Vụ án Vedan Việt Nam

Vietsciences-           

 

Vụ án Vedan Việt Nam

Biển chết

1/Ô nhiễm trầm trọng sông Cái và cửa biển Phú Hài
2/Biển Đà Nẵng "ngạt thở" vì ô nhiễm
3/Báo động “đỏ” ô nhiễm môi trường biển Cát Bà
4/Nước Thải Ô Nhiễm Đang Giết Hại Những Dòng Sông Ven Biển Vũng Tàu.
5/Báo động ô nhiễm môi trường biển
6/Ô nhiễm môi trường ở các vùng ven biển: Thực trạng đáng báo động
7/ĐÀ NẴNG: Đầu tư lớn, ô nhiễm vẫn trầm trọng
8/Môi trường biển - Hải Phòng báo động về tình trạng ô nhiễm
9/Nguy cơ ô nhiễm vịnh Nha Trang
10/BÁO ĐỘNG ĐỎ VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
11/Nhiều bãi biển du lịch đang ô nhiễm ở mức báo động
12/Vịnh Nha Trang trên đà... ô nhiễm!
13/Nước thải ô nhiễm huỷ hoại biển
14/Ô nhiễm ở Đông Vĩnh - TP Vinh - Nghệ An: Doanh nghiệp bỏ chạy, chính quyền "làm thinh"
15/THANH HÓA: MÔI TRƯỜNG BIỂN ĐANG BỊ Ô NHIỄM
 

_____________________________________________________________________________________

 

1- Ô nhiễm trầm trọng sông Cái và cửa biển Phú Hài

Ô nhiễm trầm trọng sông Cái và cửa biển Phú Hài
(Toquoc)- Một khu chế biến thủy sản trên 60 doanh nghiệp nhưng không có cơ sở nào có hệ thống xử lý nước thải. Mùi xú uế và khói bụi tỏa ra gây ô nhiễm trên diện rộng. Người dân âm thầm chịu đựng, doanh nghiệp âm thầm xả thải. Việc ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người dân trong, mà còn đe dọa “mạng sống” của sông Cái, nơi có hàng chục hec-ta ao nuôi tôm đang hoạt động.
Thực trạng ô nhiễm xuất phát từ khu chế biến nước mắm Phú Hài, nằm giáp ranh giữa xã Hàm Thắng (Hàm Thuận Bắc) và phường Phú Hài (TP Phan Thiết). Trước đây, nước thải ra từ các cơ sở chế biến được hệ thống cống dẫn về tập trung vào một hồ rộng khoảng 1,4 hec-ta. Khi hồ chứa nước thải bị “lên án” vì ô nhiễm quá nặng, nên giữa năm 2007, cơ quan chức năng đã… lấp hồ.
Lấp hồ, thải nước ra sông!
Có mặt tại cống xả ở hướng đông, dòng nước đen ngòm đặc quánh, ruồi nhặng bu quanh, bốc mùi nồng nặc, bắt nguồn từ hệ thống thoát nước chằng chịt được lắp đặt ngầm của khu chế biến thủy sản thải thẳng ra sông. Vì vậy, khó có thể biết được doanh nghiệp nào hiện đang trực tiếp xả. Ông Văn Cư - Trưởng khu phố 1 búc xúc cho biết: “Mùi hôi nồng nặc nhất là vào buổi tối, khi các cơ sở tập trung xả thải. Nhiều hộ dân phải đóng kín cửa khi ăn cơm vì ruồi nhặng quá nhiều và mùi hôi nồng nặc”. Gần mương xả thải, nước ở một vuông nuôi tôm trước đây, rộng khoảng 3.000m2, đã biến thành màu xanh. Khi chúng tôi đến, con gái của bà Lê Thị Mọi – chủ vuông tôm đã mừng rỡ thăm hỏi vì tưởng người đến mua ao tôm. Nhưng khi biết chúng tôi là nhà báo, chị đã cho biết, gia đình chị trước đây sử dụng vuông này để nuôi tôm, nhưng vài năm trở lại đây, do nguồn nước bị ô nhiễm nên tôm không sống nổi. Chuyển qua nuôi cá rô phi nhưng cá cũng không thể sống chứ nói gì đến phát triển. Hiện hồ đang được rao bán, nhưng nguồn nước bị ô nhiễm nên chẳng ai mua.

Dòng nước thải đen ngòm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
Tương tự, dòng nước đen ngòm xả ra từ miệng cống ở hướng Nam đóng bọt màu trắng đổ ra nhánh sông cầu Ké. Hai miệng cống này đều chảy ra sông Cái và cùng đổ ra biển qua cửa biển Phú Hài, nơi có đông người dân sinh sống và đánh bắt cá ven cửa sông. Theo tìm hiểu của chúng tôi, dù có tên gọi là khu chế biến nước mắm, nhưng hiện có nhiều ngành nghề khác nhau đang hoạt động tại nơi đây như: chế biến cá hấp, chế biến bột cá, sản xuất phân vi sinh từ xác cá… và cơ sở nào cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Theo đánh giá của chúng tôi, các cơ sở chế biến bột cá gây ô nhiễm nhiều nhất bởi nguồn nước vệ sinh và khí thải từ cơ sở thải ra. Nơi chịu ô nhiễm n ng nhất hiện nay là hai thôn Ung Chiếm, Thắng Hòa (P.Hàm Thắng), với mùi hôi của bột cá và khí thải từ chất đốt bốc lên cả ngày lẫn đêm. Vừa qua, Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Thuận đã bắt quả tang hành vi gây ô nhiễm môi trường của một số cơ sở, lập biên bản xử phạt và buộc phải di dời. Nhưng đến nay, hàng chục khối xỉ than vẫn nằm chất đống bên cạnh các cơ sở chế biến thủy sản đang hằng ngày xả nước thải trực tiếp ra sông Cái.

Nước thải được xả trực tiếp qua đường ống này ra sông Cái
Việc khắc phục không thể chậm trễ
Được biết, Khu chế biến nước mắm Phú Hài được Sở Thủy sản Bình Thuận (trước đây) lập dự án xây dựng và đưa vào hoạt động từ năm 2000. Đến năm 2007, dự án được giao cho UBND TP Phan Thiết trực tiếp quản lý. Khi đi vào hoạt động, khu vực này chỉ có một hồ chứa thay cho khu xử lý nước thải tập trung. Và việc lấp hồ (như đã nói ở trên) được xem như cách giải quyết hậu quả tạm thời và chỉ là giải pháp tình thế nhằm giảm ô nhiễm cho môi trường chung quanh; khiến hơn một năm nay, các cơ sở chế biến trong khu vực phải “xả tạm” nước thải ra sông Cái. Trước thực trạng trên, Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Thuận đã chỉ đạo xây dựng hệ thống xử lý sơ bộ ở từng cơ sở. Nhưng các doanh nghiệp không đồng ý với phương án này, họ yêu cầu xây dựng một hệ thống xử lý nước thải tập trung và có thu phí đúng như thiết kế của dự án.
Một số doanh nghiệp cho rằng, mức độ gây ô nhiễm ở các loại hình sản xuất, cũng như quy mô lớn nhỏ là khác nhau nên không thể cào bằng theo kiểu “cá mè một lứa”. Ông Nguyễn Huy Tiến - Chủ tịch Hiệp hội Nước mắm TP Phan Thiết cho biết: “Các cơ sở chế biến nước mắm thường gây ô nhiễm mùi hôi ở tháng đầu khi cá vào chượp. Còn nước thải chỉ là nước thải sinh hoạt của công nhân, chỉ khoảng 2m3/cơ sở/ngày. Vì vậy, nếu các cơ sở tự lắp đặt hệ thống xử lý nước cho riêng mình - khoảng 160 triệu/hệ thống - thì quá lãng phí, cả về tài chính lẫn quỹ đất. Nếu xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, Hội sẽ vận động các hội viên đóng góp”.

Trong khi đó, ông Huỳnh Giác - Giám đốc Sở Tài Nguyên và Môi trường Bình Thuận lại cho rằng: “Để xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường như hiện nay một phần là do không đồng bộ trong khâu thiết kế, xây dựng đường dẫn và khu xử lý nước thải tập trung. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường. Việc triển khai lắp đặp hệ thống xử lý nước thải sơ bộ như hiện nay là đúng với quy định bắt buộc trước khi thải vào hệ thống xử lý tập trung (nếu có). Việc thực hiện cũng tùy theo doanh nghiệp lớn, nhỏ; thải nhiều hay ít mà xây dựng khác nhau, hoặc nâng cấp hệ thống xử lý hiện có, nhưng phải đúng với tiêu chuẩn cho phép”. Ông Huỳnh Giác cũng khẳng định sẽ thành lập đoàn khảo sát thực tế gồm Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND TP Phan Thiết, đại diện các doanh nghiệp trong khu vực nhằm đánh giá mức độ ô nhiễm của từng cơ sở, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, dẫn đến tình trạng ô nhiễm kéo dài như hiện nay. Về lâu dài, Sở Tài nguyên và Môi T\trường sẽ kiến nghị UBND tỉnh Bình Thuận cung cấp nguồn vốn xây dựng khu xử lý nước thải tập trung. Trong quá trình chờ xây dựng, ban quản lý dự án cần tăng cường việc kiểm tra và rà soát lại các hệ thống cống xả, đường sá giao thông cũng như nhắc nhở các cơ sở tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường.
Hy vọng với những động thái trên, tình trạng ô nhiễm môi trường tại Khu chế biến nước mắm Phú Hài sẽ nhanh chóng được giải quyết, khắc phục; nhằm trả lại môi trường trong sạch cho người dân sống trong khu vực và dòng sông Cái.
Phúc Sinh
http://72.14.235.104/search?q=cache:umdxfQHscZYJ:www.toquoc.gov.vn/%3Fp%3D10874%26ccat%3D42+bi%E1%BB%83n+%C3%B4+nhi%E1%BB%85m&hl=en&ct=clnk&cd=5

 

