Vụ án Vedan Việt Nam - Những dòng sông chết

Vietsciences-           

 

Vụ án Vedan Việt Nam

 

1/Đô Thị Gây Họa
2/Hệ thống sông ngòi Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng
3/10.000 km2 sông ngòi bị ô nhiễm nghiêm trọng
4/Những Dòng Sông Việt Nam
5/Thấy gì qua một hội nghị về môi trường?
6/Lợi nhuận có bù đắp chi phí cải thiện môi trường?
7/Ô nhiễm nguồn nước: Những con số giật mình
8/"Rửa" sông Thị Vải để giải quyết ô nhiễm
9/Nạn Ô Nhiễm Đang Lan Tới Thượng Nguồn Sông Sài Gòn
10/Sông Đồng Nai: Tốc độ ô nhiễm tăng nhanh
11/Dòng Kênh Bị ‘Ung Thư’
12/PGS - TS Khoa học Lê Huy Bá, Viện trưởng Viện KHCN - QLMT (IESEM)
13/Lưu vực sông Đồng Nai: Ô nhiễm đã đến mức báo động
14/Mối đe dọa từ nước mặn
15/Giá trả cho ô nhiễm ngày càng cao 68/TP.HCM:Nước nguồn ngày càng ô nhiễm
16/Báo động ô nhiễm nước hạ lưu sông Đồng Nai
17/Ô nhiễm nặng lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn
18/Lưu vực sông Đồng Nai: Ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng
19/Bình Dương: Nước thải từ các KCN góp phần gây ô nhiễm sông Đồng Nai?
20/Gần 30 nghìn tấn chất ô nhiễm xả ra sông Nhuệ - Đáy mỗi ngày
21/Sóc Trăng: KCN An Nghiệp “bức tử” nhiều tuyến kênh
22/Môi trường:QH yêu cầu Chính phủ làm rõ trách nhiệm cá nhân
23//Làng Cả bị "hoang hóa", tỉnh Phú Thọ nhận "tội"
24/Dòng sông chết
25/Cà Mau:Một tuyến kênh ô nhiễm đe dọa hàng trăm hộ nuôi tôm
26/Dù nhiều lần bị dọa “xử lý” triệt để: Sông Thị Vải ô nhiễm nặng, không còn sự sống
27/Liệu có thêm cảnh “giết chết sông kiểu Vedan”?
 

_____________________________________________________________________________________

 

1- Đô Thị Gây Họa

Việt Báo Thứ Năm, 8/7/2008, 12:02:00 AM

Theo báo Lao Động,nhóm nghiên cứu thuộc Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã quốc tế - WWF Việt Nam vừa hoàn tất cuộc khảo sát 3 nơi trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là thành phố Biên Hoà (khu vực có mật độ dân cư đông nhất), huyện Định Quán, Vĩnh Cửu (mật độ dân cư thấp nhất). Với thực trạng chất thải dân sinh không qua khử lọc, xả thẳng ra sông, WWF cho hay, hàng ngày dân cư lưu vực hồ Trị An và hạ lưu sông Đồng Nai thải vào môi trường nước hơn 70 tấn các chất gây ô nhiễm. Trong đó riêng thành phố Biên Hoà đã "đóng góp" khoảng 70%. Ngoài ra, nhiều dự án đô thị trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng đang gây ô nhiễm cho hệ thống sông ngòi ở tỉnh này. Báo Lao Động ghi nhận thực trạng này như sau.
Nguồn thải từ dân sinh là 1/3 nguyên nhân (hoạt động dân sinh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp) khiến sông Đồng Nai ô nhiễm nghiêm trọng. Khi tốc độ dân số tăng đồng nghĩa với việc tăng lượng chất thải sinh hoạt. Nếu như vẫn để tình trạng thải thiếu ý thức như hiện nay thì chắc chắn sự ô nhiễm dòng sông sẽ nặng nề hơn.Từ đó "soi" kỹ lại các dự án đô thị mới đang "đổ xô" ra sông nói trên, mới giật mình, các nhà đầu tư, quy hoạch, thiết kế hoặc chỉ mải chú tâm đến hiệu quả kinh tế, mà chưa thấy có đánh giá hoặc giải pháp nào về tác động môi trường sông nước khi dự án hoàn thành.
Dự án lớn nhất là công trình xây khu đô thị sinh thái kinh tế mở Long Hưng - Long Thành - Đồng Nai (Khu đô thị Long Hưng) trên diện tích 671 hécta, gần như "bốc" luôn cả xã Long Hưng với khoảng 6 ngàn người. Khu đô thị Long Hưng được bao bọc bởi sông nước tình và lại lọt giữa ngã ba tam giác kinh tế (Đồng Nai-Bà Rịa Vũng Tàu-TPSG), sẽ là nơi lý tưởng cho các đại gia nhiều tiền.Một dự án khác là dự án trung tâm hành chính - văn hoá - thương mại Biên Hoà được UB tỉnh Đồng Nai phê duyệt quy hoạch chi tiết năm 2006 với tổng vốn (đang kêu gọi) ước tính sơ sơ cũng cỡ 5 ngàn đồng (khoảng 300 triệu Mỹ kim). Và "điểm" được nhấn mạnh của dự án được đánh giá đầy khả thi thuận lợi đủ đường lại vẫn là... nhờ nằm sát sông Cái - một nhánh của sông Đồng Nai, sẽ kết nối trực tiếp với cù lao Hiệp Hoà, gần 12 ngàn người sẽ phải nhường lại chốn ăn ở cho Khu trung tâm này Dự án tiếp theo đang được Đồng Nai hoàn thiện để "xin" trung ương là chuyển công năng Khu công nghiệp Biên Hoà 1 với diện tích 335 hécta thành trung tâm thương mại - dịch vụ của thành phố Biên Hoà. Và điều đáng nói là khu công nghiệp này lại cũng nằm dọc bờ sông Cái và bám theo Quốc lộ, liền sát trung tâm thương mại ngã tư Vũng Tàu và tất nhiên lại cũng kết nối với cù lao Hiệp Hoà.
Bạn,
Báo Lao Động phân tích rằng nếu để khu công nghiệp ô nhiễm như hiện nay thì sẽ cản trở việc phát triển thành trung tâm thương mại dịch vụ cấp vùng của cù lao này. Nếu được duyệt, hơn 100 doanh nghiệp trung ương, địa phương. Và khu công nghiệp đầu tiên của cả VN với "tuổi thọ" hơn 40 năm và cái tên lưu dấu bao thế hệ "Khu kỹ nghệ Biên Hoà" sẽ chỉ còn là di tích.
http://66.218.69.11/search/cache?ei=UTF-8&p=%C3%B4+nhi%E1%BB%85m+s%C3%B4ng+%C4%91%E1%BB%93ng+nai&fr=moz2&u=www.vietbao.com/%3Fppid%3D45%26pid%3D45%26nid%3D132574&w=al%3A%C3%B4+al%3Anhi%E1%BB%85m+al%3As%C3%B4ng+al%3A%C4%91%E1%BB%93ng+nai&d=A9f2MfReRcSP&icp=1&.intl=us

 

 

2-Hệ thống sông ngòi Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng

Nhiều kết quả khảo sát, quan trắc cho thấy, hàm lượng các chất ô nhiễm trên những lưu vực sông cao vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Sông Tô Lịch vốn thơ mộng nay đã đen ngòm. Hệ thống sông tại Đà Nẵng bị nhiễm lượng cyanua cao vượt mức cho phép. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng ô nhiễm của lưu vực sông Đồng Nai với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nhiều kết quả khảo sát, quan trắc cho thấy, hàm lượng các chất ô nhiễm trên những lưu vực sông cao vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Sông Tô Lịch vốn thơ mộng nay đã đen ngòm. Hệ thống sông tại Đà Nẵng bị nhiễm lượng cyanua cao vượt mức cho phép. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng ô nhiễm của lưu vực sông Đồng Nai với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Các thành phố lớn tại Việt Nam đều có một ưu điểm lớn là gắn với một dòng sông nào đó, nhưng chính các thành phố này đã tự làm mình ô nhiễm và làm dơ bẩn nguồn nước mặt của sông.

Lưu vực sông Đồng Nai phải phục vụ cho khoảng 15 triệu người với tỷ lệ đô thị bình quân toàn lưu vực là 51%, 116 khu đô thị, 4 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận nội thành TP HCM, 8 thị xã, 85 thị trấn. Khu vực này còn có 47 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động, trong đó TP HCM có 13 khu, Đồng Nai 16 khu, 9 khu ở Bình Dương và 6 khu Bà Rịa - Vũng Tàu. Chỉ 16 khu công nghiệp có hệ thống xử lý chất thải tập trung, còn lại đều xả trực tiếp ra môi trường.

Kết quả khảo sát của Viện Môi trường và tài nguyên Đại học quốc gia TP HCM vào đầu năm nay cho thấy, 44 khu công nghiệp thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hàng ngày đã xả vào nguồn nước của hệ thống sông Đồng Nai 111.605 m3 nước thải, trong đó có các chất độc hại như TSS, BOD, COD... Các cơ quan chức năng đều biết tình trạng này nhưng giải quyết như thế nào là điều không đơn giản.

Bà Ngô Thị Vân, Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bình Dương cũng cho biết, 7 khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh xả nước thải 23.000 m3/ngày đêm. Tuy hầu hết các khu công nghiệp này đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng lượng nước thải thu gom đưa về các nhà máy xử lý chỉ đạt khoảng 75%, còn khoảng 25% chỉ xử lý sơ bộ rồi thải trực tiếp ra cống thoát nước mưa, làm cho các nguồn tiếp nhận bị ô nhiễm.

Các nhà khoa học phân tích, nếu mỗi tỉnh thành trong khu vực chỉ tự giải quyết tình trạng ô nhiễm trong phạm vi của mình thì ô nhiễm khó có thể giải quyết triệt để, nỗ lực sẽ trở nên manh mún và nguy cơ lây lan từ thượng nguồn đến hạ nguồn là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

Giáo sư, tiến sĩ Lâm Minh Triết thuộc Văn phòng điều phối Chiến lược quản lý môi trường TP HCM nói: "Đã có một vài thành công trong việc bảo vệ môi trường, nhưng mặt làm được này chỉ mới có tính chất tự phát, chưa phải là từ kế hoạch thống nhất triển khai các nội dung của Chiến lược quản lý môi trường quốc gia". Nhiều nhà khoa học khác cũng lên tiếng đề nghị cần có sự hợp tác giữa các thành phố, tỉnh liên vùng, liên ngành trong bảo vệ môi trường.

Phó giám đốc Sở tài nguyên môi trường TP HCM Nguyễn Văn Chiến đưa ra quan điểm, cộng đồng cũng như cơ quan quản lý Nhà nước cần phải chuyển tư duy từ "Yêu cầu Nhà nước bảo vệ môi trường" sang "Cùng Nhà nước bảo vệ môi trường".

Ngoài ra, để có thể đánh giá mức độ gây ô nhiễm nguồn nước đối với một nguồn thải xác định (nhà máy, khu công nghiệp, cơ sở chăn nuôi...) tại các lưu vực sông, Viện Môi trường-Tài nguyên và Cục Bảo vệ Môi trường đã đề nghị đưa vào một chỉ số gọi là "chỉ số chất lượng nước thải" (IWWQ-Index of Wastewater Quality) làm tiêu chí đánh giá. Chỉ số IWWQ phân cấp mức độ ô nhiễm của một dòng thải từ "Xanh" đến "Đen". Tiêu chí này giúp phân định rõ "trách nhiệm thuộc về ai" khi có nhiều dòng thải cùng đổ vào một con sông.

Tại Hội thảo, Một số khái niệm mới vể Thành phố Xanh cũng được các chuyên gia giới thiệu. Thành phố Xanh ("GreenCity") được xem như một đô thị "phát triển bền vững" khi bảo đảm được các tiêu chí về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Các tiêu chí vừa nói trên đều được cụ thể hoá bằng những chỉ số cụ thể để đánh giá. Trên nền tảng đó, một số chuyên gia nhận định, thước đo về tăng trưởng kinh tế như GDP chưa phản ảnh đúng trạng thái thực của nền kinh tế bền vững do không tính đến tài nguyên và môi trường bị hao hụt. GDP đã trở thành "lá chắn" che chở cho những hành vi huỷ hoại môi trường.
Nguồn: Theo VNE, VNN
 

 

 

3- 10.000 km2 sông ngòi bị ô nhiễm nghiêm trọng

Ông Dương Thanh An, Phó chánh văn phòng phụ trách tổng hợp và pháp luật thuộc Cục Bảo vệ môi trường, đã phát biểu như vậy tại hội thảo "Phát triển bền vững các thành phố xanh trên lưu vực sông" diễn ra sáng nay tại TP HCM
Nhiều kết quả khảo sát, quan trắc cho thấy, hàm lượng các chất ô nhiễm trên những lưu vực sông cao vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Sông Tô Lịch vốn thơ mộng nay đã đen ngòm. Hệ thống sông tại Đà Nẵng bị nhiễm lượng cyanua cao vượt mức cho phép. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng ô nhiễm của lưu vực sông Đồng Nai với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Các thành phố lớn tại Việt Nam đều có một ưu điểm lớn là gắn với một dòng sông nào đó, nhưng chính các thành phố này đã tự làm mình ô nhiễm và làm dơ bẩn nguồn nước mặt của sông.
Lưu vực sông Đồng Nai phải phục vụ cho khoảng 15 triệu người với tỷ lệ đô thị bình quân toàn lưu vực là 51%, 116 khu đô thị, 4 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận nội thành TP HCM, 8 thị xã, 85 thị trấn. Khu vực này còn có 47 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động, trong đó TP HCM có 13 khu, Đồng Nai 16 khu, 9 khu ở Bình Dương và 6 khu Bà Rịa - Vũng Tàu. Chỉ 16 khu công nghiệp có hệ thống xử lý chất thải tập trung, còn lại đều xả trực tiếp ra môi trường.
Kết quả khảo sát của Viện Môi trường và tài nguyên Đại học quốc gia TP HCM vào đầu năm nay cho thấy, 44 khu công nghiệp thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hàng ngày đã xả vào nguồn nước của hệ thống sông Đồng Nai 111.605 m3 nước thải, trong đó có các chất độc hại như TSS, BOD, COD... Các cơ quan chức năng đều biết tình trạng này nhưng giải quyết như thế nào là điều không đơn giản.
Bà Ngô Thị Vân, Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bình Dương cũng cho biết, 7 khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh xả nước thải 23.000 m3/ngày đêm. Tuy hầu hết các khu công nghiệp này đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng lượng nước thải thu gom đưa về các nhà máy xử lý chỉ đạt khoảng 75%, còn khoảng 25% chỉ xử lý sơ bộ rồi thải trực tiếp ra cống thoát nước mưa, làm cho các nguồn tiếp nhận bị ô nhiễm.
Tại hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng, bảo vệ môi trường không là nhiệm vụ của riêng một đơn vị nào, mà cần phải huy động sức mạnh tổng lực của toàn dân.
Các nhà khoa học phân tích, nếu mỗi tỉnh thành trong khu vực chỉ tự giải quyết tình trạng ô nhiễm trong phạm vi của mình thì ô nhiễm khó có thể giải quyết triệt để, nỗ lực sẽ trở nên manh mún và nguy cơ lây lan từ thượng nguồn đến hạ nguồn là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Giáo sư, tiến sĩ Lâm Minh Triết thuộc Văn phòng điều phối Chiến lược quản lý môi trường TP HCM nói: "Đã có một vài thành công trong việc bảo vệ môi trường, nhưng mặt làm được này chỉ mới có tính chất tự phát, chưa phải là từ kế hoạch thống nhất triển khai các nội dung của Chiến lược quản lý môi trường quốc gia". Nhiều nhà khoa học khác cũng lên tiếng đề nghị cần có sự hợp tác giữa các thành phố, tỉnh liên vùng, liên ngành trong bảo vệ môi trường.
Phó giám đốc Sở tài nguyên môi trường TP HCM Nguyễn Văn Chiến đưa ra quan điểm, cộng đồng cũng như cơ quan quản lý Nhà nước cần phải chuyển tư duy từ "Yêu cầu Nhà nước bảo vệ môi trường" sang "Cùng Nhà nước bảo vệ môi trường".
Nguồn: Phan Anh, VNEXPRESS

4- Những Dòng Sông Việt Nam

Sau gần 20 năm mở cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64 khu chế xuất và khu công nghiệp, cộng thêm hàng trăm ngàn cơ sở hóa chất và biến chế trên toàn quốc. Vấn đề chất thải là một nan đề của phát triển đối với những quốc gia còn đang phát triển, và chất thải lỏng trong trường hợp Việt Nam đã trở thành một vấn nạn lớn cho quốc gia hiện tại vì chúng đã được thải hồi thẳng vào các dòng sông mà không qua xử lỶ. Qua thời gian, nguy cơ ô nhiễm ngày càng tăng dần, và cho đến hôm nay, có thể nói rằng tình trạng ô nhiễm trên những dòng sông Việt Nam đã tăng cường độ kinh khủng và không còn phương cách nào cứu chũa được nữa.

Qua báo chí và truyền thanh ở VN từ hơn hai năm qua, tin tức ô nhiễm nguồn nước ở hầu hết sông ngòi VN, đặc biệt ở những nơi có phát triển trọng điểm. Nhiều dòng sông trước kia là nơi giặt giũ tắm rữa, và nước sông được xử dụng như nước sinh hoạt gia đình. Nay tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Người dân ở nhiều nơi không thể dùng những nguồn nước sông nầy nữa.

Những nơi được đề cập đến có thể được chia ra từng khu vực khác nhau từ Bắc chí Nam tùy theo sự phát triển của từng nơi một. Đó là:
- Lưu vực sông Cầu và các phu lưu qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hải Dương;
- Lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy chảy qua các tỉnh Hòa Bình, Tp Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, và Ninh Bình;
- Lưu vực sông Đồng Nai, sông Sài Gòn gồm các tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai (Biên Hòa), Tp HCM, Bà Rịa-Vũng Tàu, Ninh Thuận, và Bình Thuận;
- Lưu vực Tiền Giang và Hậu Giang gồm các tỉnh thuộc ĐBSCL.

