Hồ sơ vụ án VEDAN
1/Sông Đồng Nai: Tốc độ ô nhiễm tăng nhanh
2/Nước thải đang “bức tử” những dòng sông
3/Nước thải gây ô uế cả một vùng sông nước
4/Chưa có giải pháp cụ thể hạn chế ô nhiễm sông Sài
Gòn
5/Không còn sông xanh
6/1,5 triệu dân dùng nước từ sông Sài Gòn ô nhiễm
7/TP Hồ Chí Minh: Những vùng nước ô nhiễm theo chỉ
số quốc tế
8/Tình hình cung cấp nước sạch cho các khu dân cư
nghèo ở Việt Nam
9/Đừng buộc những dòng sông phải “thay lòng đổi
dạ”(phần 2)
10/Những con sông "sống mòn" ở Hà Nội(I & 2)
11/Ô nhiễm do chất thải công nghiệp ở Đà Nẵng
12/Ô nhiễm môi trường vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
13/Nợ môi trường: GDP tăng 1%, chất thải tăng 3%
14/10.000 km2 sông ngòi bị ô nhiễm nghiêm trọng
15/Những dòng kênh bị truy sát
16/Đồng bằng sông Cửu Long Cứu lấy vùng sinh thái
“xanh” trước khi mất “trắng”!?
17/Sông Lục Nam trước nguy cơ ô nhiễm
18/Ám ảnh những con sông nội thành
19/Ô nhiễm môi trường nước ở đồng bằng sông Cửu Long
20/Các hiểm họa từ thượng nguồn sông Cửu Long
21/Ô nhiễm môi trường sông Nhuệ ở Hà Nam: Cá “trắng”
đầy sông, người kêu cứu!
22/Hàng vạn người điêu đứng vì “dòng sông chết”!
23/Sông Thị Tính đang bị “đầu độc”? (1,2,3)
1- Sông Đồng Nai: Tốc độ ô nhiễm tăng nhanh
Có lẽ chuyện chất lượng nước sông Đồng Nai đang bị suy giảm nghiêm trọng không
phải là chuyện mới. Trước đây, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường (TN-MT) Mai
Ái Trực đã phải tổ chức họp với lãnh đạo 12 tỉnh thành có liên quan đến sông
Đồng Nai nhằm tìm ra giải pháp cứu con sông này. Tại cuộc họp, nhiều tỉnh thành
đã thể hiện quyết tâm tăng cường công tác hậu kiểm nhằm chấm dứt tình trạng xả
thải chưa qua xử lý của các doanh nghiệp. Thế nhưng cho đến nay, lời hứa về một
quyết tâm làm sạch sông Đồng Nai dường như đang bị lãng quên...
Nguồn nước từ thượng đến hạ đang... chết
Hệ thống sông Đồng Nai bao gồm các sông chính như lưu vực sông Đa Dung – Đa Nhim
– Đồng Nai, sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ và hạ lưu sông Đồng
Nai, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất chủ yếu cho 12 tỉnh, thành
thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (bao gồm TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dương, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Ninh Thuận,
Bình Thuận, Tây Ninh, Long An).
Cục Bảo vệ Môi trường (Bộ TN-MT) cho biết, tại một số đoạn sông, hồ như thác Cam
Ly và nhất là hồ Trị An phía thượng nguồn, nồng độ ôxy hòa tan (DO) trong nước
tụt giảm đến mức kỷ lục và kéo dài suốt một đoạn dài gần 10 km từ sau cầu La
Ngà, kèm theo các mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ mặt hồ. Còn theo ông Trần
Nguyên Hiền, Trưởng phòng Quản lý Môi trường Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM,
khu vực hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai, tình trạng suy thoái nguồn nước còn
nghiêm trọng hơn.
