để dung nạp thức ăn tự nhiên từ thiên nhiên,
cho nên những thức ăn nhân tạo được cơ thể con người tiếp nhận có giống như
thức ăn thiên nhiên không? giống đến bao nhiêu? Quá trình chuyển hoá và tiếp
nhận có như vậy không? Chắc hẳn là không biết. Đã không biết thì có lẽ an
toàn nhất là không nên mạo hiểm.
Thứ tư, dù rằng thức ăn sẵn được quảng cáo là đầy đủ dinh dưỡng, dư thừa
để giúp trẻ phát triển không hơn thì cũng bằng thức ăn chế biến tại nhà. Cẩn
thận hơn, để người tiêu dùng phải tin, trên mỗi hộp thực phẩm còn ghi cả
thành phần dinh dưỡng, từng tố chất cụ thể. Nhưng liệu nội dung bên trong có
đúng như những gì đã mô tả không? Chất lượng có được đảm bảo không? Trong
khi đó nếu tự tay mình chế biến, mình biết chắc là mình đã cho con mình ăn
gì, bao nhiêu, và hẳn nhiên là mình phải tin mình hơn.
Thứ năm, thức ăn sẵn thường được chế biến ở dạng rất mềm, rất dễ ăn,
không cần nhai, chỉ cần nuốt! Chính vì điều đó làm cho thời gian của một bữa
ăn của trẻ có thể rất nhanh. Trẻ không còn có thời gian để nhai, để cho cơ
nhai, cơ hàm, hàm và răng phát triển. Vì thức đi qua miệng quá nhanh nên
thiếu cơ hội để được nước bọt trong miệng nhào trộn và tiêu hoá một phần
giúp giảm bớt gánh nặng cho dạ dày và hệ tiêu hoá bên dưới. Cũng chính vì
dạng chế biến sẵn nên thức ăn này không đảm bảo được lượng chất xơ cần thiết
như thức ăn tươi sống. Trẻ cần phải được cung cấp nhiều chất xơ để chống táo
bón. Một nhược điểm lớn nhất có thể nhận thấy rõ là nước quả ép. Đúng nước
quả ép tươi hoàn toàn có thành phần như trái cây tươi thậm chí đậm độ dưỡng
tố và năng lượng còn cao hơn nhiều như trái cây tươi. Nhưng cái mà nước quả
ép không bao giờ có đó là chất xơ. Trẻ con nhai trái cây tươi vừa có lợi cho
răng, cho hàm, cơ hàm, vừa có lợi cho hệ tiêu hoá. Uống nước quả chỉ có
dưỡng tố và năng lượng nhưng tại tăng nguy cơ sâu răng và hư răng. Tại sao
lại như thế? Vì khi nhai trái cây tươi, thức ăn phải nằm lại lâu trong
miệng, và có đủ thời gian để nước bọt tiết ra, nhào trộn, trung hoà và tiêu
huỷ bớt chất acid (một trong những thủ phạm chính bào mòn men răng, tạo điều
kiện cho sâu răng), một phần khác, chất xơ trong trái cây tươi làm nhiệm vụ
sau cùng là chải sạch những acid bám lại trên răng, và làm sạch răng tại
chỗ. Trong khi đó, uống nước trái cây, tốc độ nước đi qua miệng tính bằng
giây, miệng lúc đó chỉ còn có chức năng là ống dẫn chứ không còn chức năng
tiêu hoá; nhưng trong một vài giây đồng hồ đó một lượng acid từ nước quả
đọng lại trong răng đủ để có thể bào mòn men răng và gây hỏng răng, nếu quá
trình uống nước quả tái diễn.
Thứ sáu, thức ăn làm sẵn thường đưa đến hiệu ứng cực trị, hoặc là trẻ
chán không ăn, hoặc là hấp dẫn đến mức trẻ ăn quá tải. Điều này thấy rất rõ
ở trẻ lớn và trẻ vị thành niên. Thức ăn chế biến sẵn có thể hương vị ngon,
trẻ ăn nhiều. Mẫu mã đẹp, và những nhà kinh doanh thực phẩm rất khôn ngoan
trong việc câu móc những “thượng đế tí hon” này qua những chiêu thức quảng
cáo không thể nào bỏ ngoài tai ngoài mắt được. Hôm nay phim hoạt hoạ
Đô-rê-mon được ưa thích, ngày mai thức ăn có dán nhãn Đô-rê-mon. Hôm nay
phim Người nhện, ngày mai có ngay thức ăn để “trở thành Người nhện”! Trẻ trở
thành những kẻ nô lệ của thức ăn và hậu quả là tình trạng quá cân và béo phì
ở trẻ em các nước tân tiến ngày càng gia tăng đáng sợ. Lý do là trẻ tiêu thụ
quá nhiều thức ăn nhanh, thức ăn làm sẵn. Không phải xa gần, nguy cơ đó đã
lan đến các thành phố lớn ở Việt Nam như Hà nội và Sài gòn.
Ý thức được sự nghiêm trọng của vấn đề, các hiệp hội chuyên môn, chuyên
gia của các nước tân tiến như Mỹ, Âu, Úc đã phải ra các khuyến cáo hướng dẫn
nuôi dưỡng trẻ em cho các bà mẹ. Các khuyến cáo này khuyên các bà mẹ hãy trở
về với truyền thống của mình đó là nuôi con bằng sữa mẹ, nuôi con bằng thức
ăn tự chế biến trong gia đình; thực phẩm công nghiệp chỉ nên sử dụng như là
một phương tiện thay thế khi cần thiết mà thôi. Và trong khi các bà mẹ trẻ
tây hiện nay bắt đầu thấy vui và hạnh phúc với việc tự tay mình chế biến
thức ăn cho con (có lẽ còn hạnh phúc hơn tự tay nấu một món ăn cho chồng
mình) hàng ngày thì ở Việt Nam thì lại rầm rộ phong trào cho trẻ con ăn thức
ăn công nghiệp, chế biến sẵn.