2-Biển Đà Nẵng "ngạt thở" vì ô nhiễm

Cập nhật: 12:23 PM, 06/08/2007

Cống nước thải của các khu dân cư thoát ra.
Bãi biển Đà Nẵng được Tạp chí Forbes bình chọn là 1 trong 6 bãi biển đẹp nhất hành tinh. Thế nhưng, gần đây, nguồn nước biển đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do tình trạng buôn bán hàng rong, xả rác bừa trên bãi biển cũng đang bị biến tướng.
Đà Nẵng được thiên nhiên ưu ái ban tặng bờ biển dài hơn 30km cùng nhiều cảnh đẹp như Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn. Trong các bãi tắm của biển Đà Nẵng, lý tưởng nhất vẫn là bãi biển Mỹ Khê - Non Nước và đây cũng là một trong những bãi tắm đẹp và nổi tiếng của thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, bãi tắm trên đã thu hút rất nhiều khách du lịch cũng như người dân địa phương đến đây thưởng thức, hòa mình vào làn nước trong xanh, bãi cát trắng đầy nắng và gió.
Hàng năm, ngành Du lịch TP Đà Nẵng đón tiếp bình quân khoảng 25 lượt tàu khách nước ngoài du lịch, với hàng chục ngàn lượt khách lên bờ tham quan.
Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng du lịch biển của ngành Du lịch TP Đà Nẵng còn hạn chế, ngoài cảnh bu bám, chèo kéo khách du lịch thì tình trạng ô nhiễm do hệ thống nước thải ở các khu dân cư, rác thải bán hàng rong xả ra biển tại các bãi tắm đang là vấn đề đáng quan tâm.
Nguyên nhân dẫn đến nguồn nước biển bị ô nhiễm là do tuyến cống thoát nước ở các khu dân cư chảy ra, nước thải chưa qua xử lý đều đổ dồn ra biển xoáy thành dòng màu đen đặc quánh bốc lên mùi hôi thối.
Bên cạnh đó, nạn bán hàng rong trên bãi biển cũng phát triển. Các quầy bán hàng di động dọc bãi biển mọc lên như nấm. Và cứ thế, thức ăn, đồ uống chế biến sẵn được bày bán ngay tại bãi tắm; thậm chí, thức ăn cũng được khách mang theo xuống biển vừa tắm vừa ăn rồi ngang nhiên vứt rác bừa bãi.
Tuy chính quyền và các ngành chức năng ở TP Đà Nẵng đã triển khai nhiều biện pháp để dẹp nạn bán hàng rong trên biển nhằm giữ cho cảnh quan môi trường biển được xanh, sạch, đẹp... nhưng chỉ được một thời gian, nạn bán hàng rong lại tiếp tục tái diễn và chính những hộ kinh doanh dọc theo tuyến biển cho biết, nguồn nước biển tại khu vực này bị ô nhiễm đã nhiều năm nay.
Muốn kinh doanh thuận lợi, thu hút khách đến bãi tắm ngày càng đông hơn, các hộ kinh doanh tự tìm cho mình biện pháp là mua bao cát chèn lấp ống cống để chặn dòng nước thải ra ngoài, đồng thời hạn chế một phần nào đó sự ô nhiễm.
Thế nhưng, đây cũng chỉ là giải pháp tình thế, trên thực tế của thiết kế hệ thống cống nước thì nước thải bao giờ cũng chảy về xuôi cho nên những bao cát chèn lấp chỉ trụ lại một thời gian rồi sẽ trôi dạt theo dòng nước.
Biển Đà Nẵng có một địa thế thuận lợi là điểm đến và trung chuyển khác của khu vực miền Trung cho nên phát triển du lịch biển cũng là một lợi thế của Đà Nẵng. Để bãi biển Đà Nẵng thực sự đẹp, quyến rũ và thu hút được du khách tới tham quan, tắm biển, nghỉ ngơi ngày càng nhiều thì còn tùy vào ý thức của mỗi người chúng ta. Đề nghị chính quyền địa phương nhanh chóng có biện pháp, xử lý triệt để những tình trạng gây ô nhiễm trên.
(Theo CAND)
http://www.laodong.com.vn/Home/Bien-Da-Nang-ngat-tho-vi-o-nhiem/20078/49469.laodong

 

3- Báo động “đỏ” ô nhiễm môi trường biển Cát Bà

Thân sứa bị bỏ, thải ra biển, trôi dạt vào bờ biển Cát Bà gây ô nhiễm môi trường (Ảnh: L.T).

Vùng biển Cát Bà từng được ví như là "khó báu" mà thiên nhiên dành tặng cho hậu thế, bởi sự phong phú, đa dạng, quý hiếm của các loài sinh vật biển. Đáng tiếc, sự sinh tồn của các loài sinh vật biển này đang bị đe dọa do ô nhiễm biển ở đây đã đến hồi báo động "đỏ".
Hơn 500 bè cá lồng thi nhau… xả thải
Chưa bao giờ, nghề nuôi cá lồng bè ở vùng biển Cát Bà lại rầm rộ như hiện nay. Với 531 bè cá, gồm hàng chục nghìn ô lồng nuôi mà phòng chức năng huyện đảo Cát Hải thống kê mới đây, chắc chắn chưa phải là con số cuối cùng. Bởi, hiện vẫn còn nhiều hộ gia đình, doanh nghiệp có ý định tiếp tục đầu tư, lắp đặt lồng bè mới để nuôi cá biển.
Một chủ hộ nuôi cá lồng bè lâu năm ở vùng biển này cho biết, khoảng năm 1998-2000, số lượng bè cá ở đây chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Nay, do nuôi cá lồng bè là nghề mới, lại đem hiệu quả kinh tế cao nên số hộ bung ra nuôi cá lồng bè ngày càng nhiều. Người nuôi cá lồng bè không chỉ thu lợi được từ việc nuôi cá, mà còn "lợi kép" do nuôi cá gắn với dịch vụ du lịch.
Đây là mô hình kinh tế được coi là năng động, phát huy được tiềm năng, lợi thế của địa phương. Hơn thế, nghề nuôi cá lồng bè ở vùng biển Cát Bà còn đóng góp khá lớn cho ngân sách huyện đảo.
Tuy nhiên, do thiếu quy hoạch, các doanh nghiệp, cá nhân đua nhau ra biển quây lồng nuôi cá, đã dẫn đến việc quản lý hết sức khó khăn, nhất là quản lý về môi trường. Mặc dù chưa có được số liệu quan trắc cụ thể, nhưng chỉ bằng cảm quan cũng thấy ô nhiễm môi trường biển ở đây đang diễn biến hết sức phức tạp.
Hãy hình dung, mỗi ngày người ta đã đưa xuống vịnh Bến Bèo một lượng thức ăn nuôi cá gồm hàng chục tấn các loại. Cá ăn không hết, thức ăn hoặc lọt qua lưới xuống đáy biển, hoặc trôi khắp khu vực biển gần đó.
Đã vậy, mỗi bè lại có một kiểu cho cá ăn riêng. Nghĩa là, các loại cá sống, cá chết đựơc băm nhỏ dùng làm thức ăn, rồi tinh bột, rau tươi… Tất cả vô tư… tống xuống hàng chục nghìn ô lồng, bất biết hậu họa.
Thực tế, năm 2007, nhiều hộ nuôi cá lồng bè ở vịnh Bến Bèo, do phương pháp cho cá ăn tuỳ hứng kiểu trên, đã phải trả giá, bởi nguồn nước ở vùng biển này bị ô nhiễm đã làm cá trong các lồng bè của họ chết hàng loạt. Có hộ trắng tay. Không ít hộ bị "dính" cá chết ở đây, đã liều di chuyển bè cá vào tận vịnh Lan Hạ (cũng thuộc Cát Bà). Và đến nay, vịnh Lan Hạ cũng đang có nguy cơ ô nhiễm cao như đã từng xảy ra ở Bến Bèo.
Cùng với đó, việc khai thác hải sản thiếu khoa học cũng như sự quá tải các phương tiện tàu thuyền hoạt động trong vùng biển cũng là những tác nhân khiến vùng biển Cát Bà không còn trong xanh, thơ mộng, hữu tình như xưa.
Ngư dân ở khu vực Bến Bèo cho hay, mùa sứa năm 2008 vừa qua, mỗi ngày có đến hàng trăm tàu thuyền ra vào cung ứng sứa nguyên liệu cho xưởng chế biến trên đảo. Đáng nói, quá trình sản xuất, xưởng chế biến sứa này đã thải toàn bộ lượng nước thải, bao gồm cả hóa chất, phèn chua muối sứa… xuống biển.
Nghiêm trọng hơn, trong khi chế biến, sứa chỉ được cắt lấy đầu, còn phần thân thì công nhân "tiện tay" quăng luôn xuống biển, khiến vùng biển Cát Bà, nhất là khu vực Bến Bèo nước chuyển màu đen đục, bốc mùi hôi rất khó chịu...
Cần sự can thiệp kịp thời để bảo vệ
Được biết năm 2007, trong khi chờ quy hoạch, huyện Cát Hải cũng đã thực hiện đánh số cho lồng bè để dễ quản lý, đồng thời hạn chế gia tăng bè nuôi cá lồng.
Song trên thực tế, việc quản lý vẫn gặp khó khăn do chưa có quy hoạch cụ thể vùng nuôi. Thậm chí, không thể kiểm soát nổi, đặc biệt về mặt môi trường do các chủ phương tiện thiếu ý thức, vô tư tống xuống biển mọi thứ rác thải, chất thải.
Đã đến lúc cần phải có sự can thiệp để chặn đứng tình trạng xả thải vô tư, gây ô nhiễm nghiêm trọng vùng biển Cát Bà. Thiết nghĩ, cơ quan chức năng TP Hải Phòng cần nhanh chóng quy hoạch thật cụ thể việc nuôi cá lồng bè ở khu vực này, siết chặt quản lý, giám sát chặt chẽ việc nuôi, khai thác hải sản cũng như tình trạng xả thải của các phương tiện tàu thuyền trong khu vực biển Cát Bà.
Ngoài ra, cùng với việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân, cần phải xử lý nghiêm những trường hợp là tác nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường biển tại đây, theo đúng tinh thần Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/7/2006

Lệ Thu

http://ca.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/phongsughichep/2008/8/131907.cand

4- Nước Thải Ô Nhiễm Đang Giết Hại Những Dòng Sông Ven Biển Vũng Tàu.