Ô nhiễm hữu cơ, dầu và vi sinh nguồn nước tại các trạm Phú Cường, Bình Phước và
Phú An thuộc khu vực TPHCM liên tục gia tăng, ô nhiễm vi sinh vượt tiêu chuẩn
cho phép đến 168 lần, không đạt tiêu chuẩn chất lượng nước mặt dùng làm nguồn
nước cấp sinh hoạt. Cá biệt, tại lưu vực sông Thị Vải có một đoạn sông dài gần
10km đã chết. Nước bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, nước màu nâu đen và bốc mùi
hôi thối kể cả thời gian thủy triều lên và xuống. Giá trị DO thường xuyên dưới
0,5mg/l – mức mà không còn loài sinh vật nào có khả năng sinh sống. Ô nhiễm vi
sinh thì vượt tiêu chuẩn cho phép lên đến hàng trăm lần. Đáng ngại nhất là tại
khu vực cảng Vedan, cảng Mỹ Xuân, thì hàm lượng thủy ngân vượt 1,5 – 4 lần, kẽm
vượt 3-5 lần so với tiêu chuẩn quy định.
Cha chung không ai khóc
Lý giải thực trạng này, ông Trần Hồng Hà, Cục trưởng Cục Bảo vệ Môi trường bức
xúc: Nguyên nhân chính chủ yếu vẫn là do các khu công nghiệp đang hoạt động tại
12 tỉnh thành vẫn chưa xử lý nước thải trước khi xả ra sông hoặc có xử lý nhưng
chất lượng nước sau xử lý không đạt yêu cầu. Hiện vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam đã có gần 70 KCN và KCX đang hoạt động. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh có
15 khu, Đồng Nai 16 khu (trong số 23 KCN được quy hoạch), Bình Dương 16 khu
(trong số 25 khu đã được quy hoạch), Bà Rịa – Vũng Tàu 8 khu, Long An 3 khu
(trong số 22 KCN được quy hoạch), Bình Phước 3 khu, Tây Ninh 1 khu... Đó là chưa
kể đến một khối lượng lớn nước sinh hoạt khác không qua xử lý vẫn thải thẳng ra
sông.
Tiến sĩ Lâm Minh Triết cảnh báo, tốc độ gia tăng ô nhiễm trong 5 năm lại đây
tăng lên rất nhanh. Hiện bình quân hệ thống sông Đồng Nai tiếp nhận khoảng
111.600m3 nước thải công nghiệp/ngày, trong đó chứa hàng chục tấn hóa chất vượt
quá tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên, quy mô và nhịp độ phát triển công nghiệp
trên lưu vực này tiếp tục tăng trưởng trên 15%/năm. Các chuyên gia môi trường
cho biết thêm, nếu không có ngay các hành động để bảo vệ môi trường thì đến năm
2010, mỗi ngày hệ thống sông Đồng Nai sẽ tiếp nhận thêm khoảng 1,73 triệu m3
nước thải sinh hoạt (trong đó có khoảng 702 tấn cặn lơ lửng, 421 tấn BOD5, 756
tấn COD, 59 tấn nitơ tổng, 15 tấn phospho tổng, 243 tấn dầu mỡ phi khoáng và
nhiều vi trùng gây bệnh) và khoảng 1,54 triệu m3 nước thải công nghiệp (trong đó
có khoảng 278 tấn cặn lơ lửng, 231 tấn BOD5, 493 tấn COD, 89 tấn nitơ tổng, 12
tấn phospho và nhiều kim loại nặng...).
Các con số này chưa tính đến khả năng “đóng góp” ô nhiễm của hàng vạn cơ sở sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đang tồn tại bên ngoài các khu công
nghiệp tập trung. Đáng lo ngại nhất là ngoài những chất thải đã phát hiện còn
xuất hiện thêm nhiều chất thải độc hại khác mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa có
đủ phương tiện máy móc để phát hiện. Cuộc sống của hơn 15 triệu người ở vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng. Và chắc chắn lợi nhuận
thu được hoạt động kinh tế sẽ không thể đủ để bù đắp cho chi phí phải trả cho
việc cải thiện môi trường!