H ình 1: Sinh hoạt với nước sông

Lưu vực sông Cầu

Đây không phải là nguy cơ ô nhiễm mà là một lưu vực đã bị ô nhiễm hoàn toàn. Dân số sống trong lưu vực nầy chiếm khoảng 7 triệu trên một diện tích độ 10 ngàn Km2. Trong lưu vực nầy, ngoài khu sản xuất công nghiệp lớn nhất Thái Nguyên, qua việc khai thác mõ và hóa chất, còn có trên dưới 800 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và quy mô công nghiệp nhỏ như các làng nghề tập trung. Lượng chất thải lỏng thải hồi vào lưu vực sông Cầu ước tính khoảng 40 triệu m3/năm. Riêng khu vực Thái Nguyên thải hồi khoảng 24 triệu m3 trong đó có nhiều kim loại độc hại như Selenium, Mangan, Chì, Thiết, Thủy Ngân và các hợp chất hữu cơ từ các nhà máy sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc v.v....

Tại tỉnh Bắc Ninh, có trên 60 làng nghề đã có từ lâu đời. Nơi đây cũng còn có các ngành chế biến lâm sản và kỹ nghệ giấy và tái sinh giấy. Các kỹ nghệ nầy đã phát thải nhiều hóa chất hữu cơ độc hại trong đó các chất tẩy trắng chứa chlor là một nguy cơ ô nhiễm cao nhất. Vì trong công đoạn nầy phát sinh ra dioxin, mầm móng của bịnh ung thư. Thêm nữa, trong các phụ lưu của sông Cầu, hầu hết những thông số phân tích đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn 50 lần như nhu cầu oxy hóa học (COD), lượng oxy hòa tan (DO), tổng cặn lơ lững (TSS), nitrite (NO2).

Với những thông số ghi nhận tên đặc biệt là DO, một thông số chỉ lượng oxy hòa tan rất thấp, nhiều khi dưới 1,0 đơn vị, có nghĩa là trong lưu vực sông Cầu lượng tôm cá hầu như không còn hiện diện nữa.

Lưu vực sông Nhuệ

Dân số trong lưu vực nầy khoảng 10 triệu trên một diện tích 7.700 Km2. Đây là một vùng có mật độ dân số cao trên 1.000 người/Km2 và cũng là một trung tâm kinh tế quan trọng. Do đó ngoài nước thải công nghiệp, cần phải kể thêm nước thải sinh hoạt gia cư, tất cả đều đổ thẳng ra sông hồ. Lượng nước thải sinh hoạt được ước tính là 140 triệu m3 theo thống kê 2004. Còn các nguồn nước thải của trên 120 cơ sở sản xuất công nghiệp ở vùng nầy trừ Hà Nội ước tính khoảng 120 triệu m3/năm. Riêng tại HN, có 400 xí nghiệp và khoảng 11 ngàn cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp thải hồi trung bình 20 triệu m 3/năm. Hà Tây là nơi trọng điểm của làng nghề chiếm 120 làng trên tổng số 286 làng nghề trong khu vực.

Hai hạ lưu có ô nhiễm trầm trọng nhất là sông Nhuệ và sông Tô Lịch với hàm lượng DO hầu như triệt tiêu, nghĩa là không còn điều kiện để cho tôm cá sống được, và vào mùa khô nhiều đoạn sông trên hai sông nầy chỉ là những bãi bùn nằm trơ cùng trời đất.

Lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài Gòn

Lưu vực nầy chẳng những là một vùng đông dân cư như Hà Nội, với diện tích 14.500 Km2 và dân số khoảng 17,5 triệu, và cũng là một vùng tập trung phát triển công nghiệp lớn nhất và cũng là một vùng được đô thị hóa nhanh nhất nước. Hàng năm sông ngòi trong lưu vực nầy tiếp nhận khoảng 40 triệu m3 nước thải công nghiệp, không kể một số lượng không nhỏ của trên 30 ngàn cơ sở sản xuất hóa chất rải rác trong tp HCM. Nước thải sinh hoạt ước tính khoảng 360 triệu m3. Ngoài những chất thải công nghiệp như hợp chất hữu cơ, kim loại độc hại như: đồng, chì, sắt, kẽm, thủy ngân, cadmium, mangan, các loại thuốc bảo vệ thực vật. Nơi đây còn xảy ra hiện tượng nước sông bị acid hóa như đoạn sông từ cầu Bình Long đến Bến Than, nhiều khi độ pH xuống đến 4,0 (độ pH trung hòa là 7,0), và trọng điểm là sông Rạch Tra, nơi tất cả nước rỉ từ các bãi rác thành phố và hệ thống nhà máy dệt nhuộm ở khu Tham Lương đổ vào.

Lưu vực nầy hiện đang bị khai thác quá tải, nước sông hoàn toàn bị ô nhiễm và hệ sinh thái của vùng nầy bị tàn phá kinh khủng, và đây cũng là một yếu tố sống còn cho sự phát triển cho cả nước, chiếm 30% tổng sản lượng quốc dân. Vào tháng 12/2005, Bộ Tài Nguyên & Môi Trường đã tổ chức hội thảo “Bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai” đã nói lên tính cách quan trọng của vấn đề.

Kết luận được ghi nhận trong hội thảo nầy là có 4 khu vực bị ô nhiễm trầm trọng. Đó là: 1 - Đoạn sông Đồng Nai từ cầu Hóa An đến cầu Đồng Nai, nơi cung cấp nguồn nước chính cho cư dân Sài Gòn, 2 - Đoạn từ Bình Phước đến Tân Thuận, địa phận của trên 10 khu chế xuất, 3 - Đoạn sông Thị Vải từ nhà máy hóa chất và bột ngọt Vedan của Đài Loan đến cảng Phú My, 4 - Và nước sông Vàm Cỏ Đông. Riêng sông Vàm Cỏ Đông, nước sông nầy đang bị acid hóa nặng. Công ty Vedan sau nhiều lần được Sở MT Tp đề nghị đóng cửa từ năm 1997, hiện nay vẫn là một đề tài nhức nhối cho Bộ TN&MT. Theo chỉ thị của ông Mai Ái Trực, Bộ Trưởng, tại đây cần phải có chuyên viên túc trực hàng ngày để theo dõi tình trạng ô nhiễm; và trong năm 2006, nếu cty không giải quyết các vấn đề ô nhiễm sẽ được chế tài bằng kỹ thuật và sẽ được đệ trình đóng cửa vĩnh viễn.

Hiện nay, lưu vực sông Đồng Nai có 39 khu chế xuất, khu công nghiệp; và số lượng nầy sẽ tăng lên 74 đến năm 2010 theo kế hoạch đã soạn thảo xong. Do đó tình trạng ô nhiễm trong những năm sắp đến sẽ trở nên câu chuyện hàng ngày của lưu vực nầy.

Lưu vực sông tiền Giang và Hậu Giang

Đây là một vùng hết sức đặc biệt và cũng là một lưu vực lớn nhất và đông dân nhất với diện tích 39 ngàn Km2 và gần 30 triệu cư dân.. Phát triển kinh tế nơi đây đặt trọng tâm là nông nghiệp và chăn nuôi thủy sản. Vì đây không phải là một trọng điểm công nghiệp cho nên những vấn nạn môi trường không giống như tình trạng của 3 lưu vực vừa kể trên. Nhưng việc khai thác nông nghiệp và thủy sản đã trở thành một vấn đề cần phải lưu tâm trong hiện tại. Việc ô nhiễm hóa chất do dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật là kết quả của việc khai thác tối đa nguồn đất cho nông nghiệp. Đã có nhiều chỉ dấu cho thấy các hóa chất độc hại như DDT, nitrate, hóa chất BVTV thuộc nhóm organo-phosphate , nguyên nhân của những mầm bịnh ung thư đã hiện diện trong nước. Thêm nữa viễn ảnh nguồn nước ở lưu vực nầy bị ô nhiễm arsenic do việc đào trên 300 ngàn giếng để dùng cho sinh hoạt và tưới tiêu cũng sẽ là một quốc nạn trong tương lai không xa. Thêm nữa, việc khai thác chăn nuôi thủy sản trên sông, ngoài việc làm cản trở dòng chảy của sông, việc di chuyển trên sông sẽ khó khăn thêm, mà còn là một vấn nạn môi trường không thể tránh khỏi. Từ thượng nguồn Châu Đốc, An Giang, cho đến tận Mỹ Tho, cá bè trong mùa cá vừa qua bị chết hàng loạt do nguồn nước ô nhiễm từ thượng nguồn do cá chết lây lan xuống hạ lưu. Kết quả là trên 40% lượng tâm cá bị thất thoát trong mùa vừa qua (VN trong gian đoạn nầy phải nhập cảng tôm sú và cá basa của Trung Quốc và Mã Lai để thanh toán hợp đồng còn đang tồn động với các nước khác).

Ngoài ra, do việc tận dụng nguồn nước cho tưới tiêu, việc khai mở đê điều không hợp lỶ đã khiến cho ĐBSCL phải đối mặt với vấn đề ngập mặn do nạn hạn hán kéo dài trong khi hệ sinh thái có nguy cơ bị hủy diệt do ô nhiễm. Năm 2005 vừa qua, nước mặn đã vào sâu trên 120 Km trong đất liền làm tăng khả năng bị hoang hóa của đất trong vùng nầy.

Đề nghị góp Ỷ

Phát triển kinh tế không đi đôi với việc bảo vệ môi trường, kết quả tất nhiên là tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp và cường độ ô nhiễm ngày càng tăng thêm mà thôi. Tình trạng cho đến ngày hôm nay có thể nói là đã đến giai đoạn gần như bế tắc. Chính ông BT TN&MT cũng đã kêu gọi địa phương cứu lấy các con sông trước khi quá muộn, đừng để như trường hợp của sông Đáy và sông Tô Lịch. Tương lai là những dòng sông VN sẽ trở nên những dòng sông chết cũng như việc phát triển sẽ bị khưng lại vì môi trường không thể chấp nhận thêm nguồn nước thải thêm nữa. Chúng tôi thiết nghĩ VN không còn nhiều thời gian để giải quyết vấn đề nếu không nói là đã muộn rồi. Những việc cấp bách cần làm để có thể cứu vãn tình hình được đề nghị như sau:

- Cần phải tái phối trí kế hoạch xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất trên toàn diện cả nước để tránh bớt áp lực của những khu vực trọng điểm;
- Trong một khu công nghiệp cần phải điều phối để cho những cơ sở sản xuất có thể liên hợp với nhau như thành phẩm hay phế thải của một cơ sở sẽ là nguyên liệu của một cơ sở khác, hay ngược lại. Đây mới chính là suy nghĩ đúng đắn của việc thành hình một khu công nghiệp.

Làm được hai việc trên, mới hy vọng có thể tháo gở được một phần nào tình trạng ô nhiễm của những dòng sông VN hiện tại.

Mai Thanh Truyết
West Covina, 2/2006

http://66.218.69.11/search/cache?ei=UTF-8&p=%C3%B4+nhi%E1%BB%85m+s%C3%B4ng+%C4%91%E1%BB%93ng+nai&fr=moz2&u=vastvietnam.org/nghiencuu/dsvn.htm&w=al%3A%C3%B4+al%3Anhi%E1%BB%85m+al%3As%C3%B4ng+al%3A%C4%91%E1%BB%93ng+nai&d=e-KrcfReRck2&icp=1&.intl=us
 

5- Thấy gì qua một hội nghị về môi trường?

 

6- Lợi nhuận có bù đắp chi phí cải thiện môi trường?

 

7- Ô nhiễm nguồn nước: Những con số giật mình

 

8- "Rửa" sông Thị Vải để giải quyết ô nhiễm

30/08/2008
Nguyễn Long
Cảng vụ hàng hải Vũng Tàu đã đề xuất phương án giải quyết tình trạng ô nhiễm sông Thị Vải tới UBND 2 tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai. Cụ thể, một đoạn kênh đào dài khoảng 16 km (rộng 200m, sâu khoảng 12m) nối từ thượng nguồn sông Thị Vải tới cù lao Ông Cồn hoặc khu vực Long Tân, Phú Hội trên sông Đồng Nai sẽ giúp cho nước trên sông Thị Vải lưu thông và dần dần thau rửa ô nhiễm của con sông này.
Theo Cảng vụ hàng hải Vũng Tàu, vì Thị Vải là sông cụt nên nước không thoát được, nếu đào kênh không những giải quyết được tình trạng ô nhiễm mà còn tạo thêm tuyến vận tải bằng đường thủy từ Vũng Tàu đi TP.HCM và Đồng Nai, góp phần giảm mật độ lưu thông trên tuyến đường thủy hiện có và cả đường bộ. Tuyến kênh này còn rút ngắn được hơn 20 km trên tuyến đường thủy từ Vũng Tàu đi TP.HCM. Dọc tuyến kênh đào này có thể xây dựng thêm được nhiều cảng và khu công nghiệp ở hai bờ, đồng thời tận dụng được lượng đất cát từ đào kênh phục vụ san lấp. Việc đầu tư xây dựng con kênh này có thể bằng hình thức xã hội hóa.
Nguyễn Long
Nạn Ô Nhiễm Đang Lan Tới Thượng Nguồn Sông Sài Gòn
VNN
(Sài Gòn - VNN) Báo Thanh Niên cho hay tình trạng ô nhiễm đang diễn ra hằng ngày trên hệ thống các con sông Sài Gòn -Đồng Nai. Dòng nước ô nhiễm này có thể tràn ngược lên thượng lưu, nơi là nguồn cung cấp nước cho khoảng 10 triệu dân Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai và vùng phụ cận. Một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm nghiêm trọng trên sông Sài Gòn là nước thải chưa được xử lý từ các nhà máy sản xuất.
Đợt triều cường dâng cao vừa qua đã vào sâu các cống rãnh kênh rạch, rửa trôi các chất ô nhiễm lưu cữu hàng chục năm qua rồi đến khi triều rút đã kéo dòng nước đen từ kênh Thanh Lương, Bến Cát, Vàm Thuật và các kênh rạch nội thành ra sông Sài Gòn. Do ảnh hưởng của chế độ thủy triều, dòng nước đen không tiêu thoát ngay mà cứ dập dềnh, gây ô nhiễm cả một khúc sông, từ khu vực nội thành đến cầu Bình Phước. Tác hại của sự việc này chưa kịp giải quyết thì mới đây, tai nạn giao thông do tàu biển đâm thủng sà lan chở dầu ở khu vực Cảng ELf Gas đã "bồi" thêm mức độ ô nhiễm cho sông Sài Gòn.
Tình trạng ô nhiễm hệ thống sông rạch trên địa bàn Sài Gòn đã và đang diễn ra hàng ngày mà hiện nay vẫn chưa có biện pháp nào kềm hãm lại được. Điều đáng quan tâm là liệu ô nhiễm ở hạ lưu sông Sài Gòn - Đồng Nai có ảnh hưởng đến thượng lưu, nơi là nguồn cung cấp nước cho thành phố Sài Gòn và các tỉnh trong khu vực hay không? Ông Lê Văn Khoa, Phó phòng Quản lý môi trường thuộc Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường Sài Gòn cho hay, dòng nước ô nhiễm phía hạ lưu khó có khả năng tiến sâu về thượng lưu, nhưng vùng thượng lưu lại có một tác nhân gây ô nhiễm đáng ngại là dầu. Trên 2 con sông này đang bị ô nhiễm dầu mỡ ở mức đáng quan ngại. Trên sông Đồng Nai, hoạt động giao thông thủy cùng với nước thải vệ sinh công nghiệp... đã đẩy các vết dầu loang xuống sông. Làm cho mức độ ô nhiễm dầu mỡ trên sông vượt xa tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước sinh hoạt (nguồn loại A).
Theo ông Khoa cho hay, để giải quyết căn cơ tình trạng ô nhiễm sông rạch, thành phố Sài Gòn chưa đủ sức làm mà phải nhờ vào "ngoại lực". Giải quyết ô nhiễm lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, phải tốn gần 200 triệu đô la vay từ Ngân hàng Thế giới và còn tốn khoảng vài trăm triệu đô la nữa mới xử lý nguồn nước ô nhiễm trên lưu vực này. Kênh tàu Hũ - rạch Bến Nghé - kênh Đôi - kênh Tẻ cũng tốn đến hơn trăm triệu đô la để giải quyết, vốn vay từ Nhật Bản. Có nghĩa là, việc giải quyết ô nhiễm kênh rạch Sài Gòn đều còn phải chờ dự án, chờ tiền... trong khi "tốc độ" ô nhiễm thì luôn "chạy nhanh hơn thời gian chờ đợi. Cập nhật: 20/01/2003
http://66.218.69.11/search/cache?ei=UTF-8&p=%C3%B4+nhi%E1%BB%85m+s%C3%B4ng+%C4%91%E1%BB%93ng+nai&xa=OCn3KxQ7SLeRk4e5mHXX3A--%2C1221652231&fr=moz2&u=www.lenduong.net/spip.php%3Farticle2634&w=al%3A%C3%B4+al%3Anhi%E1%BB%85m+al%3As%C3%B4ng+al%3A%C4%91%E1%BB%93ng+nai&d=Y3j_IPReRZbE&icp=1&.intl=us