VNN

Nước Thải Ô Nhiễm Đang Giết Hại Những Dòng Sông Ven Biển Vũng Tàu.
Các dòng sông ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu đang bị ô nhiễm nặng bởi chất thải công nghiệp từ các nhà máy, cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp. Mỗi ngày, sông Thị Vải hứng chịu khoảng 33.000m3 nước thải từ nhà máy, xí nghiệp ở 11 khu công nghiệp của Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai xả thẳng xuống sông. Sông Thị Vải đã trở thành dòng sông chết. Và hiện nay, sông Dinh ở TP Vũng Tàu cũng đang hấp hối. Theo phản ánh của nhiều người nuôi bè hàu trên sông Dinh, đoạn thuộc phường 12, TP Vũng Tàu (gần cầu Cỏ May), từ chiều 2/1/2008, bắt đầu xuất hiện hiện tượng cá, tôm chết, và lượng cá, tôm chết đã tăng thêm rất nhiều trong những ngày gần đây. Ngư dân đánh bắt nhỏ đã dùng thuyền, ghe đi vớt cá, tôm chết trên sông. Anh Lê Văn Chiến, một người nuôi bè hàu cho hay: "Chiều 2/1, khi ra bè lấy hàu tôi đã thấy có cá chết.
Đến sáng 3/1, số lượng cá chết nổi trắng trên sông Dinh. Ngư dân đi vớt cá rất nhiều". Ngược dòng sông Dinh, gần khu vực cầu Cỏ May., người cũng đã bắt gặp cá, tôm bơi lờ đờ trên mặt nước, mặc dù nước sông Dinh đoạn này khá trong. Theo người dân địa phương, hiện tượng cá, tôm chết hàng loạt trên sông Dinh do nước sông quá ô nhiễm. Dọc theo sông Dinh đoạn ở phường 12 có gần 10 cơ sở, nhà máy chế biến hải sản có cống thoát nước "dẫn" thẳng ra sông Dinh. Quan sát một cống thoát nước thấy nước thải có màu đỏ, đậm đặc và rất hôi. Xung quanh khu vực nước thải chảy ra, nhiều mảng bọt vàng, nước lờ đục. Còn ở giữa sông Dinh, cách cầu Cỏ May chừng vài trăm mét, có rất nhiều mảng bọt vàng kết lại thành đám lớn như bọt biển. Sau khi xảy ra sự cố tôm, cá trên sông Dinh bị chết hàng loạt, ngày 4/1, cơ quan Môi trường BR-VT đã tiến hành lấy mẫu nước trên sông Dinh, sông Chà Và (Long Sơn, TP Vũng Tàu) để xét nghiệm một số chỉ tiêu mặt nước như: hàm lượng ô xy, hàm lượng hữu cơ, dầu mỡ... và phải một tuần sau mới có kết quả xét nghiệm.
http://72.14.235.104/search?q=cache:NuJeuU0jLmgJ:www.lenduong.net/spip.php%3Farticle19668+bi%E1%BB%83n+%C3%B4+nhi%E1%BB%85m&hl=en&ct=clnk&cd=27

 

5- Báo động ô nhiễm môi trường biển

Lao Động Điện tử Cập nhật: 4:31 PM, 05/06/2008


Thực trạng ô nhiễm môi trường biển từ hoạt động của các tàu, bến cảng đang diễn ra khá phổ biến ở khu vực Hải Phòng và nhiều nơi trong nước.
Với hàng chục nghìn lượt tàu thuyền ra vào cảng và phương tiện thủy nội địa hoạt động gia tăng trong khu vực, mỗi năm, chúng đã thải ra sông, biển hàng nghìn tấn chất thải sinh hoạt, nhiên liệu, cặn dầu, nước rửa tàu lẫn chất thải rắn, mạt kim loại, sơn và các chất tảy rửa trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, lượng rác do lực lượng bảo vệ môi trường trên biển thu gom đuợc trên thực tế không đáng kể.
Mỗi khi bốc dỡ xong hàng hoá, các chủ tàu thường thải các cặn bã, tạp chất sau khi tổ chức vệ sinh tàu ra mặt biển. Thực tế cho thấy, hầu hết các phương tiện thủy nội địa đều thiếu bộ phận thu gom chất thải cùng đội tàu biển trong nước già cỗi về thiết bị và ý thức chấp hành các quy định an toàn hàng hải, vệ sinh môi trường của các chủ phương tiện chưa cao nên thường gây ô nhiễm môi trường vùng nước.
Tại các cảng biển, nguồn rác thải phát sinh cũng rất đa dạng từ các tàu vào cập bến làm hàng đến công nhân bốc xếp trên bờ cùng hàng trăm loại hình hoạt động dịch vụ khác.
Đó là chưa kể không ít doanh nghiệp vì lợi nhuận còn nhập hàng nghìn tấn sắt thép phế thải từ nước ngoài về qua cảng, "tiếp tay" huỷ hoại môi trường.
Các cơ sở đóng và sửa chữa tàu biển với trang thiết bị kỹ thuật hạn chế, thiếu hệ thống xử lý chất thải đồng bộ nằm rải rác ven sông cũng là tác nhân gây ảnh hưởng môi trường không khí, mặt nước khu vực.
Được biết, qua các đợt kiểm tra, khảo sát, Bộ Tài nguyên - Môi trường và Cục Hàng hải Việt Nam đã kết luận về sáu nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển từ hoạt động của các tàu hàng và hai nguyên nhân từ cảng biển. Tuy nhiên, để thực hiên Luật Bảo vệ môi trường, ngoài việc mới ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa ô nhiễm môi trường liên quan đến hàng hải, hiện nước ta vẫn chưa hình thành hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường biển đối với từng lĩnh vực hoạt động như cảng biển, tàu hàng, sửa chữa, làm sạch tàu biển, tàu chở dầu,...
Đặc biệt, việc quy định chế tài xử lý các trường hợp gây ô nhiễm môi trường biển hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp cũng chưa được xác lập cụ thể, hoàn chỉnh. Vì thế, ngành hàng hải nước ta trên thực tế cũng chưa quản lý, kiểm soát có hiệu quả đối với các loại hình hoạt động dịch vụ tàu biển, bến cảng khiến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường biển ngày càng trầm trọng.
http://www.baovietnam.vn/xa-hoi/9568/18/Bao-dong-o-nhiem-moi-truong-bien

6- Ô nhiễm môi trường ở các vùng ven biển: Thực trạng đáng báo động

Ô nhiễm môi trường do nuôi tôm ở Đức Phong (Mộ đức).
Dọc miền biển tỉnh ta hiện nay đang diễn ra tình trạng ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng! Các bãi biển gần khu dân cư sinh sống ở các xã ven biển từ Bình Sơn đến Đức Phổ hầu như nơi nào cũng đầy những rác, người dân đang phải sống chung với rác, với ô nhiễm mà chính họ là một trong những đối tượng gây nên. Thực trạng này đã đến hồi báo động!

Biết là rác thải làm ô nhiễm môi trường sống và sẽ mang lại dịch bệnh, nhưng cư dân vùng ven biển trong tỉnh vẫn thản nhiên đem rác ra đổ xuống bãi biển mỗi ngày. Nhiều nơi người dân còn có thói quen xấu nữa là ra bãi biển phóng uế một cách vô tội vạ. Một số nơi đã được hỗ trợ các thiết bị thu gom rác để bảo vệ môi trường biển, nhưng thay vì đóng góp một phần kinh phí cho môi trường trong sạch, nhiều người vẫn đem rác thải ra đổ xuống bãi biển…

Từ "bài toán" rác thải sinh hoạt…
Cứ bãi biển nào nằm gần khu dân cư thì nơi ấy có tình trạng rác thải sinh hoạt tập trung dày đặc, gây ô nhiễm môi trường. Và những nơi ấy bãi biển đã biến thành bãi rác khổng lồ. Những "điểm nóng" về ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt có thể kể đến như bãi biển thôn Phước Thiện, xã Bình Hải; bãi biển thôn Định Tân, Châu Thuận và khu vực cầu Tân Đức, xã Bình Châu (Bình Sơn); vùng bãi biển Tịnh Kỳ (Sơn Tịnh); làng cá Nghĩa An (Tư Nghĩa); khu vực cửa biển Sa Huỳnh (Đức Phổ)... Đa phần các địa phương có bờ biển hoặc ở khu vực cuối sông, cửa biển là có tình trạng rác thải tập trung dày đặc. Môi trường ven biển đang bị "thả nổi" theo kiểu "cha chung không ai khóc". Đây cũng là "bài toán" nan giải đối với các cấp chính quyền và ngành chức năng trong tỉnh.

Mới đây có dịp về vùng biển Tịnh Kỳ (Sơn Tịnh), chúng tôi đã "mục sở thị" cái bãi rác "khổng lồ" nằm dọc bãi biển thuộc hai thôn An Kỳ và An Vĩnh. Tình trạng người dân đổ rác ra bãi biển tuy không còn như trước, nhưng rác ở đây thì có lẽ không thể nào hết được! Bởi trước đây khi địa phương chưa tổ chức thu gom, người dân đã đem rác ra bãi biển chôn lấp rất nhiều, nên bây giờ sau mỗi đợt triều cường, sóng biển tràn vào làm trốc lớp rác thải ấy lên và rác ở một số nơi khác cũng tấp về đây rất nhiều nên bãi biển luôn trong tình trạng đầy rác. Ngoài ra còn có tình trạng người dân ra bãi biển phóng uế, gây mất vệ sinh và ô nhiễm môi trường. Mặc dù các hộ dân nơi đây cam kết thực hiện theo quy chế hương ước nông thôn (hộ nào xả rác thải không đúng quy định thì sẽ bị xử phạt 50 ngàn đồng và nếu hộ nào thấy vi phạm mà không báo thì cũng bị xử phạt tội đồng loã như người vi phạm). Song đến nay thì quy chế này vẫn chưa được thực hiện…

…đến các nguồn ô nhiễm khác.
Bên cạnh rác thải sinh hoạt còn có một số "nguồn" gây ô nhiễm môi trường ven biển khác như chất thải nguyên liệu thừa cặn của các tàu cá sau khai thác (tập trung chủ yếu ở các bến cập tàu, cảng cá) và tình trạng ô nhiễm môi trường của việc nuôi tôm mang lại. Đó là nước thải, xác vỏ tôm, thức ăn thừa của tôm… đã làm biến dạng các tầng đất mặt xung quanh, gây xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường và tác động đến các rừng dương phòng hộ ven biển. Ngoài ra nước thải nuôi tôm được thải trực tiếp xuống biển đã làm cho nước biển ở một số khu vực biển gần bờ bị nhiễm bẩn…

Tình trạng này diễn ra nhiều nhất ở vùng nuôi tôm xã Đức Phong và một số vùng nuôi tôm trên cát thuộc hai huyện Mộ Đức, Đức Phổ. Ngoài ra còn có một nguồn ô nhiễm nữa là xác cá và một số phế thải từ hải sản do những đối tượng thiếu ý thức, sau khi "giải phẫu" và lấy đi phần giá trị để đem bán rồi vứt trực tiếp xuống biển. Đó là tình trạng sơ chế ốc xà cừ, cá nóc ở khu vực cảng Sa Kỳ và một số làng cá (diễn ra vào mùa nắng) mà các phương tiện thông tin đại chúng đã nhiều lần phản ánh.