Trẻ con ta còi hơn trẻ con tây?
Nhiều người trong số chúng ta và trong các bà mẹ nghĩ rằng con mình thua
con tây vì con mình không được nuôi dưỡng như con tây. Đúng nhưng mà không
đúng. Đúng là tình trạng dinh dưỡng có ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển
thể chất của trẻ em, thế nhưng không chỉ có yếu tố dinh dưỡng là đóng vai
trò duy nhất trong sự phát triển thể lực của trẻ, mà trong đó yếu tố di
truyền, thể trạng bố mẹ, các yếu tố môi trường khác đều có ảnh hưởng đến sự
phát triển thể chất của trẻ. Nhưng không đúng, trong một nghiên cứu của
người viết (Phát triển của trẻ em Việt Nam ở Úc đã nêu trên) đã cho thấy
rằng trẻ em Việt Nam qua các thế hệ tăng trưởng về thể lực càng tốt lên;
phát triển thể lực trẻ em Việt Nam trong giai đoạn hai năm đầu đời hoàn toàn
giống như trẻ em “Tây” tiêu chuẩn, cụ thể trong nhóm nghiên cứu các trẻ em
Việt Nam này có chiều cao nhỉnh hơn tiêu chuẩn của quốc tế, cân nặng hơi
thấp hơn một chút nhưng không có sự khác biệt đáng kể, một chín một mười!
Điều đó chứng tỏ rằng yếu tố dinh dưỡng mới có thể cải thiện nhanh chóng
được thể lực như vậy được. Trẻ em Việt Nam thế hệ trước đây vừa phải trải
qua chiến tranh, vừa nghèo đói nên tình trạng thiếu dinh dưỡng và thiếu nuôi
dưỡng rất phổ biến, hệ quả dẫn đến còi cọc và gầy mòn. Còi cọc và gầy mòn
dẫn đến một thế hệ bố mẹ còi cọc, mẹ còi cọc, tầm vóc thấp, kèm thêm thiếu
dinh dưỡng mang thai, làm cho trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai. Vòng xoắn luẩn
quẩn đó tạo ra nhiều thế hệ nối tiếp còi cọc và tầm vóc thấp. Thế nhưng hiện
nay, tình trạng dinh dưỡng ở Việt Nam đã cải thiện. Tính trên quần thể đông
điều đó thấy rõ. Dĩ nhiên, cá thể thì cũng còn nhiều nơi đói ăn; đói ăn là
đói ăn cho người lớn, đối với trẻ em không đến mức độ đó mà chủ yếu là do
cách nuôi dưỡng sai lầm mới là lý do chính. Nhiều vùng nông thôn nghèo đói,
nhưng sản phẩm tự cung tự cấp tôi tin là hoàn toàn đầy đủ dinh dưỡng cần
thiết cho trẻ em phát triển. Mấu chốt là giáo dục dinh dưỡng cho bà mẹ biết
cách tận dụng nguồn dinh dưỡng sẵn có, tươi tốt tại nhà để cung cấp thức ăn
bổ dưỡng cho con mình. Cải thiện yếu tố di truyền là vấn đề của tiến hoá,
quá trình diễn ra lâu dài hơn nhiều. Giai đoạn sau của sự phát triển thể
lực, các thanh thiếu niên Việt Nam phát triển về chiều cao chậm và sẽ thấp
hơn thanh niên tây, đó là do yếu tố chủng tộc và di truyền. Vì vậy, nếu
chúng ta tối ưu hoá được về mặt dinh dưỡng thì trẻ có cơ hội để tối ưu hoá
được tiềm năng phát triển thể lực của mình.
Tóm lại, cơ thể trẻ em cũng là một cơ thể con người. Trẻ em cũng là một
sản phẩm của quá trình tiến hoá trong tự nhiên. Là một thực thể trong tự
nhiên, con người nằm trong mối quan hệ ràng buộc và hữu cơ với thiên nhiên
với môi trường. Việc dinh dưỡng để sinh tồn và phát triển cũng nằm trong mối
quan hệ hữu cơ với thiên nhiên đó. Cho nên thức ăn thiên nhiên luôn là một
nguồn dinh dưỡng thích hợp nhất, tốt nhất, tối ưu nhất đã được thiên nhiên
chọn lọc qua hàng hàng niên kỷ nên mới có thể dung dưỡng và phát triển được
con người trên hành tinh này. Khoa học là một động lực thúc đẩy phát triển
xã hội văn minh; khoa học là do con người khám phá và với mục đích phục vụ
cho con người. Thế nhưng những hiểu biết về khoa học của con người còn quá
khiêm nhường. Vì thế, hành động an toàn hơn cả là nên tránh những áp dụng có
tính nguy cơ, và mạo hiểm vào trong thực tế cuộc sống, cụ thể hơn là trên
quần thể trẻ em vốn dĩ mong manh và có nhiều nguy cơ với tình trạng sức khoẻ
bệnh tật. Dinh dưỡng và nuôi dưỡng trẻ em không là một ngoại lệ trong mối
quan hệ hữu cơ với thiên nhiên và nhân tạo với khoa học đó. Xin đừng biến
trẻ em thành “gà công nghiệp” trước khi quá muộn để nhìn nhận ra vấn đề.
Đã đăng trên Người Lao Động
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Đình Nguyên
|