9- Nạn Ô Nhiễm Đang Lan Tới Thượng Nguồn Sông Sài Gòn
 

VNN
(Sài Gòn - VNN) Báo Thanh Niên cho hay tình trạng ô nhiễm đang diễn ra hằng ngày trên hệ thống các con sông Sài Gòn -Đồng Nai. Dòng nước ô nhiễm này có thể tràn ngược lên thượng lưu, nơi là nguồn cung cấp nước cho khoảng 10 triệu dân Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai và vùng phụ cận. Một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm nghiêm trọng trên sông Sài Gòn là nước thải chưa được xử lý từ các nhà máy sản xuất.
Đợt triều cường dâng cao vừa qua đã vào sâu các cống rãnh kênh rạch, rửa trôi các chất ô nhiễm lưu cữu hàng chục năm qua rồi đến khi triều rút đã kéo dòng nước đen từ kênh Thanh Lương, Bến Cát, Vàm Thuật và các kênh rạch nội thành ra sông Sài Gòn. Do ảnh hưởng của chế độ thủy triều, dòng nước đen không tiêu thoát ngay mà cứ dập dềnh, gây ô nhiễm cả một khúc sông, từ khu vực nội thành đến cầu Bình Phước. Tác hại của sự việc này chưa kịp giải quyết thì mới đây, tai nạn giao thông do tàu biển đâm thủng sà lan chở dầu ở khu vực Cảng ELf Gas đã "bồi" thêm mức độ ô nhiễm cho sông Sài Gòn.
Tình trạng ô nhiễm hệ thống sông rạch trên địa bàn Sài Gòn đã và đang diễn ra hàng ngày mà hiện nay vẫn chưa có biện pháp nào kềm hãm lại được. Điều đáng quan tâm là liệu ô nhiễm ở hạ lưu sông Sài Gòn - Đồng Nai có ảnh hưởng đến thượng lưu, nơi là nguồn cung cấp nước cho thành phố Sài Gòn và các tỉnh trong khu vực hay không? Ông Lê Văn Khoa, Phó phòng Quản lý môi trường thuộc Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường Sài Gòn cho hay, dòng nước ô nhiễm phía hạ lưu khó có khả năng tiến sâu về thượng lưu, nhưng vùng thượng lưu lại có một tác nhân gây ô nhiễm đáng ngại là dầu. Trên 2 con sông này đang bị ô nhiễm dầu mỡ ở mức đáng quan ngại. Trên sông Đồng Nai, hoạt động giao thông thủy cùng với nước thải vệ sinh công nghiệp... đã đẩy các vết dầu loang xuống sông. Làm cho mức độ ô nhiễm dầu mỡ trên sông vượt xa tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước sinh hoạt (nguồn loại A).
Theo ông Khoa cho hay, để giải quyết căn cơ tình trạng ô nhiễm sông rạch, thành phố Sài Gòn chưa đủ sức làm mà phải nhờ vào "ngoại lực". Giải quyết ô nhiễm lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, phải tốn gần 200 triệu đô la vay từ Ngân hàng Thế giới và còn tốn khoảng vài trăm triệu đô la nữa mới xử lý nguồn nước ô nhiễm trên lưu vực này. Kênh tàu Hũ - rạch Bến Nghé - kênh Đôi - kênh Tẻ cũng tốn đến hơn trăm triệu đô la để giải quyết, vốn vay từ Nhật Bản. Có nghĩa là, việc giải quyết ô nhiễm kênh rạch Sài Gòn đều còn phải chờ dự án, chờ tiền... trong khi "tốc độ" ô nhiễm thì luôn "chạy nhanh hơn thời gian chờ đợi. Cập nhật: 20/01/2003
http://66.218.69.11/search/cache?ei=UTF-8&p=%C3%B4+nhi%E1%BB%85m+s%C3%B4ng+%C4%91%E1%BB%93ng+nai&xa=OCn3KxQ7SLeRk4e5mHXX3A--%2C1221652231&fr=moz2&u=www.lenduong.net/spip.php%3Farticle2634&w=al%3A%C3%B4+al%3Anhi%E1%BB%85m+al%3As%C3%B4ng+al%3A%C4%91%E1%BB%93ng+nai&d=Y3j_IPReRZbE&icp=1&.intl=us
 

10- Sông Đồng Nai: Tốc độ ô nhiễm tăng nhanh

08/06/2007 09:17


Có lẽ chuyện chất lượng nước sông Đồng Nai đang bị suy giảm nghiêm trọng không phải là chuyện mới. Trước đây, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường (TN-MT) Mai Ái Trực đã phải tổ chức họp với lãnh đạo 12 tỉnh thành có liên quan đến sông Đồng Nai nhằm tìm ra giải pháp cứu con sông này.
Tại cuộc họp, nhiều tỉnh thành đã thể hiện quyết tâm tăng cường công tác hậu kiểm nhằm chấm dứt tình trạng xả thải chưa qua xử lý của các doanh nghiệp. Thế nhưng cho đến nay, lời hứa về một quyết tâm làm sạch sông Đồng Nai dường như đang bị lãng quên...
Nguồn nước từ thượng đến hạ đang... chết
Hệ thống sông Đồng Nai bao gồm các sông chính như lưu vực sông Đa Dung – Đa Nhim – Đồng Nai, sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ và hạ lưu sông Đồng Nai, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất chủ yếu cho 12 tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (bao gồm TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, Long An).
Cục Bảo vệ Môi trường (Bộ TN-MT) cho biết, tại một số đoạn sông, hồ như thác Cam Ly và nhất là hồ Trị An phía thượng nguồn, nồng độ ôxy hòa tan (DO) trong nước tụt giảm đến mức kỷ lục và kéo dài suốt một đoạn dài gần 10 km từ sau cầu La Ngà, kèm theo các mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ mặt hồ. Còn theo ông Trần Nguyên Hiền, Trưởng phòng Quản lý Môi trường Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM, khu vực hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai, tình trạng suy thoái nguồn nước còn nghiêm trọng hơn.
Ô nhiễm hữu cơ, dầu và vi sinh nguồn nước tại các trạm Phú Cường, Bình Phước và Phú An thuộc khu vực TPHCM liên tục gia tăng, ô nhiễm vi sinh vượt tiêu chuẩn cho phép đến 168 lần, không đạt tiêu chuẩn chất lượng nước mặt dùng làm nguồn nước cấp sinh hoạt. Cá biệt, tại lưu vực sông Thị Vải có một đoạn sông dài gần 10km đã chết. Nước bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, nước màu nâu đen và bốc mùi hôi thối kể cả thời gian thủy triều lên và xuống. Giá trị DO thường xuyên dưới 0,5mg/l – mức mà không còn loài sinh vật nào có khả năng sinh sống. Ô nhiễm vi sinh thì vượt tiêu chuẩn cho phép lên đến hàng trăm lần. Đáng ngại nhất là tại khu vực cảng Vedan, cảng Mỹ Xuân, thì hàm lượng thủy ngân vượt 1,5 – 4 lần, kẽm vượt 3-5 lần so với tiêu chuẩn quy định.
Cha chung không ai khóc
Lý giải thực trạng này, ông Trần Hồng Hà, Cục trưởng Cục Bảo vệ Môi trường bức xúc: Nguyên nhân chính chủ yếu vẫn là do các khu công nghiệp đang hoạt động tại 12 tỉnh thành vẫn chưa xử lý nước thải trước khi xả ra sông hoặc có xử lý nhưng chất lượng nước sau xử lý không đạt yêu cầu. Hiện vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã có gần 70 KCN và KCX đang hoạt động. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh có 15 khu, Đồng Nai 16 khu (trong số 23 KCN được quy hoạch), Bình Dương 16 khu (trong số 25 khu đã được quy hoạch), Bà Rịa – Vũng Tàu 8 khu, Long An 3 khu (trong số 22 KCN được quy hoạch), Bình Phước 3 khu, Tây Ninh 1 khu... Đó là chưa kể đến một khối lượng lớn nước sinh hoạt khác không qua xử lý vẫn thải thẳng ra sông.
Tiến sĩ Lâm Minh Triết cảnh báo, tốc độ gia tăng ô nhiễm trong 5 năm lại đây tăng lên rất nhanh. Hiện bình quân hệ thống sông Đồng Nai tiếp nhận khoảng 111.600m3 nước thải công nghiệp/ngày, trong đó chứa hàng chục tấn hóa chất vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên, quy mô và nhịp độ phát triển công nghiệp trên lưu vực này tiếp tục tăng trưởng trên 15%/năm. Các chuyên gia môi trường cho biết thêm, nếu không có ngay các hành động để bảo vệ môi trường thì đến năm 2010, mỗi ngày hệ thống sông Đồng Nai sẽ tiếp nhận thêm khoảng 1,73 triệu m3 nước thải sinh hoạt (trong đó có khoảng 702 tấn cặn lơ lửng, 421 tấn BOD5, 756 tấn COD, 59 tấn nitơ tổng, 15 tấn phospho tổng, 243 tấn dầu mỡ phi khoáng và nhiều vi trùng gây bệnh) và khoảng 1,54 triệu m3 nước thải công nghiệp (trong đó có khoảng 278 tấn cặn lơ lửng, 231 tấn BOD5, 493 tấn COD, 89 tấn nitơ tổng, 12 tấn phospho và nhiều kim loại nặng...).
Các con số này chưa tính đến khả năng “đóng góp” ô nhiễm của hàng vạn cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đang tồn tại bên ngoài các khu công nghiệp tập trung. Đáng lo ngại nhất là ngoài những chất thải đã phát hiện còn xuất hiện thêm nhiều chất thải độc hại khác mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa có đủ phương tiện máy móc để phát hiện. Cuộc sống của hơn 15 triệu người ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng. Và chắc chắn lợi nhuận thu được hoạt động kinh tế sẽ không thể đủ để bù đắp cho chi phí phải trả cho việc cải thiện môi trường!
Chú trọng hậu kiểm nhưng khó thực hiện
Đó đang là thực tế của công tác kiểm tra, xử phạt vi phạm quy định về môi trường đang tồn tại ở hầu khắp tỉnh thành. Bà Nguyễn Thị Dụ, chánh thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM cho biết, mức phạt vi phạm Luật Bảo vệ Môi trường (cao nhất là 70 triệu) quá thấp vẫn luôn là kẻ hở để doanh nghiệp tiếp tục cố tình không chấp hành. Mặt khác, cơ chế phối hợp kiểm tra, xử lý giữa các tỉnh thành rất khó thực hiện. Lợi dụng thực trạng đó, nhiều doanh nghiệp đóng tại khu vực giáp ranh giữa các tỉnh liên tục vi phạm quy định về xả thải. Riêng tại TPHCM, ông Trần Thế Ngọc, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM cho biết, trong khi chờ đề án “Bảo vệ hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai” được thông qua, bản thân TPHCM đã chủ động phối hợp với các tỉnh kế cận như Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương và Đồng Nai - là những địa phương có số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp và dân cư nằm dọc theo lưu vực các sông lớn nhất để ngăn chặn và xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường ở sông Sài Gòn trước. TPHCM đã mạnh dạn đóng cửa sản xuất hơn 100 doanh nghiệp gây ô nhiễm nặng, đã bị nhắc nhở và xử phạt nhiều lần do vi phạm quy định về xả thải. Tuy nhiên, để có thể cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường hiện tại thì có lẽ con số doanh nghiệp sản xuất bị đóng cửa do không đảm bảo các quy định về bảo vệ môi trường cần phải được tăng theo cấp số nhân và không chỉ có riêng TPHCM thực hiện mà đòi hỏi nhiều tỉnh thành khác cũng phải triệt để thực hiện.

Giải pháp tổng thể nhằm cứu lấy sông Đồng Nai đã được cụ thể hóa bằng đề án “Bảo vệ hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai”. Theo đó, xây dựng một loạt hệ thống quan trắc chất lượng nước; tiến hành các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm kết hợp xử lý ô nhiễm; bảo vệ rừng đầu nguồn, xây dựng lộ trình buộc các doanh nghiệp trong khu vực không được xả nước thải công nghiệp chưa được xử lý ra sông… Kế hoạch thực hiện từ nay đến 2010 là tăng cường năng lực quản lý, cải thiện, phòng ngừa ô nhiễm, đảm bảo 100% KCN-KCX có trạm xử lý nước thải tập trung; đến 2015 giải quyết trên 90% cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn của tất cả các tỉnh, ít nhất 60% các khu đô thị có hệ thống xử lý nước thải tập trung, thu gom 90% chất thải rắn sinh hoạt (không cho xả bỏ xuống sông), xử lý 100% chất thải nguy hại; đến năm 2020 giải quyết xong 95% cơ sở sản xuất ô nhiễm, 70% khu đô thị có hệ thống xử lý nước thải, thu gom 95% chất thải rắn sinh hoạt, xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của từng tỉnh thành, các giai đoạn thực hiện, các biện pháp áp dụng được nêu rõ nhưng cho đến nay đề án này vẫn đang… chờ phê duyệt.

CIRENet (Theo SGGP)
 

11- Dòng Kênh Bị ‘Ung Thư’

Việt Báo Thứ Năm, 8/28/2008, 9:03:00 PM
Theo báo Sài Gòn,nguồn tin từ ngành quản lý môi trường VN cho biết, hệ thống kênh rạch của thành phố Sài Gòn mỗi ngày phải hứng chịu 40 tấn rác thải các loại và 70 ngàn mét khối nước thải công nghiệp chưa qua khử lọc. Với một thực trạng như vậy, những dòng kênh xanh đã biến thành những dòng kênh bị "ung thư". Báo Lao Động ghi nhận về thảm họa này như sau.
Trong khu vực nội thành, những dòng kênh như Nhiêu Lộc -Thị Nghè, kênh Đôi - kênh Tẻ, kênh Tàu Hủ, Tân Hóa - Lò Gốm, bị ô nhiễm từ vài chục năm nay là chuyện đã đành thì đến hiện nay ngay khu vực ngoại thành từ Bình Chánh, Hóc Môn đến Củ Chi... những dòng kênh vốn dành cho việc tưới tiêu trước đây nay cũng biến thành những dòng kênh mà người dân đã gọi là kênh sủi bọt, kênh ngứa, kênh nín thở...
Theo Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Bình Chánh, trong hệ thống 72 tuyến kênh trên địa bàn huyện đến nay không còn bất cứ dòng kênh nào mà không bị ô nhiễm nặng. Hậu quả này cũng dễ hiểu khi có đến hơn 1,000 cơ sở sản xuất trong vài năm qua hàng ngày đua nhau xả thải xuống hệ thống kênh này.
Theo một kết quả kiểm tra mới đây của Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Bình Chánh, chỉ có vẻn vẹn 22 trong số gần 1,000 cơ sở sản xuất có trang bị hệ thống xử lý nước thải. 70% chiều dài của các tuyến kênh trên địa bàn thành phố bị ô nhiễm nặng, trong đó, tuyến kênh An Hạ-Thầy Cai được xếp vào nhóm ô nhiễm gia tăng nhanh nhất, chủ yếu là hoá chất dệt nhuộm, hóa chất phục vụ ngành caosu, kim loại nặng và chất rắn lơ lửng...
Nước ô nhiễm của tuyến kênh này có lần đã làm chết cá của một số hộ dân trên địa bàn 2 huyện Đức Hoà, Đức Huệ tỉnh Long An. Một tuyến kênh khác cũng được xếp vào loại điểm nóng là kênh Ba Bò của khu vực giáp ranh tỉnh Bình Dương và quận Thủ Đức, TPSG. Theo trình bày của người dân với Hội đồng TPSG, có những ngày nước kênh thay đổi sắc thái đến 3 lần: Sáng đỏ (hoá chất dệt nhuộm) trưa có màu đen và hôi, vào buổi chiều thì sủi bọt. Nhiều khi bọt sủi nhiều đến mức tràn lên bờ...
Bạn,
Cũng theo báo Lao Động, ô nhiễm không chỉ là thực trạng của các dòng kênh mà ngay cả lưu vực sông Đồng Nai, trong đó có sông Sài Gòn nguồn cấp nước sinh hoạt cho hơn 10 triệu dân của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam cũng đang bị ô nhiễm nặng. Lưu vực sông Đồng Nai chảy qua 11 tỉnh thành: Đắc Nông, Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Lâm Đồng, TPSG, Long An và Bà Rịa-Vũng Tàu và Bình Phước. Hoạt động công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển đô thị... được các nhà khoa học xem là nguyên nhân chính gây ô nhiễm cho lưu vực hệ thống sông Đồng Nai nói chung và sông Sài Gòn nói riêng.
http://66.218.69.11/search/cache?ei=UTF-8&p=%C3%B4+nhi%E1%BB%85m+s%C3%B4ng+%C4%91%E1%BB%93ng+nai&xa=OCn3KxQ7SLeRk4e5mHXX3A--%2C1221652231&fr=moz2&u=www.vietbao.com/%3Fppid%3D45%26pid%3D45%26nid%3D133544&w=al%3A%C3%B4+al%3Anhi%E1%BB%85m+al%3As%C3%B4ng+al%3A%C4%91%E1%BB%93ng+nai&d=WwCGG_ReRdVN&icp=1&.intl=us

12-PGS - TS Khoa học Lê Huy Bá, Viện trưởng Viện KHCN - QLMT (IESEM)

Thứ sáu, 22/02/2008, 11:51 (GMT+7)

GS - TS Khoa học Lê Huy Bá. ẢNH: ĐỨC THIỆN
Theo kế hoạch của Bộ Tài nguyên - Môi trường, ngày 26-2-2008, bộ sẽ chủ trì một hội nghị cấp khu vực bàn về việc bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai. Là một trong những nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam về môi trường, đồng thời cũng là một trong những nhà khoa học có nhiều tâm huyết và thời gian nghiên cứu về lưu vực con sông này, thế nhưng Giáo sư - Tiến sĩ Khoa học Lê Huy Bá lại đón nhận thông tin ấy với tâm trạng hoài nghi: “Liệu hội nghị giải quyết được vấn đề gì khi mà cách nay 10 năm, chúng tôi đã liên tục cảnh báo về tình trạng ô nhiễm môi trường ở lưu vực sông Đồng Nai song không được phản hồi đúng mức”.
* Điều gì làm một nhà khoa học như ông lại băn khoăn như vậy?
* Lưu vực sông Đồng Nai đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đất thì bị thoái hóa, xói mòn trầm trọng ở nhiều nơi như Long Khánh, Đức Trọng…, đặc biệt đất đỏ bazan, đất xám phù sa cổ đã có biểu hiện mất chất màu. Không ít vùng ở phía thượng lưu, đất đã bị cuốn trôi, trồi, trượt và nứt thành những rãnh lớn rất nguy hiểm. Ở hạ lưu, đất đã bị lở bờ. Nước ở thượng nguồn còn tương đối tốt song phía hạ nguồn đã bị ô nhiễm trầm trọng do nước thải công nghiệp chưa được xử lý đúng mức, thải ra.
Trong đó, sông Sài Gòn đã bị ô nhiễm đến mức báo động. Sông Thị Vải đã chết hoàn toàn. Sông Chợ Đệm, Thầy Cai cũng không khỏe… Đất và nước bị ô nhiễm thì cây trồng làm sao khỏe? Hiện nhiều loại cây ở đây cũng đã bị thoái hóa, năng suất, chất lượng kém. Đó là chưa kể đến một thực tế, chúng ta đã mất rất nhiều rừng do nạn chặt phá rừng chưa ngăn chặn được như mong muốn. Đất không có rừng, có cây làm thảm phủ giữ nước thì sẽ không giữ được nước, gây khô hạn vào mùa khô và lũ vào mùa mưa. Tất cả những vấn đề ấy đang ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sống của người dân trong lưu vực.
Cách đây khoảng 10 năm, chúng tôi đã cảnh báo điều này. Nhiều cuộc họp bàn về lưu vực sông Đồng Nai đã được tổ chức. Thế nhưng… hầu như chưa giải quyết được vấn đề gì. Lưu vực sông Đồng Nai là một lưu vực lớn, đi qua nhiều địa phương như Đồng Nai, Bình Dương, TPHCM… Đáng lẽ các địa phương này phải “ngồi lại với nhau” để cùng bảo vệ môi trường sống của chính mình thì không hiểu vì lý do gì mà “không anh nào chịu anh nào”. Trong khi đó, ngành chức năng lại không có một chính sách thích hợp để gắn kết các địa phương này lại, buộc họ có những quan tâm thích đáng đến vấn đề bảo vệ môi trường chung.