Do đâu có tình trạng này? Trước hết có thể nói rằng các cấp chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã chưa quan tâm sâu sát mà còn quá thờ ơ với vấn đề môi trường, thứ hai là nhận thức về vệ sinh môi trường của nhân dân chưa cao. Một số nơi chưa thành lập tổ, đội thu gom và chưa có điểm tập kết rác, thành ra cư dân vẫn cứ vứt rác vô tội vạ miễn sao… "đừng ai nhìn thấy". Có nơi thành lập được tổ, đội thu gom rác nhưng lại "nuôi" không nổi, như ở xã Tịnh Kỳ (Sơn Tịnh), Đức Lợi (Mộ Đức). Tại Tịnh Kỳ có 3 xe thu gom rác hoạt động, nhưng số tiền thu trong dân không đủ chi, nên hàng tháng UBND xã bị "âm" kinh phí gần 10 triệu đồng. Còn ở xã Đức Lợi (Mộ Đức) thì có 2 đội thu gom rác, với 4 lao động làm việc, nhưng bình quân lương mỗi người chỉ được từ 450.000 đồng - 500.000 đồng/tháng. Do làm việc cực nhọc và độc hại, nhưng thu nhập quá thấp nên đến nay đã có hai người nghỉ việc, thành ra rác thải ở đây đang dần bị ứ đọng trở lại…

Giải quyết bằng cách nào?
Cách duy nhất để chấm dứt tình trạng vứt rác ra bãi biển một cách vô tội vạ hiện nay là các địa phương cần có một chế tài nghiêm khắc hơn. Đồng thời quy hoạch các khu đổ rác thải tập trung và thành lập các tổ, đội thu gom rác thải xử lý hiệu quả, lâu dài. Đầu tư kinh phí đúng mức cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường đến mọi người dân. Vấn nạn ô nhiễm môi trường ven biển hiện nay cần nhanh chóng được xử lý dứt điểm, nếu không mai này cả khu vực ven biển tỉnh ta sẽ trở nên ô nhiễm, dơ bẩn và cái giá phải trả không hề nhỏ.
P.D

http://www.quangngai.gov.vn/quangngai/tiengviet/bao_qn/2008/36700/

7- ĐÀ NẴNG: Đầu tư lớn, ô nhiễm vẫn trầm trọng

Tin đưa ngày: 15/07/2008

Nguồn nước thải chưa qua xử lý, bốc mùi hôi thối tại một điểm cống trên đường Nguyễn Tất Thành đổ ra bãi tắm ở biển Đà Nẵng. Ảnh: H.DŨNG
Đà Nẵng đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng cho hàng loạt dự án cải thiện môi trường. Nhưng nồng độ các chất độc hại trong nước và không khí tại các điểm quan trắc vẫn vượt từ 2-100 lần so với mức độ cho phép
Hàng loạt dự án môi trường lớn trên địa bàn TP Đà Nẵng, như Nhà máy Xử lý nước thải Khu Công nghiệp (KCN) Hòa Khánh, dự án bãi rác Khánh Sơn mới và dự án thoát nước vệ sinh TP, với tổng kinh phí đầu tư lên đến hàng trăm tỉ đồng nhằm cải thiện môi trường, nhưng hiệu quả đem lại không như mong đợi.
Ảnh hưởng cuộc sống người dân
Dự án bãi rác Khánh Sơn mới được đánh giá là bãi xử lý rác thải tiên tiến, hiện đại nhất Việt Nam, được áp dụng công nghệ cao, có tổng mức đầu tư gần 3 triệu USD, trên diện tích hơn 50 ha. Thế nhưng, từ khi đưa vào sử dụng đến nay, bãi rác vẫn chưa phát huy được vai trò của mình. Tình trạng ô nhiễm vẫn tiếp tục phát sinh do các hạng mục công trình xử lý môi trường không bảo đảm. Mùi hôi thối lan tỏa trên không gian rộng, ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân. Nghiêm trọng hơn, khi hệ thống xử lý nước rỉ rác, bể phốt (chỉ có hồ kỵ khí, hồ tùy nghi) khiến nước thải sau xử lý đều vượt cột C tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5945:2005) với hàm lượng COD vượt 11 lần, BOD vượt 15,8 lần.
Một dự án khác, tác động không nhỏ đến đời sống người dân là dự án thoát nước vệ sinh TP Đà Nẵng. Dự án được hy vọng là giải quyết những vấn đề về vệ sinh môi trường tại trung tâm TP, với tổng vốn đầu tư trên 200 tỉ đồng. Song từ khi đưa vào vận hành, nhiều sự cố xảy ra như sụt lún các tuyến ống HDPE, phát sinh mùi hôi thối tại các cửa cống. Đặc biệt là hệ thống bơm nước thải tự động dọc các tuyến đường ven biển hoạt động chưa đồng bộ, một lượng lớn nước thải sinh hoạt ô nhiễm, hôi thối chưa được xử lý đổ vô tội vạ ra bãi biển quyến rũ nhất hành tinh, khiến cho du khách phải tắm nước bẩn.
Dự án Nhà máy Xử lý nước thải KCN Hòa Khánh được đầu tư hơn 20 tỉ đồng và được đưa vào sử dụng từ năm 2005. Nhưng cho đến nay, dự án này vẫn chưa phát huy tác dụng, hoạt động cầm chừng nên tình trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên ở khu vực này ngày càng xấu đi. Mỗi ngày ở khu vực này có gần 3.000 m3 nước thải ô nhiễm có hàm lượng hữu cơ, vi sinh vật và kim loại nặng cao gấp 2-10 lần so với mức cho phép đổ.
Bảy điểm nóng về ô nhiễm môi trường
Theo báo cáo mới nhất của Sở Tài nguyên - Môi trường TP Đà Nẵng, tính đến thời điểm này, TP Đà Nẵng vẫn tồn tại 7 điểm ô nhiễm cần quan tâm xử lý. Trong đó, tình hình ô nhiễm nước thải tại các sông Cu Đê, Phú Lộc, âu thuyền Thọ Quang, hồ Đầm Rong, quanh KCN Hòa Khánh, bãi tắm Mỹ Khê... đang ngày càng trở nên trầm trọng. Mức độ ô nhiễm nồng độ cao gấp 30 lần cho phép đối với môi trường nước, đất và vượt hơn 65.000 lần đối với môi trường không khí. Theo kết quả quan trắc của Sở Tài nguyên - Môi trường TP Đà Nẵng, chất lượng nước thải tại các KCN Hòa Khánh, Liên Chiểu, Thọ Quang đều vượt mức cho phép gấp nhiều lần; nồng độ các chất độc hại trong không khí tại các cơ sở sản xuất công nghiệp rất nghiêm trọng với mức độ cao hơn từ 2-100 lần, cụ thể CO vượt từ 67-100 lần, hơi chì, NOx vượt 2 đến 6 lần, kết quả phân tích các thông số bụi kim loại khác cũng rất cao: kẽm 7,91 mg/m3, đồng là 0,03 mg/m3, sắt 0,05 mg/m3.
Giám sát chặt chẽ việc vận hành các dự án
Theo ông Lê Trần Nguyên Hân, Trưởng Phòng Quản lý Môi trường, Sở Tài nguyên – Môi trường TP Đà Nẵng, việc tồn tại 7 điểm nóng về môi trường là hệ quả của các dự án được đầu tư chưa đồng bộ, việc quản lý và vận hành các dự án về môi trường chưa hiệu quả. Để giải quyết những điểm nóng trên, trước hết là phải xây dựng hoàn chỉnh các hạng mục công trình như:
Hệ thống cống dẫn nước thải, đấu nối nước thải tại KCN Hòa Khánh; thu gom, xử lý nước thải tại bãi rác Khánh Sơn cũ; đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu xử lý nước thải tại KCN Thủy sản Thọ Quang... Đối với hệ thống cống dẫn nước thải tại bãi biển, dự án thoát nước vệ sinh TP nói chung, cần đánh giá lại cụ thể nhằm đưa ra biện pháp giải quyết tổng thể, tránh phát sinh ô nhiễm như thời gian vừa qua... Tuy nhiên, đó chỉ mới là giải pháp tình thế. Biện pháp lâu dài vẫn là cơ chế phối hợp quản lý giữa các cơ quan chức năng đối với các đơn vị hoạt động, giám sát chặt chẽ chất lượng vận hành. của các dự án môi trường.
Hoàng Dũng- Trung Lân