Chú trọng hậu kiểm nhưng khó thực hiện
Đó đang là thực tế của công tác kiểm tra, xử phạt vi phạm quy định về môi trường
đang tồn tại ở hầu khắp tỉnh thành. Bà Nguyễn Thị Dụ, chánh thanh tra Sở Tài
nguyên và Môi trường TPHCM cho biết, mức phạt vi phạm Luật Bảo vệ Môi trường
(cao nhất là 70 triệu) quá thấp vẫn luôn là kẻ hở để doanh nghiệp tiếp tục cố
tình không chấp hành. Mặt khác, cơ chế phối hợp kiểm tra, xử lý giữa các tỉnh
thành rất khó thực hiện. Lợi dụng thực trạng đó, nhiều doanh nghiệp đóng tại khu
vực giáp ranh giữa các tỉnh liên tục vi phạm quy định về xả thải. Riêng tại
TPHCM, ông Trần Thế Ngọc, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM cho biết,
trong khi chờ đề án “Bảo vệ hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai” được thông qua,
bản thân TPHCM đã chủ động phối hợp với các tỉnh kế cận như Bình Phước, Tây
Ninh, Bình Dương và Đồng Nai - là những địa phương có số lượng các cơ sở sản
xuất công nghiệp và dân cư nằm dọc theo lưu vực các sông lớn nhất để ngăn chặn
và xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường ở sông Sài Gòn trước. TPHCM đã mạnh
dạn đóng cửa sản xuất hơn 100 doanh nghiệp gây ô nhiễm nặng, đã bị nhắc nhở và
xử phạt nhiều lần do vi phạm quy định về xả thải. Tuy nhiên, để có thể cải thiện
tình trạng ô nhiễm môi trường hiện tại thì có lẽ con số doanh nghiệp sản xuất bị
đóng cửa do không đảm bảo các quy định về bảo vệ môi trường cần phải được tăng
theo cấp số nhân và không chỉ có riêng TPHCM thực hiện mà đòi hỏi nhiều tỉnh
thành khác cũng phải triệt để thực hiện.
Giải pháp tổng thể nhằm cứu lấy sông Đồng Nai đã được cụ thể hóa bằng đề án “Bảo
vệ hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai”. Theo đó, xây dựng một loạt hệ thống quan
trắc chất lượng nước; tiến hành các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm
kết hợp xử lý ô nhiễm; bảo vệ rừng đầu nguồn, xây dựng lộ trình buộc các doanh
nghiệp trong khu vực không được xả nước thải công nghiệp chưa được xử lý ra
sông… Kế hoạch thực hiện từ nay đến 2010 là tăng cường năng lực quản lý, cải
thiện, phòng ngừa ô nhiễm, đảm bảo 100% KCN-KCX có trạm xử lý nước thải tập
trung; đến 2015 giải quyết trên 90% cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng trên
địa bàn của tất cả các tỉnh, ít nhất 60% các khu đô thị có hệ thống xử lý nước
thải tập trung, thu gom 90% chất thải rắn sinh hoạt (không cho xả bỏ xuống
sông), xử lý 100% chất thải nguy hại; đến năm 2020 giải quyết xong 95% cơ sở sản
xuất ô nhiễm, 70% khu đô thị có hệ thống xử lý nước thải, thu gom 95% chất thải
rắn sinh hoạt, xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường trên lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của từng tỉnh thành, các giai đoạn thực
hiện, các biện pháp áp dụng được nêu rõ nhưng cho đến nay đề án này vẫn đang…
chờ phê duyệt.
2- Nước thải đang “bức tử” những dòng sông
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=107560&ChannelID=46
Các dòng sông ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT) đang bị ô nhiễm nặng bởi chất
thải công nghiệp từ các nhà máy, cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp.
Nước sông Dinh ô nhiễm cá chết
Mỗi ngày, sông Thị Vải hứng chịu khoảng 33.000m3 nước thải từ nhà máy, xí nghiệp
ở 11 khu công nghiệp của BR-VT và Đồng Nai xả thẳng xuống sông.
Sông Thị Vải đã trở thành dòng sông chết. Và hiện nay, sông Dinh ở TP Vũng Tàu
cũng đang hấp hối.
Cá, tôm, cua, ghẹ… chết hàng loạt!