Căn bệnh đã rõ ràng như thế, mọi người đều biết song cảnh báo hoài mà chẳng thấy được quan tâm giải quyết… Những nhà khoa học như tôi làm sao không băn khoăn cho được.
* Dường như ngành chức năng cũng đã có những chuyển biến đáng kể trong việc bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai. Bằng chứng là vừa rồi Chính phủ đã có quyết định thành lập Ủy ban bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai. Còn sắp tới, như đã nói ở trên, Bộ Tài nguyên - Môi trường sẽ chủ trì một hội nghị bàn về việc này.

* Nếu có được các giải pháp rõ ràng, cụ thể để bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai thì tốt quá. Tuy nhiên, tôi cũng muốn lưu ý rằng: bảo vệ lưu vực sông không phải chỉ bảo vệ nguồn nước mà phải quan tâm, bảo vệ tất cả các vấn đề về đất, động thực vật trong đó có cả con người. Và điều quan trọng hơn cả là Nhà nước phải có lời giải chung cho bài toán tổng hợp về môi trường, kinh tế - xã hội chứ không nên tách lẻ, giải quyết từng việc.
Thời gian qua, một số địa phương cũng có nỗ lực giải quyết các vấn đề về môi trường nhưng vì giải quyết theo kiểu lẻ mẻ nên kết quả không đến đâu. Chính phủ nên có một tổ chức thực sự có quyền lực để điều phối công tác bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai. Không nên áp dụng hình thức: các tỉnh luân phiên chủ trì vì mô hình này không hiệu quả.

* Như vậy, theo ông, cần có một giải pháp mạnh mẽ, cương quyết và đúng đắn hơn nữa thì mới giải quyết được vấn đề ô nhiễm cho lưu vực sông Đồng Nai?
* Đúng vậy, nhất là khi quá trình tự làm sạch của các sông trong khu vực rất kém. Vùng giáp nước của nhiều sông trong khu vực (vùng giao giữa dòng nước chảy xuôi từ thượng nguồn xuống với dòng nước chảy ngược lên do ảnh hưởng của thủy triều - PV) rất rộng. Tại đây, tốc độ nước chảy rất chậm, các chất thải không trôi đi được mà lắng đọng lại. Nước bị ô nhiễm, các loại thủy sản cũng sẽ bị ô nhiễm theo. Cây cối, rau xanh được tưới bằng nước này cũng sẽ bị ô nhiễm. Rồi con người sử dụng cá, rau xanh… làm thực phẩm cũng sẽ bị nhiễm độc. Một vòng tròn luẩn quẩn!


Lưu vực sông Đồng Nai gồm các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận và TPHCM).

NGUYỄN KHOA
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/2/143783/

13- Lưu vực sông Đồng Nai: Ô nhiễm đã đến mức báo động
 

Thứ sáu, 22/02/2008, 11:51 (GMT+7)

GS - TS Khoa học Lê Huy Bá. ẢNH: ĐỨC THIỆN
Theo kế hoạch của Bộ Tài nguyên - Môi trường, ngày 26-2-2008, bộ sẽ chủ trì một hội nghị cấp khu vực bàn về việc bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai. Là một trong những nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam về môi trường, đồng thời cũng là một trong những nhà khoa học có nhiều tâm huyết và thời gian nghiên cứu về lưu vực con sông này, thế nhưng Giáo sư - Tiến sĩ Khoa học Lê Huy Bá lại đón nhận thông tin ấy với tâm trạng hoài nghi: “Liệu hội nghị giải quyết được vấn đề gì khi mà cách nay 10 năm, chúng tôi đã liên tục cảnh báo về tình trạng ô nhiễm môi trường ở lưu vực sông Đồng Nai song không được phản hồi đúng mức”.
* Điều gì làm một nhà khoa học như ông lại băn khoăn như vậy?
* Lưu vực sông Đồng Nai đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đất thì bị thoái hóa, xói mòn trầm trọng ở nhiều nơi như Long Khánh, Đức Trọng…, đặc biệt đất đỏ bazan, đất xám phù sa cổ đã có biểu hiện mất chất màu. Không ít vùng ở phía thượng lưu, đất đã bị cuốn trôi, trồi, trượt và nứt thành những rãnh lớn rất nguy hiểm. Ở hạ lưu, đất đã bị lở bờ. Nước ở thượng nguồn còn tương đối tốt song phía hạ nguồn đã bị ô nhiễm trầm trọng do nước thải công nghiệp chưa được xử lý đúng mức, thải ra.
Trong đó, sông Sài Gòn đã bị ô nhiễm đến mức báo động. Sông Thị Vải đã chết hoàn toàn. Sông Chợ Đệm, Thầy Cai cũng không khỏe… Đất và nước bị ô nhiễm thì cây trồng làm sao khỏe? Hiện nhiều loại cây ở đây cũng đã bị thoái hóa, năng suất, chất lượng kém. Đó là chưa kể đến một thực tế, chúng ta đã mất rất nhiều rừng do nạn chặt phá rừng chưa ngăn chặn được như mong muốn. Đất không có rừng, có cây làm thảm phủ giữ nước thì sẽ không giữ được nước, gây khô hạn vào mùa khô và lũ vào mùa mưa. Tất cả những vấn đề ấy đang ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sống của người dân trong lưu vực.
Cách đây khoảng 10 năm, chúng tôi đã cảnh báo điều này. Nhiều cuộc họp bàn về lưu vực sông Đồng Nai đã được tổ chức. Thế nhưng… hầu như chưa giải quyết được vấn đề gì. Lưu vực sông Đồng Nai là một lưu vực lớn, đi qua nhiều địa phương như Đồng Nai, Bình Dương, TPHCM… Đáng lẽ các địa phương này phải “ngồi lại với nhau” để cùng bảo vệ môi trường sống của chính mình thì không hiểu vì lý do gì mà “không anh nào chịu anh nào”. Trong khi đó, ngành chức năng lại không có một chính sách thích hợp để gắn kết các địa phương này lại, buộc họ có những quan tâm thích đáng đến vấn đề bảo vệ môi trường chung.

Căn bệnh đã rõ ràng như thế, mọi người đều biết song cảnh báo hoài mà chẳng thấy được quan tâm giải quyết… Những nhà khoa học như tôi làm sao không băn khoăn cho được.
* Dường như ngành chức năng cũng đã có những chuyển biến đáng kể trong việc bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai. Bằng chứng là vừa rồi Chính phủ đã có quyết định thành lập Ủy ban bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai. Còn sắp tới, như đã nói ở trên, Bộ Tài nguyên - Môi trường sẽ chủ trì một hội nghị bàn về việc này.

* Nếu có được các giải pháp rõ ràng, cụ thể để bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai thì tốt quá. Tuy nhiên, tôi cũng muốn lưu ý rằng: bảo vệ lưu vực sông không phải chỉ bảo vệ nguồn nước mà phải quan tâm, bảo vệ tất cả các vấn đề về đất, động thực vật trong đó có cả con người. Và điều quan trọng hơn cả là Nhà nước phải có lời giải chung cho bài toán tổng hợp về môi trường, kinh tế - xã hội chứ không nên tách lẻ, giải quyết từng việc.
Thời gian qua, một số địa phương cũng có nỗ lực giải quyết các vấn đề về môi trường nhưng vì giải quyết theo kiểu lẻ mẻ nên kết quả không đến đâu. Chính phủ nên có một tổ chức thực sự có quyền lực để điều phối công tác bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai. Không nên áp dụng hình thức: các tỉnh luân phiên chủ trì vì mô hình này không hiệu quả.

* Như vậy, theo ông, cần có một giải pháp mạnh mẽ, cương quyết và đúng đắn hơn nữa thì mới giải quyết được vấn đề ô nhiễm cho lưu vực sông Đồng Nai?
* Đúng vậy, nhất là khi quá trình tự làm sạch của các sông trong khu vực rất kém. Vùng giáp nước của nhiều sông trong khu vực (vùng giao giữa dòng nước chảy xuôi từ thượng nguồn xuống với dòng nước chảy ngược lên do ảnh hưởng của thủy triều - PV) rất rộng. Tại đây, tốc độ nước chảy rất chậm, các chất thải không trôi đi được mà lắng đọng lại. Nước bị ô nhiễm, các loại thủy sản cũng sẽ bị ô nhiễm theo. Cây cối, rau xanh được tưới bằng nước này cũng sẽ bị ô nhiễm. Rồi con người sử dụng cá, rau xanh… làm thực phẩm cũng sẽ bị nhiễm độc. Một vòng tròn luẩn quẩn!


Lưu vực sông Đồng Nai gồm các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận và TPHCM).

NGUYỄN KHOA
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/2/143783/
 

14- Mối đe dọa từ nước mặn

Lê Như Giang

Tại vùng ven biển ĐBSCL, những ngày qua nước mặn (NM) xâm nhập sâu vào đất liền. Theo Cty Khai thác Công trình thuỷ lợi Tiền Giang (TG), tình hình NM xâm nhập năm nay sớm 15 ngày so với trung bình nhiều năm.
Tình trạng này đang gây ảnh hưởng xấu tới sản xuất và sinh hoạt của cư dân nhiều vùng ở ĐBSCL. Tại các cửa sông chính ở Bến Tre (BT), NM vào sâu hàng chục km, độ mặn ở sông Hàm Luông cao đến 40/00. Ngành thuỷ lợi BT đã phải đóng trên 50 cống ngăn mặn. Ở Tiền Giang, 17.000ha lúa đông xuân ở huyện Gò Công Đông (GCĐ) xuống giống chậm (sau ngày 15.12) đang có nguy cơ bị thiệt hại do ảnh hưởng NM hoặc thiếu nước khi đóng cống ngăn mặn. Nếu cống Xuân Hoà phải đóng sớm 15 ngày so với thời điểm đóng nhiều năm trước, khu vực GCĐ phải trông chờ vào nguồn nước dự trữ trên kênh, rạch, ao hồ. Ơ Tân Trung, xã xuống giống vụ đông xuân trễ nhất huyện GCĐ, những ngày này bà con nông dân đang thấp thỏm trước tình trạng NM xâm nhập. Bởi nếu phải đóng các cống ngăn mặn, 1.100ha lúa mới 50 ngày tuổi có nguy cơ mất trắng. Theo UBND xã Tân Trung, nếu mất trắng 1.100ha lúa vụ này, không dưới con số ngàn hộ dân trong xã sẽ lâm vào cảnh thiếu ăn, kể cả phải cứu đói.
Diễn biến của thời tiết ngày càng có xu hướng thất thường. Chủ động đề ra các giải pháp ứng phó là cần thiết. Cuối năm 2002, TG đã hợp đồng với Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam khảo nghiệm, đánh giá lại toàn vùng dự án ngọt hoá sau 25 năm. Theo Chi cục Thuỷ lợi TG, từ kết quả đánh giá này, sẽ có các biện pháp thích hợp kết hợp với việc xây dựng thêm hệ thống cống điều hoà nước chặt chẽ để nâng cao hiệu quả sản xuất, chủ động phóng tránh rủi ro.Tuy nhiên, cần thấy rằng, ngoài yếu tố thiên nhiên, chính con người đã góp phần làm phức tạp thêm tình hình. Tại TG, ven vùng dự án ngọt hoá, số hộ nuôi trồng thuỷ sản tự phát xả NM vào nuôi tôm gây ảnh hưởng diện tích cây trồng xung quanh. Tình trạng "mặn hoá" có thể thấy rất rõ qua việc đưa NM vào nuôi tôm ở Bạc Liêu, và nhất là Cà Mau. Khắc phục tác động bất lợi xuất phát từ "nhân tai" không hẳn dễ dàng hơn chế ngự những diễn biến thất thường của thời tiết!
Lao động số 55 Ngày 24.02.2003

 

15- Giá trả cho ô nhiễm ngày càng cao 68/TP.HCM:Nước nguồn ngày càng ô nhiễm

Từ khoảng tháng 12.2002 đến nay liên tục xảy ra các sự cố về ô nhiễm môi trường (ÔNMT) trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, chính xác hơn là tại 2 địa phương thuộc khu vực kinh tế động lực phía nam (KVKTĐLPN): TP/HCM và Đồng Nai. Đây cũng là hai địa phương có hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn đi qua, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu.
Mầm ô nhiễm bùng phát
Tình trạng ô nhiễm sông rạch đã được cảnh báo từ rất lâu tại các địa phương đông dân cư và sản xuất công nghiệp phát triển như TPHCM, Đồng Nai. Chính vì thế, những diễn biến mới đây về sự cố ÔNMT thực chất là sự bùng phát của mầm ô nhiễm đã tích tụ hàng chục năm nay. 5 lưu vực kênh rạch TPHCM lâu nay đã trở thành những dòng kênh đen hôi thối bởi sự phân hủy của các chất hữu cơ và đầy rác. Vụ khoảng 20 tấn cá chết ở quận 7-TPHCM mà kết quả mẫu nước từ rạch chảy vào các ao cá, sau khi phân tích cho thấy có dư lượng thuốc trừ sâu. Tiếp đến, sự cố "luồng nước đen" đến đậm đặc từ sông Vàm Thuật chảy ra sông Sài Gòn mà kết luận cuối cùng của Sở KHCNMT cho rằng do dòng nước ô nhiễm từ kênh Tham Lương loang ra. Tình trạng ô nhiễm đã không chỉ dừng lại ở hạ lưu sông Sài Gòn mà lan lên tới đoạn sông thuộc tỉnh Bình Dương - phần thượng lưu. Cây trồng, vật nuôi trong môi trường nước bị hủy hoại nặng nề. Sự cố này đang còn trong vòng bàn thảo về các giải pháp khắc phục, thì mới đây lại xảy ra tình trạng cá bè chết hàng loạt tại Đồng Nai với số lượng lên đến 120 tấn và 30.000 con cá nhỏ ương nuôi. Theo phản ánh của các chủ nuôi cá bè là "có nguồn nước màu đen, có mùi hôi nồng của hoá chất do thủy triều đẩy từ các cống xả của các đơn vị sản xuất phía KCN Biên Hoà 1". Tháng 7.2002 cũng đã từng xảy ra vụ chết gần 200 tấn cá bè nuôi trên sông Đồng Nai. Kênh rạch ô nhiễm trầm trọng đã đành, nhưng đến những con sông giờ đây cũng không còn là chốn yên ổn cho các loài thủy sinh.
Với lượng nước thải xả thẳng vào hệ thống kênh rạch hơn 1 triệu mét khối mỗi ngày tại KVKTĐLPN hiện nay, không chỉ có các thành tố hữu cơ gây ô nhiễm mà nước thải công nghiệp còn mang theo các thành tố hoá học độc hại, như của ngành dệt nhuộm, xi mạ, chế biến thủy sản, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật v.v... Nếu tình trạng ô nhiễm không được hạn chế, khắc phục thì hệ thống sông Sài Gòn-Đồng Nai vốn là nguồn cấp nước sinh hoạt chính cho khoảng 12 triệu dân thuộc khu vực trên sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng, đe dọa đến an toàn sự sống con người.
Thủ phạm chính là nước thải công nghiệp!
Việc ô nhiễm kênh Tham Lương đã được xác định do nước thải từ sản xuất công nghiệp. Dọc trên tuyến kênh này hiện vẫn còn 28 đơn vị xả nước thải xuống kênh không qua xử lý. Chỉ có nước thải công nghiệp mới mang những đặc trưng về mùi hôi nồng nặc của hoá chất và một số chỉ số khác cho thấy sự tích tụ chất hữu cơ lâu năm phân hủy do ngành sản xuất thực phẩm tạo nên. Vụ cá bè chết trên sông Đồng Nai đang được đặt nghi vấn do nước thải của các đơn vị là Cty giấy Đồng Nai, Tân Mai, Cty đường Biên Hoà và Cty sản xuất bột ngọt Ajinomoto VN. Trong khi đó, tại TPHCM có khoảng 30.000 cơ sở sản xuất TTCN và đơn vị sản xuất công nghiệp lớn mà đại đa số xả nước thải chưa qua xử lý trực tiếp ra sông rạch.
ÔNMT do nước thải công nghiệp đã rất trầm trọng, dù đã được cảnh báo rất nhiều nhưng cuối cùng cũng trôi lờ đi bởi những áp lực về thu hút đầu tư, phát triển sản xuất và lợi nhuận. Nhìn một cách hệ thống và tổng thể - từ Bộ Công nghiệp là cơ quan quản lý nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp lớn nhất, cho đến hai địa phương có nhiều đơn vị sản xuất công nghiệp đóng trên địa bàn là TPHCM và Đồng Nai - đều chưa có một chiến lược triệt để và kiên quyết để giải quyết ÔNMT do sản xuất công nghiệp gây ra. Năm 2000, TPHCM từng khởi động trở lại chương trình di dời DN gây ô nhiễm ra ngoại thành, nhưng tiến độ quá chậm chạp. Số DN di dời được tại TPHCM mới đếm trên đầu ngón tay, trong khi đó theo thống kê của 15/22 quận, huyện của thành phố đã có trên 930 cơ sở sản xuất cần phải di dời. Nhiều DN, đặc biệt là đơn vị trực thuộc Bộ Công nghiệp (ngành sản xuất sữa, dệt) vẫn lần lữa, trễ nải trong việc trang bị hệ thống xử lý nước thải. Sự phối hợp giữa Bộ Công nghiệp với các địa phương bị ÔNMT vì sản xuất công nghiệp hàng chục năm qua là con số 0. Chưa kể, có những đơn vị sản xuất công nghiệp lớn cậy thế trung ương, bao năm qua trì hoãn thực thi các giải pháp khắc phục ÔNMT và di dời. Pháp luật về bảo vệ môi trường sống không thiếu, nhưng trong công tác quản lý về môi trường lại đang thiếu sự kiên quyết trong trách nhiệm và thừa thãi sự xuê xoa, cả nể cho nhau. Thẩm Hồng Thụy