http://www.vietnamforumcsr.net/default.aspx?portalid=1&tabid=359&itemid=2410

8- Môi trường biển - Hải Phòng báo động về tình trạng ô nhiễm

(Biển Việt Nam, 7/2004, tr.47-48)
Hải Phòng là thành phố Cảng biển lớn đồng thời là cửa ngõ ra biển của thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Với tổng cộng diện tích hơn 5.000 km2 trong đó chỉ có 1.507 km2 đất nổi. Bờ biển Hải Phòng dài trên 132 km, có cảng quốc tế lớn với công suất hàng năm đạt trên 15 triệu tấn. Hải Phòng có 2 huyện đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ rất thuận tiện cho du lịch biển và dịch vụ nghề cá phát triển trong đó Đồ Sơn và Cát Bà là hai trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, hàng năm thu hút hàng vạn khách du lịch trong nước và quốc tế.
Về mặt môi trường, thiên nhiên ưu đãi cho Hải Phòng nhiều lợi thế. Hệ sinh thái đa dạng, tài nguyên biển phong phú, nhiều bãi cát nổi tiếng như Bạch Long Vĩ, các rạn cát san hô đẹp quanh đảo Cát Bà là vườn quốc gia trên biển nổi tiếng. Nơi đây có tới 745 loài thực vật bậc cao thuộc 495 chi và 149 họ. Động vật trong vườn quốc gia cũng hết sức đa dạng, nhiều loài thú quý hiếm nằm trong Sách Đỏ Việt Nam, đặc biệt là loài voọc đầu trắng một loài thú quý hiếm của thế giới chỉ có ở Vườn Quốc gia Cát Bà.
Tuy nhiên, môi trường của vùng ven biển Hải Phòng đang có những báo động về ô nhiễm. Theo kết quả phân tích, điều tra khảo sát gần đây nhất của cơ quan nghiên cứu về môi trường thì biển ven bờ thuộc vùng biển Hải Phòng, đặc biệt là khu vực cửa sông có cảng, đang bị ô nhiễm.
Sự ô nhiễm trước tiên phải kể đến là ô nhiễm dầu. Đa số các mẫu phân tích đều cho thấy hàm lượng dầu trong nước vùng biển ven bờ Hải Phòng có xu hướng tăng cao trong các khu vực cửa sông, gần khu vực cảng, bến đỗ tàu thuyền. Có trường hợp dầu lan vào các khu đầm nuôi trồng thuỷ sản bám vào lá sú vẹt và ngấm vào trầm tích mặt đáy. Hệ số ô nhiễm dầu trong trầm tích tăng từ 0,4 (năm 1995) lên 2,4 (năm 2000). Dự báo tình trạng phát triển giao thông thuỷ, công nghiệp và do các phương tiện tài thuyền đánh cá lậc hậu... Chưa kể Hải Phòng còn tiềm ẩn nhiều sự cố về tràn dầu.
Ô nhiễm đục nước đứng thứ hai sau ô nhiễm dầu. Gần đây ảnh hưởng đục của nước ven bờ Hải Phòng tăng lên rõ ở khu vực bãi tắm Đồ Sơn và Đông Nam Cát Bà. Đó là kết quả của nạn phá rừng đầu nguồn và xói lở ở ven biển. Chỉ tính riêng sông Cấm từ 1960 đến 1992, lưu lượng nước tăng từ 1 km3/năm lên 12,9 km3/năm và hàm lượng phù sa tăng từ 20 g/m3 lên 340 g/m3. Đục không những làm bẩn nước, thiệt hại tới du lịch, mà còn làm chết san hô, giảm năng suất sơ cấp thực vật nổi do hạn chế quang hợp.
Ngoài ra độ ôxy hoà tan (DO) của vùng biển Hải Phòng thấp, trung bình khoảng 3,3 đến 10,9 mg/l vào mùa khô và khoảng 0,1 đến 6,1 mg/l vào mùa lũ. Nhu cầu ôxy hoá sinh học (BOD) khá cao (13,6 đến 31 mg/l), chỉ số vi trùng học (colifom) qua khảo sát đều thấy vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nguyên nhân là do chất thải công nghiệp, đô thị, các khu dân cư và những hoạt động trên biển gây ra. Nhiều nhà máy cơ sở sản xuất, khách sạn... có nước thải không được xử lý đều đổ thẳng vào sông, biển. Nhiều rác thải rắn từ các hoạt động tàu thuyền và dân cư ven biển cũng không được thu gom và thường được đổ ra sông, biển ven bờ.
Ô nhiễm môi trường biển của Hải Phòng đã và sẽ tiếp tục tác động xấu đến các hoạt động của cảng, giao thông đường thuỷ, do lượng bồi lắng cộng với xói lở biển gây ra, ảnh hưởng trực tiếp đến ngành nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, du lịch biển cũng như cuộc sống của ngư dân và dân cư vùng ven biển. Nếu không chú ý và có những biên pháp bảo vệ môi trường biển Hải Phòng sẽ mất lợi thế về biển. Đồng thời cộng với những biến đổi khí hậu toàn cầu, Hải Phòng sẽ còn phải đương đầu với những cơn bão lớn, mực nước dâng cao và sóng biển dữ dội. Tất cả những vấn đề đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội, đến cuộc sống của nhân dân Hải Phòng. Theo các nhà quản lý và nghiên cứu môi trường thì để bảo vệ môi trường Hải Phòng, giải pháp trước tiên là phải tạo ra được một sự chuyển biến mạnh mẽ và nhận thức, coi trọng sự nghiệp bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi trường biển nói riêng là sự nghiệp của mọi người và của cả cộng đồng. Từ đó, xây dựng thói quen nếp sống văn minh, tự giác chấp hành quy chế bảo vệ môi trường biển.
Thứ hai, mọi chương trình, mọi đề án phát triển kinh tế biển , vùng ven biển đều phải được giải quyết hài hoà, thoả đáng, cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường biển, nhằm phát triển bền vững. Muốn vậy tất cả các công trình xây dựng phục vụ dân sinh kinh tế, quốc phòng, các hoạt động phục vụ dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí ven biển, trên biển đều phải tự xây dựng hệ thống xử lý chất thải. Nước thải các loại chỉ được thải ra biển khi đã được xử lý và đạt tiêu chuẩn cho phép. Cùng với đó, phải kiểm soát các hoạt động gây ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên. Có kế hoạch khai thác bãi triều, rừng ven biển. Đưa diện tích rừng ven biển của Hải Phòng từ 2.253 ha như hiện nay lên 8.252 ha vào năm 2010 như trong quy hoạch.
Thứ ba, từ Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy định khác, thành phố cần rà soát, nghiên cứu xây dựng và ban hành cụ thể, chi tiết quy chế bảo vệ môi trường biển, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho việc quản lý, bảo vệ môi trường.
Hoàng Nguyên
http://www.nea.gov.vn/thongtinmt/noidung/tcb_so7_04.htm
 

9- Nguy cơ ô nhiễm vịnh Nha Trang

Báo cáo của Ban Pháp chế, HĐND tỉnh Khánh Hòa cho biết: Môi trường và hệ sinh thái vịnh Nha Trang chưa được đảm bảo phát triển bền vững, có khu vực đang bị ô nhiễm, đe dọa ô nhiễm, suy thoái. Cụ thể: Hầu hết tàu du lịch, thuyền đánh cá xả trực tiếp ra vịnh rác, phân, nước hút khô hầm tàu... Khoảng 7.000 lồng, bè nuôi hải sản đã thải ra vịnh thức ăn thừa của tôm, cá, ảnh hưởng đến sự phát triển của san hô và môi trường biển. Mỗi ngày, hơn 5.000 người sống trên các đảo, lồng bè nuôi đã thải ra khoảng 10 tấn rác sinh hoạt và hầu như không được thu gom, xử lý. Hằng ngày, nước từ sông Cái, sông Tắc, cống thoát (ở các đường Dã Tượng, Trần Phú, Đặng Tất, Đoàn Trần Nghiệp) với nhiều chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, nông nghiệp và chế biến thủy sản chưa được xử lý đổ trực tiếp ra vịnh Nha Trang. Thời gian qua, một số dự án lớn được triển khai thi công trong khu vực vịnh Nha Trang nhưng chưa lập thẩm định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường...

Liên quan đến việc bảo vệ môi trường vịnh Nha Trang, một quan chức tỉnh Khánh Hòa băn khoăn về vị trí xây dựng công trình cơ sở hạ tầng khu dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Hòn Ông, có quy mô 39 ha, nằm bên bờ sông Tắc, thuộc xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang, được thi công vào cuối năm 2006. Sau khi hoàn thành, công trình này sẽ tiếp nhận khoảng 20 đơn vị chế biến hàng thủy sản xuất khẩu với công nghệ hiện đại. Nước thải chế biến thủy sản nếu không được xử lý tốt sẽ gây ô nhiễm sông Tắc và vịnh Nha Trang cách đó không xa, ảnh hưởng đến nhiều khu du lịch ven biển. Nên chăng, chuyển khu chế biến thủy sản này đến nơi khác?

Sở Thủy sản Khánh Hòa cho biết: Chủ đầu tư công trình trên đang lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Theo đó, nguồn nước thải trong quá trình chế biến sẽ được xử lý tập trung, đạt tiêu chuẩn loại A mới được phép xả ra sông Tắc. Vị trí xây dựng khu chế biến thủy sản này thuận lợi cho doanh nghiệp, vì đội ngũ quản lý và nguồn nhân lực có tay nghề cao phần lớn ở Nha Trang; nơi thu mua nguyên liệu cách khu vực chế biến khoảng vài cây số. Chuyển cơ sở chế biến này đến huyện Vạn Ninh hoặc thị xã Cam Ranh sẽ khiến doanh nghiệp mất đi nhiều lợi thế cạnh tranh...

Thực tế, đã có nhiều cơ sở chế biến thủy sản ở Nha Trang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì vậy, việc người dân lo lắng khu chế biến thủy sản nêu trên khi đi vào hoạt động sẽ đe dọa môi trường sông Tắc và vịnh Nha Trang là có cơ sở.
Xuân Hòa (Theo Thanh Niên Online)

http://www.khachsanexpress.com/customer/newsview.aspx?nid=388&cid=3
.