Theo phản ánh của nhiều người nuôi bè hàu trên sông Dinh, đoạn thuộc phường 12,
TP Vũng Tàu (gần cầu Cỏ May), từ chiều 2/1/2008, bắt đầu xuất hiện hiện tượng
cá, tôm, ghẹ chết và lượng cá, tôm chết đã tăng thêm rất nhiều trong những ngày
gần đây.
Ngư dân đánh bắt nhỏ đã dùng thuyền, ghe đi vớt cá, tôm. Anh Lê Văn Chiến, một
người nuôi bè hàu cho hay: “Chiều 2/1, khi ra bè lấy hàu tôi đã thấy có cá chết.
Đến sáng 3/1, số lượng cá chết nổi trắng trên sông Dinh. Ngư dân đi vớt cá rất
nhiều”. Theo anh Chiến, cá chết nhiều nhất là cá mao ếch, cá bống.
Sáng 3/1, lên một chiếc ghe của ngư dân đi dọc sông Dinh, chỉ một quãng ngắn
thuộc khu phố 6, P12, TP Vũng Tàu, chúng tôi cũng đã phát hiện cá bống, cá đối
nhỏ nổi trắng bụng. Những con cá này còn sót lại vì quá nhỏ nên ngư dân không
vớt.
Ra đến giữa dòng sông, chúng tôi gặp một ngư dân đang vớt cá, tôm chết. Ông cho
biết, đã vớt được khá nhiều cá, tôm. Số cá này một phần ông giữ để ăn, phần khác
đem bán.
Chúng tôi ước chừng số cá, tôm của ông vớt được khoảng gần 10kg. Anh Tuấn, một
ngư dân đánh bắt nhỏ dọc sông Dinh cho biết, con lớn nhất anh vớt được là cá
ngác nặng khoảng 1 kg. Và cá, tôm cứ lờ đờ bơi yếu ớt, vớt lên là chết liền.
Ngược dòng sông Dinh, chúng tôi đến gần khu vực cầu Cỏ May. Dọc đường, thỉnh
thoảng lại bắt gặp cá, tôm bơi lờ đờ trên mặt nước, mặc dù nước sông Dinh đoạn
này khá trong.
Anh Tự, đậu chiếc ghe nhỏ dưới gầm cầu Cỏ May nói: “Không biết nhà máy nào thải
nước mà từ tối hôm qua đến giờ cá chết nhiều lắm”.
Theo anh, đoạn dưới gầm cầu toàn là cá nhỏ, tôm nhỏ chết nên anh không vớt. Anh
Tự chỉ cho chúng tôi thấy nhiều con tôm bầu nhỏ, cua nhỏ đang bám vào trụ cầu để
“thở” vì quá yếu.
Nước sông quá ô nhiễm
Theo người dân, hiện tượng cá, tôm chết hàng loạt trên sông Dinh do nước sông
quá ô nhiễm. Một công nhân làm bè hàu là anh Bùi Thanh Dũng, cho biết trước đây,
khi vớt hàu lên, hàu mở miệng chừng 10- 15 giây mới ngậm lại, nhưng bây giờ vừa
vớt lên hàu đã ngậm miệng.
Cua, mực, bạch tuộc không chịu nổi nước ô nhiễm cũng nổi lờ đờ. Một ngư dân khác
là anh Chiến cho biết độ ô nhiễm của nước sông Dinh đoạn gần cầu Cỏ May khá cao,
bởi cá mao ếch là loại cá mạnh nhất mà còn “chịu không nổi”.
Anh dùng vợt vớt một vài con cá lên giải thích: Cá mao ếch có màu da xám, và
những đường vân khá đẹp nhưng bây giờ đã bị bạc. Còn cá ngác da đen cũng biến
thành màu trắng.
Dọc theo sông Dinh đoạn ở phường 12 có gần 10 cơ sở, nhà máy chế biến hải sản có
cống thoát nước “dẫn” thẳng ra sông Dinh. Chúng tôi quan sát một cống thoát nước
thấy nước thải có màu đỏ, đậm đặc và rất hôi.