http://www.mekongriver.org/tin0303.htm

16- Báo động ô nhiễm nước hạ lưu sông Đồng Nai

Thứ ba, 26/2/2008, 06:42 GMT+7Trải rộng trên địa bàn 12 tỉnh, hạ nguồn hệ thống sông Đồng Nai bị ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó có đoạn đã trở thành sông "chết", theo cảnh báo của các chuyên gia tại hội nghị triển khai đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai, sáng 26/2 ở TP HCM.
Phó giám đốc Sở Tài nguyên môi trường TP HCM Nguyễn Văn Phước cho hay, hiện nước sông Đồng Nai đoạn từ nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã bị ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng vượt mức cho phép 3-9 lần. Giá trị các chất COD vượt 1,8-2,8 lần, giá trị DO cũng thấp dưới giới hạn cho phép.
Vùng hạ lưu sông nhiều đoạn bị ô nhiễm ở mức báo động. Toàn lưu vực cũng bị tình trạng nhiễm mặn, nguồn nước không còn khả năng sử dụng cho mục đích tưới tiêu và sinh hoạt.

Nước hồ thủy điện Trị An cũng bị cảnh báo là ô nhiễm nghiêm trọng. Ảnh: P.A.
Theo nghiên cứu của Sở Tài nguyên môi trường TP HCM, đoạn sông từ khu vực trạm bơm cấp nước Hóa An đến Cát Lái, qua địa bàn TP HCM thuộc hệ thống sông Sài Gòn chất lượng nước tương đối ổn định. Tuy nhiên, tại các trạm quan trắc Phú Cường, Bình Phước và Phú An, nước đã bị ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh, không thể dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt.
Càng xuống vùng trung lưu (khu vực cầu Bến Súc, cửa sông Thị Tính) và đi dần về phía hạ lưu sông thì tình hình ô nhiễm lại ở mức báo động. Theo kết quả quan trắc, vùng cửa sông Thị Tính có hàm lượng Nitơ vượt gần 30 lần tiêu chuẩn.
Trong khi đó, chất lượng nước của các sông khác trong lưu vực cũng đang bị suy giảm. Nước các nhánh sông Bé, Đa Nhim - Đa Dung thuộc các tỉnh Bình Dương, Bình Phước diễn biến theo chiều hướng xấu với hàm lượng sắt trong nước tăng cao.
Tình trạng ô nhiễm nặng tại sông Thị Vải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với một đoạn sông "chết" dài hơn 10 km. Nước ở đây bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối kể cả khi triều lên xuống.
Điều đáng nói là trong thời gian qua, công tác quản lý các lưu vực sông còn nhiều bất cập vì khó phân định trách nhiệm, thẩm quyền rõ ràng giữa các Bộ, ngành. Hiện vẫn chưa có một cơ chế rõ ràng cho việc huy động nguồn lực từ các tổ chức tư nhân, phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, cộng đồng tham gia vào việc phát triển và bảo vệ tài nguyên nước.
Các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đề nghị Thủ tướng cho phép triển khai Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai từ nay đến năm 2020. Mục tiêu nhằm bảo vệ an toàn nguồn nước thuộc hệ thống về chất lượng và lưu lượng, đạt tiêu chuẩn nước sạch tự nhiên, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội toàn khu vực.
Chảy qua 12 tỉnh, trong đó 7 địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu) và một phần Đăk Lăk, Đăk Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, nguồn nước hệ thống sông Đồng Nai có tầm quan trọng đặc biệt và sống còn trên lưu vực trong phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho hàng chục triệu người, cấp nước cho công nghiệp, tưới tiêu nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch sông nước...
Ô nhiễm nặng lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn

Cảng, khu chế xuất, khu đô thị là những tác nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng trên sông Sài Gòn.
Nếu các nguồn ô nhiễm tiếp tục đổ vào sông Đồng Nai - Sài Gòn như hiện nay, cộng với tốc độ đô thị hóa thì chi phí vận hành hệ thống cấp nước cho TP HCM tăng thêm khoảng 1.000 tỷ đồng/năm.
Đó là lời cảnh báo của các nhà khoa học thuộc Viện Môi trường và tài nguyên, ĐH Quốc gia TP HCM.
Tiến sĩ Phan Văn Hoặc thuộc Viện khí tượng, thủy văn, hải văn và môi trường, cho biết, kết quả điều tra nghiên cứu năm 2004 của Viện cho thấy, sông Sài Gòn đang ở mức ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là khu vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ, vi sinh và dầu mỡ. Riêng Hóc Môn, Củ Chi thì bị ô xít hóa. Khu vực sông Thị Vải, sông Dinh đang ô nhiễm hữu cơ và vi sinh. Hệ thống sông Đồng Nai, Thị Nghè, sông Bé thì ở mức ô nhiễm trung bình (ô nhiễm hữu cơ, vi sinh), vùng hạ lưu hệ thống này đang bị ô nhiễm dầu. Hồ Trị An, hồ Dầu Tiếng đang bị ô nhiễm nhẹ về hữu cơ, dinh dưỡng và vi sinh.
Trên bản đồ khu vực, lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn ôm gọn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây cũng là những nơi có hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất nhiều và phát triển mạnh. Hiện khu vực này có 42 khu công nghiệp, khu chế xuất, trong đó Đồng Nai 10, Bình Dương 7, TP HCM 15, Bà Rịa - Vũng Tàu 10. Tất cả chất thải của khu công nghiệp đều được đưa ra sông gần nhất. Trong đó, riêng sông Sài Gòn hứng tất cả chất thải khu công nghiệp của Bình Dương. Còn tại Bà Rịa - Vũng Tàu, các sông Thị Vải, Sông Dinh, Vịnh Gành Rái chia nhau "gánh" chất thải công nghiệp trong tỉnh.
Các nhà khoa học cảnh báo, nếu nước sông Đồng Nai tại trạm bơm Hóa An tiếp tục bị ô nhiễm hữu cơ với nồng độ BOD (mức oxy hóa) lên đến 10 mg/l (hiện BOD khoảng 4-5 mg/l) thì công nghệ đang áp dụng tại Nhà máy nước Thủ Đức (TP HCM) sẽ không đảm bảo chất lượng nước đầu ra.
Để giảm thiểu ô nhiễm, các chuyên gia cho rằng cần quy hoạch lại môi trường nguồn nước mặt lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, tăng cường kiểm soát hệ thống chất thải ở các nhà máy, cơ sở sản xuất trong khu vực. Tại hội thảo góp ý về Quy hoạch môi trường vừa qua do Sở Tài Nguyên môi trường TP HCM tổ chức, một số nhà khoa học đầu ngành đã đề nghị một số biện pháp quản lý, trong đó đáng chú ý là ngăn một số kênh rạch thuộc TP HCM để giữ nước ngọt và thực hiện du lịch sinh thái; đồng thời ngăn đập khúc sông bán đảo Thanh Đa để lấy nước ngọt cung cấp cho TP HCM.
http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2005/04/3B9DD911/Phan Anh
Lưu vực sông Đồng Nai: Ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng
09.08.2008 09:03
Theo tin từ Cục Bảo vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), hiện nay môi trường lưu vực sông Đồng Nai (bao gồm các sông chính là Đồng Nai, sông Bé, Sài Gòn, Vàm Cỏ và Thị Vải) đang ở mức báo động đỏ. Theo kết quả phân tích gần đây nhất, hạ lưu sông Đồng Nai đoạn từ Nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng vượt 3 - 9 lần giới hạn cho phép.
Đáng chú ý là đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN 5942 - 1995 đối với nguồn loại A. Vùng hạ lưu sông Đồng Nai đã bị nhiễm mặn nghiêm trọng và không thể sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu. Sông Sài Gòn bị ô nhiễm còn trầm trọng hơn, chủ yếu là ô nhiễm chất hữu cơ, vi sinh (Coliform vượt 3 - 168 lần tiêu chuẩn cho phép) và một số nơi ô nhiễm kim loại nặng.

Phần hạ lưu của nhiều sông trong lưu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó có đoạn sông Thị Vải từ sau khu vực hợp lưu Suối Cả – sông Thị Vải đến khu công nghiệp Mỹ Xuân dài hơn 10km đã trở thành “sông chết”, là đoạn sông bị ô nhiễm nhất trong lưu vực. Ở đây, nước bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối, kể cả khi thủy triều lên và xuống, thậm chí có nơi nồng độ oxy hòa tan trong nước gần bằng không, các loài sinh vật không còn khả năng sinh sống. Cơ quan chuyên môn còn phát hiện hàm lượng thủy ngân (một loại hóa chất rất độc hại) tại khu vực cảng Vedan, cảng Mỹ Xuân… trên sông Thị Vải có hàm lượng vượt chuẩn 1,5 – 4 lần, hàm lượng kẽm vượt chuẩn 3 – 4 lần (nước loại B). Riêng ô nhiễm vi sinh (Coliform) đã vượt chuẩn từ vài chục đến hàng trăm lần…

Các cơ quan chuyên môn cho rằng, nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm là từ các nguồn nước thải công nghiệp, khai thác khoáng sản, làng nghề, sinh hoạt, y tế, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, chất thải rắn…, trong đó nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đóng góp tỷ lệ lớn nhất, với tải lượng các chất ô nhiễm rất cao. Các khu công nghiệp và khu chế xuất đóng góp một lượng lớn nước thải vào lưu vực sông, trong đó lớn nhất là nước thải từ các khu công nghiệp và khu chế xuất của tỉnh Đồng Nai (chiếm 57,2%), TPHCM (23%) và tỉnh Bình Dương (9%)…

Tính đến nay, trên lưu vực sông Đồng Nai có khoảng trên dưới 60 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động, tuy nhiên chỉ có khoảng trên 1/3 trong số này có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp ra sông. Tại Đồng Nai, hiện chỉ có 9/19 khu công nghiệp có nhà máy xử lý nước thải tập trung.

Riêng TPHCM chỉ có 20% tổng lượng nước thải được xử lý mỗi ngày và thực tế tỷ lệ nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn còn ít hơn. Theo Cục Bảo vệ môi trường, các khu đô thị hàng ngày thải vào hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn trung bình khoảng 992.000m³ nước thải sinh hoạt. Tuy nhiên cho đến nay, tất cả các đô thị trên lưu vực sông đều chưa có hệ thống xử lý nước thải.

(Theo sggp.org.vn)
http://www.dwrm.gov.vn/index.php?cires=News&in=viewst&sid=124

17- Ô nhiễm nặng lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn

Cảng, khu chế xuất, khu đô thị là những tác nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng trên sông Sài Gòn.
Nếu các nguồn ô nhiễm tiếp tục đổ vào sông Đồng Nai - Sài Gòn như hiện nay, cộng với tốc độ đô thị hóa thì chi phí vận hành hệ thống cấp nước cho TP HCM tăng thêm khoảng 1.000 tỷ đồng/năm.
Đó là lời cảnh báo của các nhà khoa học thuộc Viện Môi trường và tài nguyên, ĐH Quốc gia TP HCM.
Tiến sĩ Phan Văn Hoặc thuộc Viện khí tượng, thủy văn, hải văn và môi trường, cho biết, kết quả điều tra nghiên cứu năm 2004 của Viện cho thấy, sông Sài Gòn đang ở mức ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là khu vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ, vi sinh và dầu mỡ. Riêng Hóc Môn, Củ Chi thì bị ô xít hóa. Khu vực sông Thị Vải, sông Dinh đang ô nhiễm hữu cơ và vi sinh. Hệ thống sông Đồng Nai, Thị Nghè, sông Bé thì ở mức ô nhiễm trung bình (ô nhiễm hữu cơ, vi sinh), vùng hạ lưu hệ thống này đang bị ô nhiễm dầu. Hồ Trị An, hồ Dầu Tiếng đang bị ô nhiễm nhẹ về hữu cơ, dinh dưỡng và vi sinh.
Trên bản đồ khu vực, lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn ôm gọn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây cũng là những nơi có hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất nhiều và phát triển mạnh. Hiện khu vực này có 42 khu công nghiệp, khu chế xuất, trong đó Đồng Nai 10, Bình Dương 7, TP HCM 15, Bà Rịa - Vũng Tàu 10. Tất cả chất thải của khu công nghiệp đều được đưa ra sông gần nhất. Trong đó, riêng sông Sài Gòn hứng tất cả chất thải khu công nghiệp của Bình Dương. Còn tại Bà Rịa - Vũng Tàu, các sông Thị Vải, Sông Dinh, Vịnh Gành Rái chia nhau "gánh" chất thải công nghiệp trong tỉnh.
Các nhà khoa học cảnh báo, nếu nước sông Đồng Nai tại trạm bơm Hóa An tiếp tục bị ô nhiễm hữu cơ với nồng độ BOD (mức oxy hóa) lên đến 10 mg/l (hiện BOD khoảng 4-5 mg/l) thì công nghệ đang áp dụng tại Nhà máy nước Thủ Đức (TP HCM) sẽ không đảm bảo chất lượng nước đầu ra.
Để giảm thiểu ô nhiễm, các chuyên gia cho rằng cần quy hoạch lại môi trường nguồn nước mặt lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, tăng cường kiểm soát hệ thống chất thải ở các nhà máy, cơ sở sản xuất trong khu vực. Tại hội thảo góp ý về Quy hoạch môi trường vừa qua do Sở Tài Nguyên môi trường TP HCM tổ chức, một số nhà khoa học đầu ngành đã đề nghị một số biện pháp quản lý, trong đó đáng chú ý là ngăn một số kênh rạch thuộc TP HCM để giữ nước ngọt và thực hiện du lịch sinh thái; đồng thời ngăn đập khúc sông bán đảo Thanh Đa để lấy nước ngọt cung cấp cho TP HCM.
http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2005/04/3B9DD911/Phan Anh
 

18- Lưu vực sông Đồng Nai: Ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng

09.08.2008 09:03
Theo tin từ Cục Bảo vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), hiện nay môi trường lưu vực sông Đồng Nai (bao gồm các sông chính là Đồng Nai, sông Bé, Sài Gòn, Vàm Cỏ và Thị Vải) đang ở mức báo động đỏ. Theo kết quả phân tích gần đây nhất, hạ lưu sông Đồng Nai đoạn từ Nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng vượt 3 - 9 lần giới hạn cho phép.
Đáng chú ý là đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN 5942 - 1995 đối với nguồn loại A. Vùng hạ lưu sông Đồng Nai đã bị nhiễm mặn nghiêm trọng và không thể sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu. Sông Sài Gòn bị ô nhiễm còn trầm trọng hơn, chủ yếu là ô nhiễm chất hữu cơ, vi sinh (Coliform vượt 3 - 168 lần tiêu chuẩn cho phép) và một số nơi ô nhiễm kim loại nặng.

Phần hạ lưu của nhiều sông trong lưu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó có đoạn sông Thị Vải từ sau khu vực hợp lưu Suối Cả – sông Thị Vải đến khu công nghiệp Mỹ Xuân dài hơn 10km đã trở thành “sông chết”, là đoạn sông bị ô nhiễm nhất trong lưu vực. Ở đây, nước bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối, kể cả khi thủy triều lên và xuống, thậm chí có nơi nồng độ oxy hòa tan trong nước gần bằng không, các loài sinh vật không còn khả năng sinh sống. Cơ quan chuyên môn còn phát hiện hàm lượng thủy ngân (một loại hóa chất rất độc hại) tại khu vực cảng Vedan, cảng Mỹ Xuân… trên sông Thị Vải có hàm lượng vượt chuẩn 1,5 – 4 lần, hàm lượng kẽm vượt chuẩn 3 – 4 lần (nước loại B). Riêng ô nhiễm vi sinh (Coliform) đã vượt chuẩn từ vài chục đến hàng trăm lần…

Các cơ quan chuyên môn cho rằng, nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm là từ các nguồn nước thải công nghiệp, khai thác khoáng sản, làng nghề, sinh hoạt, y tế, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, chất thải rắn…, trong đó nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đóng góp tỷ lệ lớn nhất, với tải lượng các chất ô nhiễm rất cao. Các khu công nghiệp và khu chế xuất đóng góp một lượng lớn nước thải vào lưu vực sông, trong đó lớn nhất là nước thải từ các khu công nghiệp và khu chế xuất của tỉnh Đồng Nai (chiếm 57,2%), TPHCM (23%) và tỉnh Bình Dương (9%)…

Tính đến nay, trên lưu vực sông Đồng Nai có khoảng trên dưới 60 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động, tuy nhiên chỉ có khoảng trên 1/3 trong số này có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp ra sông. Tại Đồng Nai, hiện chỉ có 9/19 khu công nghiệp có nhà máy xử lý nước thải tập trung.