10- BÁO ĐỘNG ĐỎ VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN

Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 330.000km2 và một vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng trên 1.000.000km2. Khu vực bờ biển, cũng như các đảo có vị trí địa lý rất trọng yếu đối với phát triển kinh tế và an ninh, quốc phòng. Trên biển có trên 3.000 đảo lớn nhỏ, hai quần đảo là Trường Sa và Hoàng Sa. Các đảo và quần đảo là điểm tựa vững chắc cho bố trí thế trận phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển. Nhiều đảo có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế đảo và dịch vụ cho các hoạt động khai thác biển xa. Bờ biển nước ta kéo dài trên 3.260km, đây là những tiền đề cho phép hoạch định một chiến lược biển, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển. Biển thực sự là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, là di sản thiên nhiên của dân tộc, là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho người dân Việt Nam hôm nay và mai sau. Tuy nhiên thực trạng về ô nhiễm môi trường (ONMT) biển đang là vấn đề báo động đỏ. Có thể nêu lên một số vấn đề chính như sau:
1. Du lịch tràn lan - Nuôi trồng thuỷ sản bất hợp lý
Theo điều tra của Viện Hải Dương học, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng ONMT ven biển là hiện tượng nuôi thuỷ sản tràn lan, không có quy hoạch. Tại các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, trên 37.000ha đã được khai thác đưa vào nuôi trồng thuỷ sản (chiếm 30-35% diện tích nước mặn lợ). Trước đây, người dân thường chỉ nuôi quảng canh, ít sử dụng thức ăn và hoá chất độc hại. Gần đây, phần lớn cơ sở đã đi vào nuôi trên quy mô công nghiệp dẫn tới các nơi cư trú sinh vật, bãi đẻ, bãi giống bị huỷ diệt, dịch bệnh xuất hiện tràn lan... Hơn nữa, tình trạng ONMT còn do các địa phương khai thác, sử dụng không hợp lý các vùng đất cát ven biển dẫn tới việc thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ biển với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Việc khai thác bằng đánh mìn, sử dụng hoá chất độc hại làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn lợi thuỷ sản và gây hậu quả nặng nề cho các vùng sinh thái biển. Các hoạt động du lịch có ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên của biển. Điển hình là Vườn quốc gia Cát Bà với 5.400ha mặt nước, được coi là khu bảo tồn biển đầu tiên của Việt Nam với nhiều khu dự trữ tài nguyên sinh thái biển lớn. Nhưng từ một hòn đảo khá đẹp và trong lành, Cát Bà đã bị biến thành một hòn đảo “tạp” kể từ khi được đưa vào khai thác du lịch và nuôi trồng thủy sản. Những khu du lịch, những khu nuôi cá lồng bè, khu đánh bắt cá... tất cả đều được quy hoạch “bám” ra mặt biển. Theo thống kê, mỗi ngày có hàng nghìn tấn rác được đổ trực tiếp ra biển. Còn tại TP du lịch Hạ long (Quảng Ninh), tình trạng ô nhiễm mặt nước ven biển xảy ra ngày càng nghiêm trọng bởi các làng chài trên biển. Chỉ tính riêng tại Vịnh Hạ Long hiện có tới hàng chục làng chài lớn nhỏ đang “tọa lạc” trên biển. Tại các làng chài thải toàn bộ rác sinh hoạt xuống mặt biển chưa qua xử lý, rất khó thu gom, dẫn tới một số xuồng lạch đã xảy ra hiện tượng tắc dòng chảy vì rác. Ngoài ra, diện tích nuôi trồng thủy sản ở Quảng Ninh hiện đã lên trên 15.000ha/năm, phần lớn là những khu nuôi quảng canh nên nước thải đều đổ trực tiếp ra biển.
2. Dân số tăng và nghèo khó
Biển và vùng bờ là nơi giàu có và đa dạng các loại hình tài nguyên, cũng như chứa đựng tiềm năng phát triển kinh tế đa dạng. Bởi vậy, đây cũng là nơi tập trung sôi động các hoạt động phát triển của con người: trên 50% số đô thị lớn, gần 60% dân số tính theo đơn vị cấp tỉnh, phần lớn các khu công nghiệp và khu chế xuất, các vùng nuôi thủy sản, các hoạt động cảng biển - hàng hải và du lịch sẽ được xây dựng ở đây đến năm 2010. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng này cũng thường cao hơn trung bình cả nước Đi kèm các hoạt động trên là sự gia tăng di dân tự do, tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hình thành thói quen tiêu thụ tài nguyên lãng phí. Kết quả đã gây sức ép rất lớn đến môi trường đô thị, khu dân cư ven biển, làm suy giảm và suy thoái tài nguyên biển và vùng ven bờ. Trong khi vùng biển gần bờ nước ta hầu như còn rất ít tôm cá, thì cuộc sống của khoảng 600.000 ngư dân và gia đình họ vẫn cần có cá hàng ngày và bản năng tồn tại vẫn buộc họ phải khai thác nhiều cá tôm hơn. Người ngư dân nghèo gác thuyền, bỏ nghề đánh bắt ven bờ trong lúc chưa có sinh kế thay thế, cho nên đại bộ phận vẫn nghèo khó và cuối cùng cũng phải quay về vùng biển xưa, phải tăng cường khai thác cạn kiệt nguồn lợi để hy vọng tăng thêm thu nhập cho gia đình mình. Kết cục họ đã rơi vào một vòng luẩn quẩn: nhu cầu sinh kế - khai thác quá mức - cạn kiệt nguồn lợi - nghèo khó (Hình – 1).
3.Lối sống giản đơn và dân trí thấp
Khác với trong đất liền, cơ cấu dân cư ven biển từ nhiều nguồn, họ đến từ tứ xứ, thậm chí có một bộ phận dân cư ngoài đất Việt. Họ vốn là những người nghèo, chấp nhận xa quê đến vùng ven biển hoặc các đảo nước ta tìm kế sinh nhai. Họ tụ tập thành các "vạn chài", đối mặt hàng ngày với tính khốc liệt của biển cả, sống với sóng nước và cột chặt cuộc đời với con thuyền, nên tư duy người vạn chài hết sức giản đơn, xem sản vật bắt được là sự ban tặng của biển trời. Cứ thế, khái niệm bảo vệ nguồn lợi và môi trường biển dường như vẫn còn xa vời với họ. Tập quán và phong tục sống của cư dân ven biển nói chung và ngư dân nói riêng đến nay còn lạc hậu, học vấn thấp do không có điều kiện học tập. Cũng vì thế mà nhận thức về môi trường và tài nguyên biển của đại bộ phận dân cư ở đây vẫn còn thấp kém. Hành vi và cách ứng xử của họ với các hoạt động bảo vệ môi trường và tài nguyên rất hạn chế, chưa thành thói quen tự giác. Thực tế quản lý cho thấy, không thay đổi nhận thức của người dân, không cải thiện sinh kế cho họ, không lôi cuốn được họ tham gia vào quá trình quản lý, thì tài nguyên và môi trường biển tiếp tục bị khai thác huỷ diệt. Do vậy, quản lý môi trường và tài nguyên biển, không phải là quản lý tập trung vào "con cá, con tôm" mà là quản lý hành vi của con người và điều chỉnh các hành động phát triển của chính con người!
4. Thể chế và chính sách còn bất cập
Biển và vùng bờ biển nước ta là nơi tập trung các hoạt động kinh tế khác nhau và vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Theo cách quản lý này, các ngành thường chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, các mục tiêu xã hội và môi trường ít được ưu tiên, đồng thời chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình ít chú ý đến lợi ích ngành khác. Kết quả là tính toàn vẹn và tính liên kết của các hệ thống tự nhiên vùng bờ nói trên bị chia cắt, mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng tài nguyên vùng này ngày càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của các hoạt động phát triển ở đây. Liên quan đến quản lý biển và vùng bờ có nhiều cơ quan quản lý khác nhau, nhưng vẫn còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, trong khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ không ai có trách nhiệm giải quyết. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển, đặc biệt ở vùng ven bờ. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình quản lý hoàn toàn thụ động và không thường xuyên, do còn thiếu các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của họ một cách cụ thể. Cộng đồng địa phương vừa là người hưởng thụ tài nguyên, vừa là một trong những chủ thể quản lý, có kiến thức bản địa, hiểu được nguyện vọng và công việc của chính họ. Lôi cuốn cộng đồng địa phương vào quản lý tài nguyên biển chính là góp phần thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ về tăng cường dân chủ ở cơ sở và nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Lấy từ « http://www.thuvienkhoahoc.com/tusach/Bi%E1%BB%83n_Vi%E1%BB%87t_Nam_%C4%91%E1%BB%A9ng_tr%C6%B0%E1%BB%9Bc_nguy_c%C6%A1_b%E1%BB%8B_%C3%B4_nhi%E1%BB%85m_nh%C6%B0_th%E1%BA%BF_n%C3%A0o%3F »
 

11- Nhiều bãi biển du lịch đang ô nhiễm ở mức báo động

Biển Đồ Sơn trong tương lai liệu còn những buổi bình minh như thế này? (Ảnh: sonnt/vnphoto.net)

Theo đánh giá của Tổng cục du lịch Việt Nam, cùng với số lượng du khách đang tăng nhanh, môi trường du lịch ở Việt Nam trong vài năm trở lại đây đang ô nhiễm ở mức báo động. Đặc biệt tại các khu du lịch bãi biển như: bãi biển Long Hải (Vũng Tàu), xóm Cồn (Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà), bãi biển Đồ Sơn (Hải Phòng)….

Tình trạng dễ nhận thấy nhất là thói quen vứt, xả rác bừa bãi tại các bãi biển, các điểm tham quan khiến điểm du lịch nào thu hút đông khách thì nơi đó ô nhiễm môi trường tăng nhanh.

Theo đánh giá của Viện Kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản: Các chất thải chưa qua xử lý ra lưu vực sông và biển nước ta ngày càng nhiều, kéo theo việc gây ô nhiễm môi trường biển ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của du lịch, nhất là mảng du lịch biển đang chiếm tới 80% lượt khách đến Việt Nam hiện nay.

Uớc tính, đến năm 2020, lượng chất thải tăng nhanh ở vùng ven bờ với nitơ tổng số từ 26 tấn đến 52 tấn/ngày, tổng lượng amonia từ 15 tấn đến 30 tấn/ngày… Vài năm gần đây, tại vùng biển Nam Trung Bộ, đặc biệt là Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận xuất hiện hiện tượng “mùa bột báng” (tình trạng ven bờ nhầy nhụa bột báng màu xám đen dày cả gang tay, trộn với xác chết của sinh vật gây ô nhiễm nghiêm trọng, nước biển đặc quánh như cháo).

Trong đề án phát triển du lịch đến năm 2010, Tổng cục du lịch đã đặt mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển du lịch bền vững. Đã có một số địa phương như Đà Nẵng, Đà Lạt, Bình Thuận… phát động những đợt ra quân làm sạch môi trường du lịch.

Tuy nhiên, để du lịch phát triển bền vững, việc bảo vệ môi trường du lịch không chỉ đơn thuần của chính quyền địa phương, công ty du lịch mà cả ý thức của du khách lẫn người dân sở tại.



Theo Bộ TN&MT, 17/12/2007

http://www.thiennhien.net/news/139/ARTICLE/3933/2007-12-18.html
 

12-Vịnh Nha Trang trên đà... ô nhiễm!