Xung quanh khu vực nước thải chảy ra, nhiều mảng bọt vàng, nước lờ đục. Còn ở
giữa sông Dinh, cách cầu Cỏ May chừng vài trăm mét, có rất nhiều mảng bọt vàng
kết lại thành đám lớn như bọt biển.
Khu vực phía trên cầu Cỏ May - một rạch thoát nước của một nhà máy sản xuất muối
iốt nước mờ đen, mùi hôi thối bốc lên khá nặng.
Sông Dinh có thể trở thành dòng sông chết?
Sau khi xảy ra sự cố tôm, cá trên sông Dinh bị chết hàng loạt, ngày 4/1, cơ quan
Môi trường BR-VT đã tiến hành lấy mẫu nước trên sông Dinh, sông Chà Và (Long
Sơn, TP Vũng Tàu) để xét nghiệm một số chỉ tiêu mặt nước như: hàm lượng ô xy,
hàm lượng hữu cơ, dầu mỡ… và phải một tuần sau mới có kết quả xét nghiệm.
Cùng ngày này, cá trên sông Dinh tiếp tục chết, nổi trắng bụng. Những bè hàu
trên sông Dinh cũng có dấu hiệu bị chết. Ở đoạn gần chân cầu Cỏ May số lượng cá
chết nổi dày, mặt sông giờ đã lốm đốm nhiều xác cá nhỏ, chất dơ bẩn bám quanh
xác cá chết.
Xác minh sơ bộ, nước thải của một số cơ sở chế biến thủy sản đổ ra sông là nguồn
gây ô nhiễm làm thiệt hại nặng nề nguồn lợi nuôi trồng thủy sản trên sông Dinh.
Sông Dinh có chung số phận như sông Thị Vải hay không tùy thuộc và thái độ của
nhà quản lý các cấp chính quyền đối với dòng sông này- một chuyên gia môi trường
cho biết như vậy.
P.V
http://www.tin247.com/nuoc_thai_dang_%E2%80%9Cbuc_tu%E2%80%9D_nhung_dong_song-1-76990.html
3- Nước thải gây ô uế cả một vùng sông nước
Lao Động số 236 Ngày 13/10/2008 Cập nhật: 8:38 AM, 13/10/2008
Lưới lọc nước Nhà máy điện Hiệp Phước thường xuyên bị da - mỡ - lông thú bịt
kín.
(LĐ) - Một chuỗi thời gian dài hứa khắc phục, nhưng Cty CP thuộc da Hào Dương
(lô A18, KCN Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TPHCM) vẫn tiếp tục làm ô uế cả một
vùng...
Không thể lần lữa, sau một đêm mật phục, sáng ngày 11.10, Phòng Cảnh sát môi
trường (PC36) - Công an TPHCM - đã bắt quả tang Cty Hào Dương xả chất thải chưa
xử lý ra sông Đông Điền. Tới lúc này, người ta mới giật mình, Cty Hào Dương đã
gây ô uế không khí cả một vùng KCN Hiệp Phước trong suốt gần 5 năm qua bằng...
mùi hôi da súc vật.
Cú bắt quả tang
Phát hiện nước bùn được xả từ cống chính của Cty Hào Dương phun ra sông Đông
Điền từ lâu; nhưng đã vài lần, các chiến sĩ PC36 xông vào, tổ nhân viên điều
hành hệ thống xử lý nước thải Cty Hào Dương lại tinh quái... qua mặt.
Duy nhất đường bơm nước thải số 4 bị phát hiện xả thẳng ra sông. Tới khi có mặt
Chủ tịch HĐQT Cty Hào Dương, trước yêu cầu của PC36, chẳng đặng đừng, phía Cty
Hào Dương buộc phải mở van những ống xả còn lại... Những dòng nước xả đen ngòm,
không hề qua hệ thống xử lý mà tuôn ào ạt thẳng ra sông Đông Điền.
Đến lúc này, thì phía lãnh đạo Cty Hào Dương không còn đôi co, biện bạch được
gì... Té ra, suốt gần 5 năm qua, Cty Hào Dương đã là nguyên nhân gây ô nhiễm cả
một góc KCN Hiệp Phước. Sự việc ai cũng biết và vô số lần cơ quan chức năng đã
làm việc, lập biên bản răn đe, xử phạt v.v... Song, ô nhiễm vẫn hoàn ô nhiễm.