Riêng TPHCM chỉ có 20% tổng lượng nước thải được xử lý mỗi ngày và thực tế tỷ lệ nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn còn ít hơn. Theo Cục Bảo vệ môi trường, các khu đô thị hàng ngày thải vào hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn trung bình khoảng 992.000m³ nước thải sinh hoạt. Tuy nhiên cho đến nay, tất cả các đô thị trên lưu vực sông đều chưa có hệ thống xử lý nước thải.

(Theo sggp.org.vn)
http://www.dwrm.gov.vn/index.php?cires=News&in=viewst&sid=124

19- Bình Dương: Nước thải từ các KCN góp phần gây ô nhiễm sông Đồng Nai?

06.09.2008 09:15

Nước thải công nghiệp chảy ra sông
Những năm gần đây, các con suối ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh: Đồng Nai và Bình Dương (bắt nguồn từ tỉnh Bình Dương chảy qua các xã: Hóa An, Tân Hạnh, Bửu Hòa, Tân Vạn - thuộc TP.Biên Hòa rồi chảy ra sông Đồng Nai) đã trở nên ô nhiễm nghiêm trọng. Đây cũng là một vấn đề bức xúc mà trong các cuộc tiếp xúc cử tri, người dân hai xã: Hóa An và Tân Hạnh đã nhiều lần phản ánh...
Theo người dân sống ven suối, vào buổi chiều hoặc tối nước thải chảy về ồ ạt; có hôm bọt nổi trắng như xà bông. Đặc biệt, khu vực càng gần cống nước thải đầu nguồn từ xã Tân Đông Hiệp B mùi hôi càng bốc lên nồng nặc. Bà Phạm Thị Châu, ở tổ 22, ấp Cầu Hang cho biết: "Có bữa dọn cơm lên rồi mà gặp gió lùa mùi hôi thối từ suối bốc lên làm cả nhà không ai nuốt nổi cơm".
Bên cạnh đó, hiện có khoảng 50 hộ dân có nhà ở ven suối phải khổ sở vì sống chung với nguồn nước ô nhiễm. Đa số các hộ dân ở đây chưa có nước máy sử dụng. Họ phải dùng nước giếng đào hoặc giếng khoan. Nhiều hôm trời mưa, nước suối tràn vào tận nhà dân và vào cả giếng nước. Khu vực ven suối trở nên ẩm thấp, hôi thối. Ông Trần Văn Ngọc, Chủ tịch UBND xã Hóa An cho biết, trong các cuộc họp tiếp xúc cử tri, người dân nơi đây đã nhiều lần phản ánh. Việc suối Siệp bắt nguồn từ tỉnh Bình Dương chảy ra xã Hóa An, Bửu Hòa, Tân Vạn rồi chảy ra sông Đồng Nai bị ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng đến dân cư ở các xã này, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến dòng sông Đồng Nai. Do đó, khi phát hiện được nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước, cần có hướng khắc phục, để hạn chế ô nhiễm trên diện rộng.
Tương tự như xã Hóa An, các con suối và các con rạch ở xã Tân Hạnh, 4-5 năm trở lại đây cũng đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Ông Nguyễn Văn Lập, cán bộ phụ trách môi trường của xã cho biết, thời gian qua, xã Tân Hạnh cũng đã đi khảo sát từ đầu nguồn của các con suối, con rạch trên địa bàn. Theo đó, xã cũng xác định, nguyên nhân gây ô nhiễm suối Cầu Bốn Trụ là từ các nhà máy, lò mổ gia súc từ xã Tân Bình, huyện Dĩ An (tỉnh Bình Dương). Bên cạnh đó, nước từ rạch Ông Tiếp cũng bị ô nhiễm do nước thải từ các cụm công nghiệp của xã An Phú (huyện Thuận An) và xã Thái Hòa (huyện Tân Uyên) đổ về. Trước đây, bà con ở ấp 1 còn ăn uống, tắm giặt trên rạch Ông Tiếp. Thế nhưng đến nay, người dân không dám sử dụng nước này vì khi nước tiếp xúc vào da sẽ nổi mẩn ngứa, khó chịu.
Vừa qua, Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Đồng Nai cũng đã tiến hành khảo sát tại một số khu vực mà người dân phản ánh. Qua đó cho thấy, suối Siệp là nguồn tiếp nhận nước thải từ KCN Tân Đông Hiệp B, khu dân cư Tân Đông An, Trung tâm y tế huyện Dĩ An và các hộ dân cư sống dọc theo suối bên tỉnh Bình Dương. Các nguồn nước thải này chưa được xử lý triệt để. Qua khảo sát cho thấy, phản ánh của người dân về ô nhiễm môi trường là đúng. Sở TN&MT đã thu 3 mẫu nước thải ở các khu vực này để phân tích, đánh giá chất lượng. Được biết, vào ngày 2-7-2007, UBND tỉnh Đồng Nai cũng đã có Văn bản đề nghị UBND tỉnh Bình Dương chỉ đạo các ngành, các cấp có liên quan kiểm tra và có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường từ KCN Tân Đông Hiệp B thải ra suối Siệp. Tuy nhiên, đến nay UBND tỉnh Đồng Nai chưa nhận được ý kiến phản hồi từ tỉnh Bình Dương nhằm giải quyết vấn đề nêu trên. Trong thời gian tới, sau khi có kết quả phân tích mẫu nước thải, Sở TN&MT sẽ báo cáo UBND tỉnh để đề nghị UBND tỉnh Bình Dương có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường tại các khu vực nêu trên.



(Theo Monre.gov.vn)
http://www.dwrm.gov.vn/index.php?cires=News&in=viewst&sid=172

20- Gần 30 nghìn tấn chất ô nhiễm xả ra sông Nhuệ - Đáy mỗi ngày
 

01.09.2008 14:45
Ước tính tải lượng các thông số ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt được đưa vào môi trường nước lưu vực sông Nhuệ - Đáy là khoảng 15 nghìn tấn/ ngày. Trong khi đó, nước thải sinh hoạt chiếm 56% tổng lượng nước thải. Các thông số ô nhiễm gồm COD, BOD, nitơ, phốt-pho, coliform, dầu, SS. Do đó, ngày 27.8, tại Hà Nội, đông đảo các nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia về lĩnh vực môi trường trong nước và quốc tế đã đóng góp nhiều ý kiến cho kế hoạch triển khai Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ- sông Đáy (do Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND Thành phố Hà Nội tổ chức) để hạn chế, giảm thiểu ô nhiễm suy thoái môi trường lưu vực dòng sông này.
Hiện trạng ô nhiễm
Lưu vực sông Nhuệ-Đáy có diện tích tự nhiên 7.665km2, chảy qua các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hoà Bình và Ninh Bình. Lưu vực sông Nhuệ-Đáy là một trong những lưu vực sông lớn của Việt Nam, giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, môi trường, chất lượng nước nguồn lưu vực sông Nhuệ - Đáy đang ngày càng suy thoái do chịu sự tác động mạnh từ sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong lưu vực. Hiện nay, phần lớn nước ở lưu vực đã bị ô nhiễm hữu cơ, có nơi ở mức nghiêm trọng với các chỉ tiêu BOD5, COD, NH4, coliform,... cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Chất lượng nước sông Nhuệ (Hà Nội) bị ô nhiễm nặng nhất do phải tiếp nhận nước thải của sông Tô Lịch. Còn nước sông Đáy và các sông khác bị ô nhiễm nhẹ hơn nhưng mang tính cục bộ với ô nhiễm tăng cao vào mùa khô.
Nguyên nhân do nước thải của các hoạt động sản xuất công nông nghiệp, y tế, tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề, nước thải sinh hoạt không được xử lý xả trực tiếp vào các con sông. Hiện trên lưu vực sông Nhuệ-Đáy có hơn 4.000 doanh nghiệp nằm trong 8 khu công nghiệp-cụm công nghiệp (KCN-CCN), 266 cơ sở ngoài KCN-CCN, hơn 450 làng nghề. Hoạt động sản xuất của các cơ sở này đang phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm nặng nề lưu vực các dòng sông. Bên cạnh đó, nước thải sinh hoạt của hơn 10 triệu cư dân không được xử lý đều đổ thẳng vào các sông, hồ trong lưu vực. Đây là một nguyên nhân quan trọng làm gia tăng ô nhiễm.
Đồng thời, tổng lượng chất thải rắn trong lưu vực cũng không ngừng gia tăng, nhất là đối với khu vực đô thị. Đây là nguyên nhân khiến ô nhiễm nước mặt vẫn tiếp tục tăng, trong đó các sông trong nội thành Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm trọng nhất. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến nước của các con sông trong đô thị thường có màu đen, có váng, cặn lắng và mùi tanh.
Cùng chung tay cứu sông Nhuệ-Đáy
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên, các hoạt động khai thác dòng sông cho mục đích kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng nên tác động môi trường sẽ còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Vì vậy, bảo vệ môi trường các lưu vực sông nói chung cũng như lưu vực sông Nhuệ - Đáy nói riêng là rất cấp bách. Do đó, ngày 29.4.2008, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 57/2008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy với mục tiêu đến năm 2020 sẽ hạn chế, giảm thiểu suy thoái môi trường lưu vực sông Nhuệ - Đáy. Tuy nhiên, đây là đề án liên vùng, liên ngành nên cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan để việc triển khai được đồng bộ, thống nhất.
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo thì đề nghị đề án nên đưa ra lộ trình cụ thể để từng bước xử lý ô nhiễm, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường cũng như chất lượng nước các dòng sông nhằm tạo hệ thống dòng chảy ổn định, bảo vệ các công trình thuỷ lợi an toàn, bền vững. Hệ thống cơ chế, chính sách cần hợp lý để khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước. Còn nhiều đại biểu kiến nghị trước hết cần tập trung xử lý nước thải sinh hoạt, đặc biệt tại Thủ đô Hà Nội (chiếm 54% lượng nước thải của toàn lưu vực); nước thải công nghiệp tại Hà Nội, Hà Nam; nước thải làng nghề tại Hà Nội, Hà Nam và Nam Định. Kiểm soát chặt chẽ các khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng là sông Tô Lịch và các sông hồ trong nội thành Hà Nội, đoạn sông Nhuệ từ thành phố Hà Đông đến thị xã Phủ Lý, Hà Nam. Hạn chế cấp phép đầu tư năm loại hình công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng: chế biến tinh bột sắn, sản xuất hoá chất cơ bản, nhuộm, thuộc da và sản xuất bột giấy.

(Theo Lao động, Thanh niên,... ngày 27/8/2008)
 

21- Sóc Trăng: KCN An Nghiệp “bức tử” nhiều tuyến kênh
 

12:56' 21/10/2008 (GMT+7)
- Nước thải từ các nhà máy trong KCN An Nghiệp (Sóc Trăng) không qua xử lý tuồn thẳng xuống nhiều tuyến kênh trong khu vực khiến nước đen như mực, bốc mùi hôi thối, gây ảnh hưởng đến cuộc sống người dân.
Nước thải từ các nhà máy trong KCN An Nghiệp (Sóc Trăng) không qua xử lý tuồn thẳng xuống nhiều tuyến kênh trong khu vực khiến nước đen như mực, bốc mùi hôi thối, gây ảnh hưởng đến cuộc sống người dân.



Nước kênh Vành Đai ở Phú Tân (Mỹ Tú, Sóc Trăng) đen như mực vì ảnh hưởng nước thải từ KCN An Nghiệp.
Ngày 20/10, lực lượng cảnh sát môi trường tỉnh Sóc Trăng đã tiến hành khảo sát mức độ ô nhiễm của một số tuyến kênh ảnh hưởng nước thải của Khu công nghiệp (KCN) An Nghiệp nằm trên địa bàn phường 7, TP Sóc Trăng và xã An Hiệp, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng).

Qua quan sát bằng mắt thường, cơ quan chức năng thấy rõ nước thải từ các nhà máy trong KCN An Nghiệp không qua xử lý tuồn thẳng xuống kênh Thẻ 25 vì nhà máy xử lý nước thải trong KCN mới được khởi công. Bật nắp một số miệng cống xả thải xuất hiện đầy chất thải, váng mở cá… bốc mùi hôi thối nồng nặc. Đây chính là nguyên nhân làm cho nước kênh Thẻ 25 chuyển sang màu đen như mực.

Từ kênh Thẻ 25, nguồn nước ô nhiễm tiếp tục “đầu độc” trực tiếp vào kênh 30-4 trong khi đây là kênh cung cấp nước sinh hoạt, sản xuất lúa, hoa màu cho người dân xã Phú Tân, An Hiệp của huyện Mỹ Tú và chảy thẳng đến Hồ Nước Ngọt ở TP Sóc Trăng.


Vớt rác từ miệng cống

Nhiều hộ dân sống ven kênh Vành Đai phía sau khu vực Trại giam Công an tỉnh Sóc Trăng nằm ở xã Phú Tân (Mỹ Tú, Sóc Trăng) cho biết mùi thối dưới kênh thường xuyên “tra tấn” cuộc sống của hàng chục hộ dân. Bơm nước kênh tưới hoa màu làm rau, cải chết; rửa chân thì bị ghẻ ngứa. Anh Trần Văn Lực ở xã Phú Tân cho biết: “Trước đây nước dưới kênh 30-4 bơm lên có thể tắm giặt được nhưng bây giờ đen như mực nên không ai dám sử dụng. Nhiều hôm cá chết nổi trắng mặt nước nên giờ đây thả lưới, giăng câu ít khi bắt được cá”.

Lãnh đạo Sở Tài nguyên-Môi trường (TN-MT) tỉnh Sóc Trăng xác nhận nước thải KCN An Nghiệp làm nhiều tuyến kênh bị ô nhiễm nhưng… lực bất tòng tâm vì dự kiến đến tháng 4/2009 nhà máy xử lý nước thải mới hoàn thành. Vài ngày tới, Sở TN-MT tỉnh Sóc Trăng buộc lãnh đạo Ban Quản lý KCN An Nghiệp phải có trách nhiệm tổ chức đối thoại với dân. Nếu nguồn nước ô nhiễm gây thiệt hại hoa màu thì phải thỏa thuận bồi thường nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho dân.
• Tin, ảnh: Hàn Sơn Đỉnh
http://www.nea.gov.vn/Sukien_Noibat/Tinkhac/Thang%2010-2008/vnn_21-10a.htm

 

22- Môi trường:QH yêu cầu Chính phủ làm rõ trách nhiệm cá nhân
 

22:31' 23/10/2008 (GMT+7)
- Chủ nhiệm UB Pháp luật của QH Lê Thị Thu Ba điểm chỉ các vụ án vi phạm pháp luật về môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng trong thời gian dài và đề nghị Chính phủ làm rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan.
Chiều 23/10, tại phiên họp QH ở hội trường, lần lượt Bộ trưởng Công An, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã đọc các báo cáo công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm của Chính phủ, báo cáo công tác của VKSNDTC và TANDTC.
Bức xúc phạm pháp về môi trường

Miệng cống xả nước thải của Vedan ra sông Thị Vải. Ảnh: VNN
Theo Bộ trưởng Lê Hồng Anh, tình trạng vi phạm về môi trường đáng báo động vì có tới 70% khu công nghiệp, 90% cơ sở sản xuất không có xử lý nước thải. Nhiều vụ nhập khẩu rác thải với số lượng lớn.
Thẩm tra các báo cáo trên, bà Lê Thị Thu Ba, Chủ nhiệm UB Tư pháp QH đã điểm chỉ các vụ vi phạm pháp luật về môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng, xảy ra khá phổ biến trong thời gian dài, gây hậu quả xấu về nhiều mặt.
Đó là vụ nhập khẩu 700 tấn phế liệu tại TP.HCM, vụ chôn lấp chất thải trái phép của công ty Huyndai – Vinashin tại Khánh Hòa, vụ xả chất thải trái phép ra sông Thị Vải của công ty Vedan tại Đồng Nai, việc gây ô nhiễm kênh Ba Bò ở Bình Dương, vụ xả chất thải trái phép ra sông Hồng của công ty Miwon tại Phú Thọ.
Theo bà Thu Ba, các vụ vi phạm trên chưa được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, gây bức xúc trong nhân dân. “Báo cáo chưa nêu rõ nguyên nhân của tình trạng trên, chưa chỉ rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc để xảy ra tình trạng vi phạm kéo dài, xử lý không nghiêm, những khó khăn trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này”.
Về tỷ lệ thanh thiếu niên học sinh, sinh viên phạm tội có chiều hướng gia tăng, bà Thu Ba lo ngại: “Đây là vấn đề đã được nêu ra trong báo cáo năm 2007 nhưng trong năm 2008, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vi phạm pháp luật đối với đối tượng này chưa đạt được kết quả như mong muốn. Báo cáo chưa làm rõ nguyên nhân của tình trạng trên, chưa đề ra biện pháp cụ thể nhằm hạn chế gia tăng tội phạm và vi phạm pháp luật trong đối tượng này”.
Chủ nhiệm UB Pháp luật cũng đề nghị Chính phủ phân tích toàn diện nguyên nhân gia tăng tội phạm, nhất là các nguyên nhân về cơ chế, chính sách, pháp luật, về tổ chức, quản lý, điều hành, về công tác cán bộ và kỷ luật công vụ, đặc biệt là các tội phạm về môi trường, ma túy, tội phạm trong thanh thiếu niên để có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh kịp thời.
Tung tin thất thiệt làm rối thị trường
Báo cáo của Chính phủ do Bộ trưởng Công an Lê Hồng Anh trình bày cho biết an ninh kinh tế đã xuất hiện những vấn đề mới, phức tạp hơn, tập trung ở các lĩnh vực đầu tư, tài chính, ngân hàng, chứng khoán.
Theo Bộ trưởng, tình hình nhập siêu, lạm phát làm cho giá các mặt hàng thiết yếu tăng cao, thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều biến động bất lợi, xuất hiện việc tung tin thất thiệt làm rối loạn thị trường, gây tâm lý hoang mang cho nhân dân, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát.
Đáng chú ý, tội phạm kinh tế ngày càng phức tạp, có ổ nhóm lập công ty để đòi nợ thuê, cưỡng đoạt tiền của các chủ tàu thuyền… Đáng chú ý hoạt động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trong thực hiện các hợp đồng kinh tế giữa trong nước với nước ngoài gây nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp trong nước.
Để tháo gỡ, Bộ trưởng Lê Hồng Anh cho biết Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tăng cường bảo vệ và đảm bảo an ninh kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực thị trường chứng khoán, cổ phần hóa và mua bán cổ phiếu, ngân hàng, dầu khí, khai thác khoáng sản, chỉ đạo các ngành củng cố an ninh nội bộ, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh…
“Chính phủ đã đề ra các giải pháp khắc phục kịp thời sơ hở, thiếu sót trong cơ chế, chính sách, quản lý kinh tế, thị trường chứng khoán, tài chính, ngân hàng, quản lý đất đai, quản lý môi trường”, Bộ trưởng nói.
Ngày 24/10, đại biểu QH dành cả ngày để thảo luận ở hội trường về các báo cáo trên.
• Xuân Linh
http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/10/809921/
 

23- Làng Cả bị "hoang hóa", tỉnh Phú Thọ nhận "tội"

18:00' 23/10/2008 (GMT+7)
- "Tội" của các cơ quan chức năng tỉnh Phú Thọ ở đây là đã để Miwon và doanh nghiệp khác làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến dân sinh và đã không quan tâm đúng mức đến khu di tích Làng Cả, khiến khu di tích này trong tình trạng bị "bỏ quên".
Sau khi báo chí lên tiếng về việc Miwon gây ô nhiễm môi trường làm người dân khu vực khốn khổ và khu di tích Làng Cả bị "bỏ quên", ngày 23/10, đại diện các cơ quan chức năng liên quan của tỉnh Phú Thọ đã có cuộc trao đổi với báo chí.