Cập nhật lúc 10/21/2008 2:14:34 PM

Dòng nước đen trong TP ngày đêm chảy ra bãi tắm phía Hòn Chồng.
Tất cả các công trình xây dựng trên đảo, ven bờ đều bạt núi, lấp biển; đó là chưa kể mỗi ngày danh thắng vịnh Nha Trang phải hứng chịu khoảng 10 tấn rác thải cộng với hàng ngàn m3 nước thải tấn công.
Một nghiên cứu mới đây của Viện Hải dương học Nha Trang cảnh báo: "Rất có thể 30 năm nữa, vịnh Nha Trang sẽ không còn san hô sống!".
San lấp vô tội vạ!
Vịnh Nha Trang có tổng diện tích tự nhiên xấp xỉ 250km2. Thời điểm này, chính quyền địa phương cũng như các cơ quan quản lý tài nguyên môi trường và cả Ban quản lý khu bảo tồn biển (KBTB) vịnh Nha Trang đều chưa kiểm tra, thống kê chính xác có bao nhiêu diện tích mặt nước đã biến mất trong vòng 5 năm trở lại đây, do các chủ đầu tư đua nhau bạt núi, lấp biển để mở rộng diện tích xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp... Mỗi dự án có quy mô từ vài chục đến vài trăm, thậm chí hơn 500ha, kể cả mặt đất và mặt nước.
Để thực hiện việc mở rộng 1ha mặt đất, chủ đầu tư đã đổ xuống mặt biển hàng vạn mét khối đất đá, thậm chí phải khoan cọc nhồi bêtông hoá đáy biển, xây bờ kè, cầu cảng...
Ban quản lý KBTB vịnh Nha Trang cho biết, khoảng hơn 20ha rừng ngập mặn, cỏ biển, san hô... xung quanh đảo Hòn Tre đã và đang bị các nhà đầu tư chôn vùi không thương tiếc. Một nghiên cứu mới đây của Viện Hải dương học Nha Trang đã cảnh báo: "Khối trầm tích xuất hiện trong vịnh Nha Trang theo chiều hướng gia tăng, độ che phủ san hô sống giảm từ 52,4% (năm 1994) xuống chỉ còn 21,2% (năm 2005); với đà này, rất có thể 30 năm nữa vịnh Nha Trang sẽ không còn san hô sống".
Vấn đề nghiêm trọng là ở chỗ, phần lớn chủ đầu tư các dự án du lịch đều "quên" lập dự án đánh giá tác động môi trường trước khi khởi công xây dựng! Và, Ban quản lý KBTB vịnh Nha Trang chưa được chính quyền địa phương cho phép thực thi chức năng, nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, ngăn chặn việc san lấp mặt vịnh.
Rác thải, nước thải... tấn công!
Diện tích khu vực nội ô TP.Nha Trang xấp xỉ 35,764km2, dân số dao động trong khoảng 275.000 người, cộng thêm khoảng 5.000 cư dân sinh sống trên các đảo; đó là chưa kể mỗi năm đón khoảng 1,2 triệu lượt khách du lịch lưu trú và nhiều triệu lượt khách vãng lai. Theo thống kê của Ban quản lý KBTB vịnh Nha Trang, mỗi ngày có khoảng 10 tấn rác thải du lịch, cộng với rác thải sinh hoạt của dân cư trên 6 khóm đảo đổ xuống biển; ngoài ra, còn không biết cơ man nào thức ăn thừa của hàng ngàn lồng, bè nuôi hải sản và chất thải từ vô số nhà vệ sinh không có hầm chứa trên mặt nước. Vùng lõi Hòn Mun là khu vực cần bảo vệ nghiêm ngặt, tuy nhiên mùa du lịch cao điểm, mỗi ngày có khoảng 40 tàu thuyền du lịch cùng với 500-600 khách qua lại, lặn ngắm san hô và tắm biển.
Công ty cấp thoát nước Khánh Hoà cho biết, toàn TP.Nha Trang chỉ có 55,54km cống nước ngầm thoát mưa. Chiều dài hệ thống cống thoát nước mưa chỉ bằng 1/3 tổng chiều dài đường phố, vậy nên Nha Trang áp sát biển mà hễ mưa là ngập. Theo thiết kế, tất cả các tuyến cống chính ở khu vực trung tâm đều chạy theo hướng bắc-nam, xả xuống sông Cái và sông Quán Trường. Riêng khu dân cư phía bắc sông Cái và phía nam sân bay Nha Trang, chủ yếu lắp đặt cống theo hướng đông-tây, xả thẳng ra biển hoặc ruộng đồng.
Dự án cải tạo điều kiện vệ sinh môi trường TP.Nha trang đang triển khai thi công, dự kiến đến năm 2014 mới hoàn thành, điều đó nghĩa là trong vòng gần 1 thập niên tới, vịnh Nha Trang vẫn trên đà... ô nhiễm nặng!
Bảo Chân
Theo laodong


http://www.gogreen.com.vn/home.asp?gogreen=news_detail&id=233

13- Nước thải ô nhiễm huỷ hoại biển

Nước thải ô nhiễm huỷ hoại biển
May 9th, 2008

Thực trạng ô nhiễm tại bãi tắm biển Mỹ Khê, Đà Nẵng.

Biển Đà Nẵng nổi tiếng cát trắng, nước trong, được đánh giá là một trong những bãi biển đẹp trên thế giới. Nhưng các bãi biển Mỹ Khê, Sao Biển... đang ô nhiễm nghiêm trọng bởi nước thải sinh hoạt.

Chưa phải là mùa cao điểm nắng nóng, song các bãi biển Đà Nẵng đã có sức hút 5-7 ngàn người mỗi ngày. Đặc biệt dịp lễ hội, con số này xấp xỉ 10.000 người.
Trên bãi cát trắng phau tại Mỹ Khê giờ hằn lên những vũng nước đen ngòm lẫn đủ thứ rác rưởi, bốc mùi hôi thối nồng nặc. Người tắm biển tất nhiên là giã từ bãi tắm đẹp và an toàn nhất TP, khách lưu trú tại các khách sạn ven đường Sơn Trà - Điện Ngọc cũng trả phòng để tìm nơi khác. Hàng loạt nhà hàng trong khu vực phải ngừng phục vụ...
Trước thực trạng đó, người dân, doanh nghiệp đã liên tục "dội" những lời kêu cứu lên lãnh đạo UBND TP. Ngày 5.5, Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng, ông Trần Văn Minh đã phải đích thân thị sát tình hình ô nhiễm tại các bãi biển Mỹ Khê, Sao Biển và chỉ đạo GĐ Sở Tài nguyên - Môi trường chọn ngay đơn vị tư vấn có uy tín để đánh giá toàn bộ thực trạng và đề xuất phương án xử lý.
Ngay sau đó, lãnh đạo Sở Tài nguyên - Môi trường Đà Nẵng đã mời Cty cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng Đà Nẵng vào cuộc. Ngày 7.5, Cty này đã tiến hành khảo sát thực trạng ô nhiễm tại các bãi biển. Tuy vậy, việc xử lý cũng dứt điểm tình trạng ô nhiễm này phải có thời gian và tốn khá nhiều kinh phí.
Cũng xin nhắc lại, thực trạng này đã xảy ra ở mùa lễ hội "Đà Nẵng biển gọi 2007", song cách xử lý lúc đấy là đào cát, lấp liếm tạm bợ cho qua những ngày lễ hội, sau đó thực trạng ô nhiễm tái diễn.
Điều đáng nói, trạm bơm thu gom nước thải, các hố nước thải, miệng cống đổ nước ô nhiễm nghiêm trọng trực tiếp ra biển này là những hạng mục thuộc dự án "thoát nước và vệ sinh môi trường".
LĐ đã có loạt bài "vấn nạn thoát nước ở Đà Nẵng" phản ánh dự án đầy tai tiếng, có tổng vốn đầu tư hơn 41 triệu USD này. Dự án triển khai từ năm 2002 - 2006, được xem là cú đột phá, cải thiện cơ bản vấn đề thu gom, xử lý rác, nước thải sinh hoạt ở Đà Nẵng đạt chuẩn Châu Âu.
Tuy vậy, sau thời gian ngắn đưa vào sử dụng, dự án chưa kịp phát huy hiệu quả đã bộc lộ nhiều biểu hiện thi công kém chất lượng. Đặc biệt là các sự cố nghiêm trọng như bể đường ống nhựa trên đường 2.9 vào tháng 4.2006, vỡ nhiều đoạn ống trên đường Nguyễn Tất Thành vào tháng 5.2006...
Riêng hệ thống thu gom và các trạm bơm, xử lý nước thải theo 4 lưu vực lớn của TP là Phú Lộc, Hoà Cường, Ngũ Hành Sơn và Sơn Trà vẫn chưa vận hành như thiết kế, nhiều nơi ngừng hoạt động...
Trong tháng 10.2007, Thanh tra Đà Nẵng và Thanh tra Chính phủ đã liên tục mở các cuộc thanh tra đối với dự án này. Trong đó Thanh tra Chính phủ thì chỉ tập trung làm rõ việc tạm ứng trái nguyên tắc các khoản kinh phí thuộc dự án này.
Còn Thanh tra Đà Nẵng đã... bỏ cuộc, vì không có đủ kinh phí 1,7 tỉ đồng để "khai quật" đường ống, làm rõ chất lượng thi công. Vì vậy, đến nay chưa chỉ ra được bản chất của một "đại dự án chưa vận hành đã hỏng".
Bãi biển đẹp và sạch nổi tiếng Mỹ Khê bị "tấn công" từ nhiều phía, bằng các quy hoạch giải toả làm đường, xây nhà hàng bê tông lấn biển, chia lô bán nền...; nay thêm vấn nạn ô nhiễm nước thải.
Đã đến lúc chính quyền Đà Nẵng cần mạnh tay trong việc xử lý thực trạng này, trong đó cần quy trách nhiệm cho ban quản lý dự án thoát nước vệ sinh môi trường.
VIETNEWS24.com (Theo laodong)

14- Ô nhiễm ở Đông Vĩnh - TP Vinh - Nghệ An: Doanh nghiệp bỏ chạy, chính quyền "làm thinh"