Bà Nguyễn Thị Kim Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ nhận lỗi trước cơ quan báo chí. Ảnh: T.N
Trong cuộc trao đổi, các ngành liên quan của Phú Thọ đã đồng loạt nhận lỗi. Họ cho rằng, sau vụ việc này đã rút ra một bài học về vấn đề quản lý không chỉ trong vấn đề môi trường mà cả vấn đề quản lý di tích Làng Cả.
Bà Nguyễn Thị Kim Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ đã nghiêm khắc nhận khuyết điểm về việc quản lý, bảo vệ chưa nghiêm ngặt khu di tích Làng Cả sau khi được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ văn hóa thể thao và du lịch) công nhận Làng Cả là di tích khảo cổ học quốc gia.
Bà Hải cũng hứa sẽ cố gắng tôn tạo để khu di tích xứng đáng với tầm của nó.
"Chúng tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm khi đã không quan tâm đúng mức đến khu di tích Làng Cả, để khi di tích trong tình trạng tạm bợ. Thực tế không thể đổ lỗi cho ai được", bà Hải nói.
Cũng theo bà Hải, trong thời gian tới, Phú Thọ sẽ sửa sai bằng việc tập trung chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch di tích Làng Cả, tạo cảnh quan môi trường cho xứng tầm với khu di tích.
Nói về trách nhiệm của cơ quan chức năng, bà Hải nói: Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm chung, chúng tôi xin tiếp thu". Theo bà Hải, vấn đề môi trường hiện nay là cấp bách và cơ quan tham mưu của tỉnh Phú Thọ còn những tồn tại nhất định. Trong khi chưa di dời được khu công nghiệp phía Nam thành phố Việt Trì ra khỏi khu vực ngoại thành, trong thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung vào vấn đề xử lý môi trường.

Ông Nguyễn Văn Suất, trưởng ban tuyên giáo tỉnh Phú Thọ khẳng định: Vụ Miwon sai phạm, sau khi báo chí lên tiếng thì Phú Thọ mới làm cương quyết. Ảnh: T.N
Cũng nhận sai về phía cơ quan quản lý, ông Vũ Văn Thủy, Giám đốc Sở TNMT Phú Thọ nói: Sai đến đâu chúng tôi sẽ sửa đến đó.
Theo ông Thủy, cần coi đây là "bài học quý" trong việc quản lý.
"Việc người dân phản ánh và báo chí đưa tin vụ Miwon vi phạm môi trường là đúng sự thật và Miwon đã bị xử lý theo quy định. Cũng coi đây là bài học răn đe, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp để họ có nhận thức về trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường. Vụ Miwon cũng là bài học về quản lý Nhà nước trong việc quản lý về bảo vệ môi trường", ông Thủy nói.
Biện hộ cho những thiếu xót của Sở TNMT tỉnh Phú Thọ khi để xảy ra tình trạng một số nhà máy vi phạm đến môi trường, theo ông Thủy là do "thiếu về con người và yếu về năng lực".
Ông Thủy cho biết, Sở TNMT đang điều tra việc vi phạm môi trường suốt dọc sông Hồng của một số doanh nghiệp. Vi phạm của các nhà máy như: Giấy Việt Trì, Công ty sông Hồng, Nhà máy bánh kẹo Hải Hà... đang chờ phân tích mẫu nước và hết tháng 10 sẽ có kết quả. "Nếu các doanh nghiệp có vi phạm, sẽ xử lý nghiêm túc", lời của ông Thủy.
Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, tỉnh Phú Thọ, ông Phạm Bá Khiêm cho rằng: Chưa đủ cơ sở chứng minh Làng Cả rộng đến đâu. Việc khu di tích Làng Cả bị rơi vào tình trạng như hiện nay là do cơ quan chức năng còn chậm và do chưa có kinh nghiệm. Ông Khiêm đưa ra lý do khách quan là vì "đây là công trình dự án khảo cổ lần đầu tiên được thực hiện liên quan đến trưng bày tại chỗ với hố khai quật khảo cổ".


Ông Khiêm cũng đưa ra lời hứa sẽ khẩn trương di dời các công trình làm xâm hại cảnh quan khu di tích.
"Qua kiểm tra thực tế, đối chiếu thực địa, hồ sinh thái không nằm trong khu vực bảo vệ của di tích Làng Cả, không bị xâm phạm", lời ông Khiêm.
Chốt lại cuộc trao đổi, ông Nguyễn Văn Suất, trưởng ban tuyên giáo tỉnh Phú Thọ khẳng định: Vụ Miwon sai phạm, sau khi báo chí lên tiếng thì Phú Thọ mới làm cương quyết. "Trước đó có làm nhưng ở mức độ vừa phải thôi", ông Suất nói.
Nói về khu di tích Làng cả bị "hoang hóa", ông Suất nhận lỗi: Sau khi khu di tích Làng Cả được phê chuẩn xếp hạng quốc gia, Phú Thọ cũng chưa quan tâm đến khu di tích này.
Lý do mà ông Suất đưa ra là: "Tỉnh phú Thọ ở tình trạng lực bất tòng tâm. Vì nghèo nên ngân sách của tỉnh vẫn còn hạn chế".
Chùm ảnh khu di tích Làng Cả bị "hoang hóa":


Rác thải, vật liệu xây dựng choán khu di tích. Ảnh: T.N


Xót xa cho khu di tích Làng Cả. Ảnh: T.N
• Tuyết Nhung
http://vietnamnet.vn/xahoi/2008/10/809902/
 

24- Dòng sông chết

GS.TS Lâm Minh Triết - nguyên viện trưởng Viện Tài Nguyên và Môi Trường Đại Học Quốc Gia Sài Gòn - nói rằng nồng độ oxy hòa tan trong nước là một trong những thông tin đầu tiên, rất quan trọng để đánh giá môi trường nước có còn sự sống hay không.
Một kết quả phân tích mẫu nước năm 2004 được Sở Tài Nguyên-Môi Trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cung cấp ghi: “Điểm lấy mẫu ở khu vực gần cửa xả nước thải của công ty Vedan”. Kết quả: nồng độ oxy hòa tan trong nước (đơn vị mg/lít) qua bốn đợt phân tích (khoảng ba tháng/đợt) tương ứng là 0,3; 0,3; 2,2 và 2,6. Đối chiếu với tiêu chuẩn chất lượng nước mặt Việt Nam thì kết quả đo đạc nồng độ oxy hòa tan trong nước ở hai đợt đầu tiên còn rất xa mới đạt được mức thấp nhất của tiêu chuẩn (2mg/lít); kết quả đo đạc chỉ tiêu này của hai đợt cuối năm 2004 cũng chỉ mới xấp xỉ mức thấp nhất của tiêu chuẩn. Tuy nhiên, nếu so sánh với tiêu chuẩn nước ngọt bảo vệ đời sống thủy sinh, các mức nồng độ oxy hòa tan trong nước qua các đợt phân tích của năm 2004 là không đạt yêu cầu (thấp nhất phải đạt là 5mg/lít).
Các nhà chuyên môn khẳng định những kết quả phân tích mẫu nước này là chứng cứ xác thực nhất để nói rằng chất lượng nguồn nước ở sông Thị Vải đã bị suy giảm nghiêm trọng. Hay nói cách khác, với mức nồng độ oxy hòa tan trong nước thấp đến như vậy, kéo dài hàng chục kilômet trên sông Thị Vải, coi như không còn sự sống ở những đoạn sông này.
Trong một diễn biến khác, tại báo cáo thủ tướng chính phủ về ô nhiễm sông Thị Vải vào Tháng Tám, 2006, Bộ Tài Nguyên-Môi Trường nhìn nhận một thực trạng xót xa: “Khu vực bị ô nhiễm nặng nhất kéo dài khoảng 10km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch, Đồng Nai) đến xã Mỹ Xuân (Tân Thành, Bà Rịa-Vũng Tàu), nồng độ oxy hòa tan trong nước chỉ ở mức từ 0,5mg/lít trở xuống”. Bộ này giải trình với thủ tướng rằng: “Với nồng độ oxy thấp như vậy, các sinh vật ở dưới nước không thể sinh trưởng và phát triển được. Môi trường ở sông Thị Vải cũng không còn khả năng tự làm sạch...”
Số liệu “thăm khám sức khỏe” sông Thị Vải ở các năm tiếp theo cũng hết sức đáng buồn: 2005 và 2006, qua kết quả phân tích mẫu nước thì nồng độ oxy hòa tan trong nước chẳng nhích lên được chút nào, thậm chí còn thấp hơn. Trong khi đó, kết quả đo đạc chất lượng nước sông Thị Vải mới nhất do Chi cục Bảo vệ môi trường Sài Gòn thực hiện, được công bố vào tháng 5-2007, cho thấy thượng nguồn sông Thị Vải (khu vực gần điểm xả nước thải của Công ty Vedan) có lúc bằng... không.
Ô nhiễm chì rất nặng
Sông Thị Vải còn bị ô nhiễm nghiêm trọng do chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, chất lơ lửng, mùi hôi, vi khuẩn và đáng lo hơn là các chất độc hại kim loại nặng.
Trước đây, yêu cầu phân tích mẫu nước theo dõi diễn biến “sức khỏe” của sông Thị Vải do tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thực hiện vào thời điểm năm 2005, trong tất cả sáu vị trí có lấy mẫu nước trên sông Thị Vải để phân tích đều phát hiện có sự hiện diện của chì, cadimi và đều vượt tiêu chuẩn cho phép.
Đến cuối năm 2006, cơ quan chuyên môn của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đưa ra kết luận rất đáng lo ngại trên sông Thị Vải “ô nhiễm chì nặng và rất nặng (tùy vào từng khúc sông)”. Theo số liệu cập nhật gần đây nhất, Tháng Năm, 2007, sự hiện diện của chì và cadimi vẫn ở mức báo động “ô nhiễm nặng”, vượt tiêu chuẩn cho phép 4-5 lần. Chưa hết, cơ quan chức năng còn phát hiện có cơ sở sản xuất công nghiệp thải cả chất xyanua - một loại chất độc hại với môi trường và sức khỏe cộng đồng - vào sông Thị Vải với hàm lượng vượt chuẩn cho phép hàng chục lần.
Quá nhiều thủ phạm đầu độc sông Thị Vải
Theo một con số thống kê, lượng nước thải công nghiệp đổ xuống sông Thị Vải trong một ngày ước khoảng trên 33,000m3. Nhưng phần lớn lượng nước thải này không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn đã tống thẳng ra sông Thị Vải.
Đơn cử, khu công nghiệp Nhơn Trạch 2 (thuộc Đồng Nai) tập trung các ngành dệt nhuộm, cơ khí, điện tử... với lượng nước thải hàng nghìn mét khối/ngày. Nhưng có những thời điểm trong thành phần nước thải của khu công nghiệp này chất ô nhiễm hữu cơ vượt chuẩn cho phép hơn gấp đôi, chất dinh dưỡng vượt chuẩn gấp 5-6 lần, còn vi khuẩn có khu vực vượt chuẩn hơn 1,000 lần... Tại một số khu vực là đường thoát nước thải của khu công nghiệp luôn bốc mùi hôi thối, người dân phản ảnh có lúc ô nhiễm nghiêm trọng làm tôm, cá ở các ao đầm trong khu vực chết hàng loạt.
Các cơ quan chuyên môn tính toán chỉ riêng một doanh nghiệp sản xuất gạch men thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có tổng tải lượng các chất ô nhiễm gồm các chất hữu cơ, cặn lơ lửng... thải thẳng xuống sông Thị Vải khoảng hơn 4,000kg/ngày. Dọc sông Thị Vải có hàng trăm nhà máy công nghiệp mỗi ngày thải ra sông Thị Vải thấp thì vài trăm kilogam tổng các chất ô nhiễm, còn mức trung bình thì mỗi nhà máy cũng thải cả nghìn kilôgam các chất ô nhiễm/ngày...
“Mất bò mới lo làm chuồng”!
Tháng Mười Một, 2006, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã phê duyệt kế hoạch tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Thị Vải (đoạn thuộc tỉnh). Kèm theo kế hoạch qui mô này là 11 chương trình, dự án.
Biện pháp được xem là cứng rắn gây chú ý nhất là quyết định hạn chế cấp phép đầu tư năm loại dự án gồm xi mạ, chế biến thủy sản, sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật, sản xuất phân bón và sản xuất bột giấy. Đồng thời tỉnh cũng quyết định từ Tháng Mười Một, 2006 tạm thời không cấp phép đầu tư đối với năm loại dự án chế biến bột sắn, chế biến mủ cao su, sản xuất hóa chất cơ bản, nhuộm và thuộc da.”
Cho đến nay, người ta không thấy có một báo cáo nào cho thấy đã có công ty, xí nghiệp nào xả chất thải, hóa chất độc hại vào sông Thị Vải (và nói chung vào tất cả hệ thống kênh rạch sông ngòi trên cả nước đang chết dần vì ô nhiễm trầm trọng) đã bị “xử lý” và thiết lập các hệ thống lọc nước thải trước khi đổ vào cống rãnh, sông rạch.

 

25- Cà Mau:Một tuyến kênh ô nhiễm đe dọa hàng trăm hộ nuôi tôm
 

14:08' 23/10/2008 (GMT+7)
- Vài ngày qua, nước dưới kênh Giữa Nhỏ nằm cạnh Xí nghiệp Chế biến thủy sản (XNCBTS) Nam Long thuộc Công ty Cổ phần xuất khẩu thủy sản Cái Đôi Vàm ở ấp Đầm Cùng, xã Trần Thới (Cái Nước, Cà Mau) bốc mùi hôi thối nồng nặc. Theo đó, nhiều loại cá chết đồng loạt nổi trắng mặt nước.

Cá chết trắng trên kênh Giữa Nhỏ nằm cạnh Xí nghiệp chế biến thủy sản Nam Long. (Ảnh: Lin Ca)
Ông Huỳnh Đăng Nguyện - Trưởng ban Nhân dân ấp Đầm Cùng cho biết, 5 ngày trước người dân phát hiện nước từ bãi rác của XNCBTS Nam Long rò rỉ xuống kênh Giữa Nhỏ làm cho nguồn nước dưới kênh bị ô nhiễm. Những ngày đầu khi cá mới bắt đầu chết, người dân đổ xô xuống kênh vớt được gần 150kg cá các loại.
Qua phản ánh của người dân, XNCBTS Nam Long đã huy động vài chục người đắp đập không cho nước bẩn từ bãi rác tràn ra kênh. Tuy nhiên, đến sáng ngày 23/10 nước dưới kênh Giữa Nhỏ vẫn còn hôi tanh làm cho người dân lo lắng vì đây là tuyến kênh cung cấp nước cho vùng nuôi tôm chuyên canh rộng hàng trăm hecta.
• Lin Ca
http://vietnamnet.vn/xahoi/2008/10/809850/
Dù nhiều lần bị dọa “xử lý” triệt để: Sông Thị Vải ô nhiễm nặng, không còn sự sống
 

26- Dù nhiều lần bị dọa “xử lý” triệt để: Sông Thị Vải ô nhiễm nặng, không còn sự sống


Phát triển công nghiệp dọc sông Thị Vải đã làm dòng sông này bị ô nhiễm nghiêm trọng. (Hình: báo Tuổi Trẻ)


Cán bộ chuyên môn Chi Cục Bảo Vệ Môi Trường TP.HCM lấy mẫu nước sông Thị Vải để phân tích thành phần ô nhiễm. (Hình: báo Tuổi Trẻ)


SÀI GÒN - “Nhiều đoạn sông Thị Vải - vùng Đông Nam Bộ thuộc Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Sài Gòn - đang bị nạn ô nhiễm môi trường hủy diệt. Điều này chỉ mới xảy ra độ chục năm trở lại đây, khi nhà máy công nghiệp, cảng sông... mọc lên dày đặc”. Báo Tuổi Trẻ ngày Thứ Tư 26 Tháng Chín, 2007 mở đầu cho bài viết “Sông Thị Vải không còn... thở” như vậy.
Bài viết trình bày cho thấy con sông này từng được mô tả “chết đi sống lại” vì sự ô nhiễm gây ra do các nhà máy sản xuất mọc lên dọc theo dòng sông, xả hóa chất, chất thải độc hại xuống sông vô tội vạ. Nay đang đi dần đến chết luôn như lời cảnh báo của nhiều nhà khoa học, giống như những dòng sông, kênh rạch quan trọng khác trên cả nước.
Hơn một chục năm nay, một số bài viết về ô nhiễm trầm trọng trên sông Thị Vải khiến nông dân khốn khổ trên hai bờ, cá chết dưới sông.
Ngày mùng 6 Tháng Ba, 2006, báo Người Lao Động loan tin “xử lý triệt để các cơ sở 'đầu độc' sông Thị Vải” trong đó Trần Hông Hà, cục trưởng Cục Bảo Vệ Môi Trường của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường CSVN nói rằng: “Trong năm 2006, đoàn kiểm tra liên ngành phải hoàn tất rà soát và lên danh sách các cơ sở gây ô nhiễm sông Thị Vải và vi phạm luật bảo vệ môi trường, sau đó tiến hành xử lý triệt để theo luật định”.
Cũng trong bản tin này của tờ Người Lao Động, tờ báo nói: “Thứ trưởng thường trực Bộ Tài Nguyên-Môi Trường Phạm Khôi Nguyên, người trực tiếp tổng chỉ huy việc kiểm tra, xử lý tình trạng ô nhiễm sông Thị Vải, cho biết bắt đầu từ tuần này (6 Tháng Ba, 2006) Bộ Tài Nguyên Môi Trường sẽ chính thức ra quân xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại sông Thị Vải. Ông Nguyên nhấn mạnh Bộ Tài Nguyên-Môi Trường nhận thấy tình trạng ô nhiễm trên con sông này là rất nghiêm trọng, sớm có biện pháp khắc phục ngày nào tốt ngày đó.”
Trước khi có lời đe dọa “xử lý triệt để” của các ông Trần Hồng Hà và Phạm Khôi Nguyên, sếp của hai ông này, bộ trưởng Tài Nguyên Môi Trường (lúc đó) vào ngày 27 Tháng Mười Hai, 2004 đã tuyên bố với báo Lao Động như sau: “Ai gây ô nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm đến cùng”.
Nay, báo Tuổi Trẻ ngày 26 Tháng Chín, 2007 mô tả dòng sông Thị Vải thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu như sau:
“Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, rất ‘đặc trưng’... mùi nước sông Thị Vải tại khu vực cảng Gò Dầu (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai). Màu nước nâu nâu, đỏ đỏ chạy dài hàng chục kilômet khiến tất cả những ai có dịp quan sát dòng sông này đều khó quên.
Các nhà chuyên môn cho rằng mùi hay màu cũng chỉ là một trong những biểu hiện của tình trạng ô nhiễm. Còn muốn biết đích thực mức độ ô nhiễm nặng nhẹ đến đâu, nhất định phải phân tích mẫu nước mới có thể đánh giá được.
Dòng sông chết
GS.TS Lâm Minh Triết - nguyên viện trưởng Viện Tài Nguyên và Môi Trường Đại Học Quốc Gia Sài Gòn - nói rằng nồng độ oxy hòa tan trong nước là một trong những thông tin đầu tiên, rất quan trọng để đánh giá môi trường nước có còn sự sống hay không.
Một kết quả phân tích mẫu nước năm 2004 được Sở Tài Nguyên-Môi Trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cung cấp ghi: “Điểm lấy mẫu ở khu vực gần cửa xả nước thải của công ty Vedan”. Kết quả: nồng độ oxy hòa tan trong nước (đơn vị mg/lít) qua bốn đợt phân tích (khoảng ba tháng/đợt) tương ứng là 0,3; 0,3; 2,2 và 2,6. Đối chiếu với tiêu chuẩn chất lượng nước mặt Việt Nam thì kết quả đo đạc nồng độ oxy hòa tan trong nước ở hai đợt đầu tiên còn rất xa mới đạt được mức thấp nhất của tiêu chuẩn (2mg/lít); kết quả đo đạc chỉ tiêu này của hai đợt cuối năm 2004 cũng chỉ mới xấp xỉ mức thấp nhất của tiêu chuẩn. Tuy nhiên, nếu so sánh với tiêu chuẩn nước ngọt bảo vệ đời sống thủy sinh, các mức nồng độ oxy hòa tan trong nước qua các đợt phân tích của năm 2004 là không đạt yêu cầu (thấp nhất phải đạt là 5mg/lít).
Các nhà chuyên môn khẳng định những kết quả phân tích mẫu nước này là chứng cứ xác thực nhất để nói rằng chất lượng nguồn nước ở sông Thị Vải đã bị suy giảm nghiêm trọng. Hay nói cách khác, với mức nồng độ oxy hòa tan trong nước thấp đến như vậy, kéo dài hàng chục kilômet trên sông Thị Vải, coi như không còn sự sống ở những đoạn sông này.
Trong một diễn biến khác, tại báo cáo thủ tướng chính phủ về ô nhiễm sông Thị Vải vào Tháng Tám, 2006, Bộ Tài Nguyên-Môi Trường nhìn nhận một thực trạng xót xa: “Khu vực bị ô nhiễm nặng nhất kéo dài khoảng 10km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch, Đồng Nai) đến xã Mỹ Xuân (Tân Thành, Bà Rịa-Vũng Tàu), nồng độ oxy hòa tan trong nước chỉ ở mức từ 0,5mg/lít trở xuống”. Bộ này giải trình với thủ tướng rằng: “Với nồng độ oxy thấp như vậy, các sinh vật ở dưới nước không thể sinh trưởng và phát triển được. Môi trường ở sông Thị Vải cũng không còn khả năng tự làm sạch...”
Số liệu “thăm khám sức khỏe” sông Thị Vải ở các năm tiếp theo cũng hết sức đáng buồn: 2005 và 2006, qua kết quả phân tích mẫu nước thì nồng độ oxy hòa tan trong nước chẳng nhích lên được chút nào, thậm chí còn thấp hơn. Trong khi đó, kết quả đo đạc chất lượng nước sông Thị Vải mới nhất do Chi cục Bảo vệ môi trường Sài Gòn thực hiện, được công bố vào tháng 5-2007, cho thấy thượng nguồn sông Thị Vải (khu vực gần điểm xả nước thải của Công ty Vedan) có lúc bằng... không.
Ô nhiễm chì rất nặng
Sông Thị Vải còn bị ô nhiễm nghiêm trọng do chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, chất lơ lửng, mùi hôi, vi khuẩn và đáng lo hơn là các chất độc hại kim loại nặng.
Trước đây, yêu cầu phân tích mẫu nước theo dõi diễn biến “sức khỏe” của sông Thị Vải do tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thực hiện vào thời điểm năm 2005, trong tất cả sáu vị trí có lấy mẫu nước trên sông Thị Vải để phân tích đều phát hiện có sự hiện diện của chì, cadimi và đều vượt tiêu chuẩn cho phép.
Đến cuối năm 2006, cơ quan chuyên môn của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đưa ra kết luận rất đáng lo ngại trên sông Thị Vải “ô nhiễm chì nặng và rất nặng (tùy vào từng khúc sông)”. Theo số liệu cập nhật gần đây nhất, Tháng Năm, 2007, sự hiện diện của chì và cadimi vẫn ở mức báo động “ô nhiễm nặng”, vượt tiêu chuẩn cho phép 4-5 lần. Chưa hết, cơ quan chức năng còn phát hiện có cơ sở sản xuất công nghiệp thải cả chất xyanua - một loại chất độc hại với môi trường và sức khỏe cộng đồng - vào sông Thị Vải với hàm lượng vượt chuẩn cho phép hàng chục lần.
Quá nhiều thủ phạm đầu độc sông Thị Vải
Theo một con số thống kê, lượng nước thải công nghiệp đổ xuống sông Thị Vải trong một ngày ước khoảng trên 33,000m3. Nhưng phần lớn lượng nước thải này không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn đã tống thẳng ra sông Thị Vải.
Đơn cử, khu công nghiệp Nhơn Trạch 2 (thuộc Đồng Nai) tập trung các ngành dệt nhuộm, cơ khí, điện tử... với lượng nước thải hàng nghìn mét khối/ngày. Nhưng có những thời điểm trong thành phần nước thải của khu công nghiệp này chất ô nhiễm hữu cơ vượt chuẩn cho phép hơn gấp đôi, chất dinh dưỡng vượt chuẩn gấp 5-6 lần, còn vi khuẩn có khu vực vượt chuẩn hơn 1,000 lần... Tại một số khu vực là đường thoát nước thải của khu công nghiệp luôn bốc mùi hôi thối, người dân phản ảnh có lúc ô nhiễm nghiêm trọng làm tôm, cá ở các ao đầm trong khu vực chết hàng loạt.
Các cơ quan chuyên môn tính toán chỉ riêng một doanh nghiệp sản xuất gạch men thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có tổng tải lượng các chất ô nhiễm gồm các chất hữu cơ, cặn lơ lửng... thải thẳng xuống sông Thị Vải khoảng hơn 4,000kg/ngày. Dọc sông Thị Vải có hàng trăm nhà máy công nghiệp mỗi ngày thải ra sông Thị Vải thấp thì vài trăm kilogam tổng các chất ô nhiễm, còn mức trung bình thì mỗi nhà máy cũng thải cả nghìn kilôgam các chất ô nhiễm/ngày...
“Mất bò mới lo làm chuồng”!
Tháng Mười Một, 2006, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã phê duyệt kế hoạch tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Thị Vải (đoạn thuộc tỉnh). Kèm theo kế hoạch qui mô này là 11 chương trình, dự án.
Biện pháp được xem là cứng rắn gây chú ý nhất là quyết định hạn chế cấp phép đầu tư năm loại dự án gồm xi mạ, chế biến thủy sản, sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật, sản xuất phân bón và sản xuất bột giấy. Đồng thời tỉnh cũng quyết định từ Tháng Mười Một, 2006 tạm thời không cấp phép đầu tư đối với năm loại dự án chế biến bột sắn, chế biến mủ cao su, sản xuất hóa chất cơ bản, nhuộm và thuộc da.”
Cho đến nay, người ta không thấy có một báo cáo nào cho thấy đã có công ty, xí nghiệp nào xả chất thải, hóa chất độc hại vào sông Thị Vải (và nói chung vào tất cả hệ thống kênh rạch sông ngòi trên cả nước đang chết dần vì ô nhiễm trầm trọng) đã bị “xử lý” và thiết lập các hệ thống lọc nước thải trước khi đổ vào cống rãnh, sông rạch.

 

27- Liệu có thêm cảnh “giết chết sông kiểu Vedan”?
 

8:49 AM, 23/10/2008
Lực lượng của Phòng cảnh sát môi trường (PC 36) Công an TP.Hồ Chí Minh vừa bất ngờ kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính đối với Ban quản lý chợ đầu mối thủy sản Bình Điền sau khi phát hiện một lượng rất lớn nước thải chưa qua xử lý thoát ra sông Chợ Đệm. Liệu ở đây có tái lập cảnh “giết chết” môi trường kiểu Công ty Vedan tại Đồng Nai?

Tiêu chuẩn vênh nhau?
Trả lời các cơ quan chức năng nguyên nhân vì sao sau 3 năm chợ Bình Điền đi vào hoạt động mà vẫn chỉ xử lý được một phần nước thải, còn phần lớn vẫn cho xả thẳng ra sông Chợ Đệm, ông Trần Văn Bắc, Phó Tổng Giám đốc thường trực Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA) - đơn vị chủ đầu tư chợ đầu mối thủy sản Bình Điền (chợ Bình Điền) cho rằng: Ngay khi bắt tay vào xây dựng chợ Bình Điền, tại phường 7, quận 8, SATRA đã hoàn chỉnh hồ sơ dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải có vốn đầu tư 27 tỷ đồng, công suất 2.500m3, với chất lượng nước sau khi xử lý đạt loại B theo tiêu chuẩn TCVN 5945:1995. Tháng 3-2006, chợ Bình Điền đi vào hoạt động thì mãi đến ngày 24-4-2007, Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản số 3091/TNMT-QLMT đề nghị toàn bộ nước thải phát sinh từ hoạt động của chợ Bình Điền phải được thu gom và xử lý đạt loại I theo tiêu chuẩn TCVN 6772: 2000. Vì vậy, toàn bộ dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải mà SATRA dự kiến xây dựng phải tạm dừng để chờ điều chỉnh theo yêu cầu của Sở Tài nguyên và Môi trường (Sở TMMT). Để chất lượng nước thải sau khi xử lý đạt loại I, nhà máy xử lý nước thải tại chợ Bình Điền phải đầu tư thêm 20 tỷ đồng nữa, kèm theo phải có 6 ha đất để phục vụ công đoạn khử muối vốn có rất nhiều trong nước thải từ hoạt động buôn bán tôm cá biển, cá đồng với số lượng hơn 1.000 tấn/ngày đêm được tập kết về chợ.
Về kinh phí để nâng cấp nhà máy xử lý nước thải, ông Trần Văn Bắc khẳng định SATRA sẵn sàng đầu tư thêm 20 tỷ đồng để lắp đặt thêm thiết bị. Nhưng về diện tích 6ha đất để phục vụ công đoạn khử muối, thì SATRA không biết tìm ở đâu. Đây là điều bất hợp lý vì khu vực xây dựng nhà máy xử lý nước thải giáp ranh với đất của Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng nên không thể yêu cầu nơi đây chia bớt đất cho chợ Bình Điền được. Nếu ngay từ khi triển khai dự án xây dựng chợ Bình Điền, Sở TMMT có ý kiến về tiêu chuẩn xử lý nước thải thì mọi việc sẽ thuận lợi hơn vì khi đó SATRA có thể điều chỉnh quy hoạch các nhà lồng chợ trong phần diện tích hơn 40 ha của chợ Bình Điền để dành 6 ha cho nhà máy xử lý nước thải.
Hậu quả của việc thiếu nhà máy xử lý nước thải đã dẫn đến hàng ngày hơn 1.000m3 nước thải chưa qua xử lý dồn ứ về trạm xử lý có công suất vỏn vẹn 400 m3/ngày. Lượng nước thải lớn trong khi công suất xử lý nhỏ nên nước thải tràn ngập khắp sàn chợ Bình Điền, rồi theo đường ống thoát nước mưa chảy ra sông Chợ Đệm. Việc này đã bị Phòng cảnh sát môi trường Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang và lập biên bản ngày 18-10- 2008. “Là một tổng công ty lớn của Thành phố Hồ Chí Minh và của cả nước, chúng tôi lấy làm xấu hổ về việc này nhưng đây không phải là lỗi của SATRA” - ông Trần Văn Bắc than khổ.
Sở Tài nguyên và Môi trường “đá” chủ đầu tư?
Phản ánh kỹ hơn về việc Sở TMMT “làm khó” SATRA, ông Trần Văn Bắc cho biết: Ngay trong đợt giám sát của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 4-2008, chúng tôi đã đặt vấn đề tại sao Sở TMMT không chủ động hướng dẫn SATRA xây dựng nhà máy xử lý nước thải đạt chuẩn mà lại “đá ngang hông” khi chờ đến khi “mọi sự đã an bài” thì mới nêu ý kiến cần thay đổi. Đại diện Sở TMMT đã không giải thích được lý do mà chỉ đề nghị chung chung: cứ theo quy định mà làm.
Trình bày về “giải pháp chữa cháy” cho tình trạng nước thải thì nhiều nhưng xử lý hạn chế tại chợ Bình Điền, ông Trần Văn Bắc cho biết: Chúng tôi không thụ động ngồi chờ mà chấp nhận xé rào khi lấy phần diện tích cây xanh để xây dựng trạm xử lý nước thải cục bộ. Từ khi có trạm xử lý nước thải này, lượng nước thải từ nhà lồng F (bán thủy hải sản tươi) đã được xử lý một phần, nhưng phần nước thải từ các sạp hàng với khối lượng 700-900m3 vẫn phải xả ra sông Chợ Đệm. Ngay trong tháng 11- 2008, SATRA sẽ đầu tư thêm 9 tỷ đồng để mở rộng trạm xử lý nước thải cục bộ với công suất 1.000m3 trên phần diện tích dành cho cây xanh còn lại. Đây là việc chẳng đặng đừng vì phải gần 2 năm nữa, nhà máy xử lý nước thải của chợ Bình Điền mới có thể hoàn thành.
Ông Trần Văn Bắc cũng phân trần: Đừng nghĩ chúng tôi “giết môi trường giống như Vedan” vì SATRA là một Tổng công ty Nhà nước nên luôn quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường. Ngay khi báo chí phản ánh về hiện tượng nước thải chưa qua xử lý tại chợ Bình Điền chảy ra sông Chợ Đệm, Ban Giám đốc SATRA đã họp khẩn và đi đến quyết định sẽ áp dụng nhiều giải pháp tổng hợp để khắc phục. Trước mắt, một tổ công tác môi trường của SATRA sẽ trực 24/24 tại chợ Bình Điền, còn trạm xử lý nước thải cục bộ cũng sẽ hoạt động liên tục để xử lý nhiều hơn lượng nước thải ra từ hoạt động buôn bán thủy hải sản. Để đảm bảo, nước thải chưa qua xử lý không chảy tràn lan ra sông Chợ Đệm, SATRA sẽ cho đào các hồ chứa tại phần diện tích đất trống chưa xây dựng nhà lồng của giai đoạn 2 để chứa tạm khối lượng nước thải, chờ xử lý từ từ. Ngoài ra, ngay trong tuần này, Ban quản lý chợ Bình Điền cũng sẽ thống nhất hợp đồng với một công ty dịch vụ môi trường để bơm hút lượng nước thải còn tồn đọng tại hệ thống cống dọc các nhà lồng đem đi nơi khác xử lý...
http://baodaidoanket.net/ddk/mdNews.ddk?masterId=2&categoryId=83&id=10939
 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org