Cập nhật: 11/06/2008 -

Hồ nước thải trực tiếp của doanh nghiệp gây phát tán mùi trong cộng đồng dân cư. Ảnh: PV
Giadinh.net - Việc quy hoạch khu công nghiệp nhỏ tại phường Đông Vĩnh (gồm 12 doanh nghiệp), ngay giữa khu dân cư khiến môi trường nơi đây đang ô nhiễm nghiêm trọng.
Hàng ngàn người dân của các khối Mỹ Thành, Vĩnh Yên, Yên Duệ thuộc phường Đông Vĩnh và học sinh của Trường THCS Đông Vĩnh ngày ngày phải sống chung với tiếng ồn, khói bụi, hoá chất độc hại, mùi hôi thối do khí thải của một số nhà máy gây ra. Mặc dù người dân đã kiến nghị nhiều lần, nhưng “biện pháp” chỉ là những cuộc họp không lối thoát do chính quyền tổ chức.
Vừa giảng dạy, vừa đeo khẩu trang
Chúng tôi có mặt tại khối Mỹ Thành, một trong những khối nằm sát Công ty CP xây dựng & chế biến gỗ xuất khẩu thuộc tiểu khu công nghiệp vào chiều ngày 5/6/2008. Thay vì cảnh người dân tụ tập hóng mát hai bên đường như trước đây, chúng tôi được chứng kiến tình trạng nhà nhà đóng cửa, người người trốn mùi ô nhiễm.
Tìm đến nhà ông Nguyễn Đình Ngọ, khối trưởng khối Mỹ Thành, sau câu chào xã giao, ông Ngọ mở nhanh cánh cửa mời khách vào rồi vội vàng đóng lại. Mặc dù được ngăn cách bởi cánh cửa kính, nhưng mùi hôi thối vẫn nồng nặc bay vào nhà. Vừa đề cập đến tình trạng ô nhiễm, ông Ngọ “xả” một hơi:
“Chúng tôi không bức xúc sao được, khi cả ngày lẫn đêm sống trong môi trường ô nhiễm. Ban đêm tiếng ồn khiến người già không ngủ được, con trẻ cũng không thể tập trung học bài. Mùa nắng thì oi bức vì bụi khói, mùi xú uế bốc lên từ nước thải đen ngòm của nhà máy. Mưa xuống nước tràn ra cả khu dân cư bốc mùi tanh tưởi khó chịu, gây ngứa, lở người cho dân trong vùng. Gần đây người dân rất hoang mang vì trong khối này đã có 6 người mắc bệnh ung thư...”.
Chỉ cách Công ty CP Bao bì Nghệ An vài chục mét là khối Vĩnh Yên. Ông Tạ Văn Sơn - khối trưởng vừa dẫn chúng tôi đi vừa nói: “Trăm nghe không bằng một thấy, phóng viên phải mục sở thị mới hiểu được dân khổ thế nào”.
Theo sự chỉ dẫn của ông Sơn, chúng tôi men theo bức tường của nhà máy đi vào hồ chứa nước thải. Quả như ông Sơn nói, nước thải được đổ trực tiếp vào hai hồ, màu đen ngòm, mùi thối pha lẫn mùi hoá chất nồng nặc.
Ông Sơn đưa tay chỉ về phía khu đất trống rồi nói tiếp: “Theo quy hoạch, vùng đất này là khu xử lý chất thải trước khi thải ra hồ chứa, nhưng doanh nghiệp chẳng làm gì. Khi Hội cựu chiến binh đề xuất xin trồng cây trên khu đất trống để giảm thiểu ô nhiễm khói bụi, doanh nghiệp cũng không đồng ý”.
Ông Nguyễn Văn Trường, ở tổ 2, khối Vĩnh Yên cho biết thêm: “Khối chúng tôi bây giờ nhiều người bị bệnh đường hô hấp, đặc biệt là viêm xoang mũi. Hơn một năm nay người dân chúng tôi bỏ luôn phong trào đi bộ ban đêm vì không chịu được mùi hôi thối”.
Chưa hết, nằm cạnh Cty Cổ phần Động Lực; Cty Cổ phần Mỹ Nghệ là Trường THCS Đông Vĩnh. Mặc dù đã nghỉ hè, nhưng khi biết có phóng viên về tìm hiểu sự việc, thầy Hồ Kim Trọng, Hiệu trưởng nhà trường cũng vội có mặt để có ý kiến. Thầy Trọng buồn bã cho chúng tôi biết: “Những ống khói của các nhà máy chế biến gỗ ngày đêm tuôn nhả, khiến giáo viên đứng trên bục giảng nhiều hôm phải đeo khẩu trang, không ít học sinh buộc phải chuyển trường khác để tránh ô nhiễm”.
Dân biết kêu ai?
Có thể thấy, tình trạng ô nhiễm từ KCN nhỏ Đông Vĩnh đối với người dân quanh vùng là khá nghiêm trọng, trong đó gây ô nhiễm nặng nề nhất gồm Cty TNHH Xuân Ngọc, Cty Cổ phần Động lực, Cty Cổ phần Xây dựng và chế biến gỗ xuất khẩu, Cty Cổ phần Bao bì; Cty TNHH Quang Triều; Công ty TNHH Hồng Công; Công ty Cổ phần Mỹ nghệ.
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, theo một số văn bản về thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh đóng trên địa bàn Phường Đông Vĩnh, đã từng được các công ty này ký cam kết thì 6 tháng 1 lần hoặc theo yêu cầu đột xuất của các cơ quan quản lý nhà nước, các công ty phải có văn bản báo cáo về Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố các biện pháp cũng như kết quả xử lý các vấn đề môi trường (có quan trắc các chỉ tiêu về chất lượng không khí, chất lượng nước thải).
Thế nhưng, theo người dân phản ánh, trên thực tế các công ty vẫn ngang nhiên phơi các tấm gỗ bóc tại các khu công cộng, dọc đường trong khu dân cư; đốt rác thải không đúng qui định, không thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, gây phát tán mùi hôi thối trong khu dân cư từ các buồng sơn, lò sấy...
Trước phản ứng đầy bức xúc của người dân sống quanh khu vực KCN nhỏ này, UBND phường Đông Vĩnh đã tổ chức nhiều cuộc họp để bàn về giải pháp giải quyết. Thế nhưng, theo lời ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Chủ tịch UBND phường Đông Vĩnh thì hầu như các cuộc họp, chủ các doanh nghiệp đều cố tình vắng mặt, nên vấn đề gay gắt trên lại rơi vào cảnh “ta nói cho ta nghe”.
Ông Tiến cho biết, việc xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường cũng chỉ dừng ở mức xử phạt hành chính đối với các lỗi nhìn thấy tận mắt như phơi gỗ ngoài đường, đốt rác không đúng nơi qui định. Còn ô nhiễm tiếng ồn, không khí, nguồn nước… thì chính quyền không có máy móc thiết bị để đo đạc và kết luận được.
Được biết, trước tình trạng trên, người dân và đại diện trường học của phường Đông Vĩnh đã làm đơn kiến nghị gửi lên các cấp và năm 2007, UBND TP Vinh, Sở Tài nguyên và Môi trường đã từng về kiểm tra và có kết luận, yêu cầu các doanh nghiệp ở khu công nghiệp Đông Vĩnh gây ô nhiễm môi trường có biện pháp khắc phục tình trạng trên, nhưng không hiểu sao khắc phục đâu chẳng thấy, chỉ thấy ô nhiễm môi trường ngày càng thêm trầm trọng, khiến cho người dân nơi đây phải kêu lên: Biết kêu ai bây giờ?
Hồ Hà
 

 

15- THANH HÓA: MÔI TRƯỜNG BIỂN ĐANG BỊ Ô NHIỄM

Ngày 10/7/2008. Cập nhật lúc 16h 36'
(ĐCSVN) – Hiện nay, Các bãi biển ở Thanh Hóa đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do chất thải của các tàu thuyền đánh bắt hải sản, tàu thuyền nội địa Việt Nam và rác từ các khu dân cư, khách du lịch.

Theo số liệu thống kê của ngành thủy sản Thanh Hóa hiện có trên 4.800 phương tiện đánh bắt thủy sản với công suất 163,9 nghìn CV. Hàng ngày, có hàng chục nghìn lượt tàu thuyền ra vào cảng và phương tiện thủy nội địa hoạt động gia tăng trong tỉnh, mỗi năm thải ra sông, biển hàng nghìn tấn chất thải sinh hoạt, nhiên liệu, cặn dầu, nước rửa tàu lẫn chất thải rắn, mạt kim loại, sơn và các chất tẩy rửa trong quá trình đóng mới, sửa chữa và hoạt động.

Tại các bãi biển, nguồn rác thải đã chất thành đống cao như Ngư Lộc, Hòa Lộc (huyện Hậu Lộc), Hải Châu, Hải Ninh (huyện Tĩnh Gia). Rác thải cũng rất đa dạng từ các tàu chuyên đánh bắt cá, tàu cung cấp nguyên liệu, tàu làm hàng... Tại các cơ sở đóng và bảo dưỡng tàu thuyền, hầu hết không có bãi rác thải hay hệ thống xử lý rác thải. 100% các điểm sửa chữa tàu thuyền đều có dấu hiệu vi phạm luật bảo vệ môi trường.

Theo thống kê sơ bộ, hàng ngày người dân xã Ngư Lộc thải rác tự do ra biển khoảng 3-4 tấn. Khi triều cường lên, rác sinh hoạt không được xử lý bị cuốn trôi sang các bãi biển lân cận. Tại đây, không có đất xây dựng khu xử lý rác thải. Không riêng xã Ngư Lộc mà huyện Hậu Lộc còn có các xã Hòa Lộc, Minh Lộc...cũng đặt trong tình trạng báo động về ô nhiễm môi trường.

Được biết, UBND huyện Hậu Lộc đã đầu tư 17 tỷ đồng để xây dựng bãi xử lý rác thải rộng 3,3 ha tại xã Minh Lộc, nhưng do nguồn vốn hạn hẹp nên dự án vẫn chưa hoàn thiện.

Chỉ riêng bãi biển Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia cũng có hàng nghìn m3 khối rác thải chồng chất tại đây, hàng ngày khối lượng không ngừng tăng lên. Hơn nữa, đây là vùng rốn của sông Cầu Ghép, nên lượng rác thải từ dòng sông đổ về, gặp thủy triều, rác dạt vào ven bãi biển thành những khối rác khổng lồ./.
PL (Tổng hợp)

http://www.dangcongsan.vn/print_preview.asp?id=BT107089360

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org