Da, mỡ, lông thú và mùi hôi... "tấn công" nguồn điện quốc gia!
Cty Hào Dương hoạt động từ năm 2003, với diện tích nhà xưởng 5.777m2, chuyên
thuộc da xuất khẩu cho các khách hàng là những Cty giày thể thao lớn trên thế
giới. Lúc đó, công suất Cty chỉ giới hạn 4.800 tấn/năm, với giấy phép sử dụng có
8m2/ngày. Năm 2007, Cty Hào Dương nâng công suất lên 60.000 tấn/năm và đưa diện
tích nhà xưởng lên 30.525,6m2. Mỗi ngày, Cty "xài" hết 2.000m3 nước mặt và thải
ra hệ thống xử lý khoảng 2.500m3.
Việc Cty mở rộng nhà máy, nâng thêm công suất, gia tăng nước thải ra môi trường,
nhưng hệ thống xử lý nước thải của Cty lại không hề được cải thiện, nâng cấp quy
mô tương xứng đã dẫn tới mức ô nhiễm môi trường ngày thêm trầm trọng. Nạn nhân
đầu tiên của hành vi gây ô nhiễm trên là "ông bạn" láng giềng Cty điện Hiệp
Phước.
Ông Zhang Yin Fu - Tổng GĐ Cty điện Hiệp Phước - cho biết: "Suốt thời gian dài,
tập thể cán bộ - CNV chúng tôi luôn luôn phải sống trong bầu không khí có mùi
hôi thối nồng nặc từ thuộc da của Cty Hào Dương. Tình trạng da, lông và mỡ thừa
súc vật có mùi hôi thối, còn xuất hiện, gây tắc nghẽn cả lưới lọc quay của bơm
nước tuần hoàn Nhà máy điện Hiệp Phước, làm ảnh hưởng nghiêm trọng công suất
phát điện của nhà máy, khi hoà vào lưới điện quốc gia".
Hoá ra, da - mỡ - lông thú ấy đã được Cty Hào Dương xả thẳng ra sông Đông Điền,
Nhà máy điện Hiệp Phước bơm lấy nước sông vào chạy máy, thế là lưới lọc bị da -
mỡ - lông thú... tấn công.
Sau nhiều lần đối thoại, lãnh đạo Cty Hào Dương cam kết khắc phục, nhưng vẫn
không thực hiện... Đến độ, Cty điện Hiệp Phước phải mời lãnh đạo KCN Hiệp Phước
xuống lập biên bản và đe... cắt điện Cty Hào Dương. Lãnh đạo Cty Hào Dương lại
hứa, khất lần sẽ khắc phục nước thải, mùi hôi...
Không thấy Cty Hào Dương có cử động nào khắc phục ô nhiễm môi trường. Trái lại,
ngày 16.1.2008, Cty lại bị KCN Hiệp Phước phát hiện... xả bùn ra sông Kinh. Hành
vi trên tiếp tục tái diễn nhiều lần, không chỉ xả ra sông Kinh mà còn xả ra sông
Đông Điền và bị cơ quan chức năng lập biên bản. Nhiều CB-CNV Cty TNHH hương liệu
phụ gia Hoàng Anh và Nhà máy dầu nhớt Vilube cũng thường xuyên sống chung, hít
ngửi không khí hôi thối từ Cty thuộc da Hào Dương, nhất là vào sáng sớm và chiều
tối...
Cty Hào Dương xả nước thải, gây bức tử sông Kinh và sông Đông Điền.
"Sáng kiến" huỷ hoại môi trường
Trong khi chưa cải thiện, khắc phục hệ thống xử lý nước thải hôi thối, thì ngày
1.8, KCN Hiệp Phước phát hiện Cty Hào Dương "khắc phục" ô nhiễm bằng một "sáng
kiến" gian dối là bơm nước sông vào bể để... pha loãng nước thải; rồi sau đó, xả
luôn nước thải này... ra lại sông.
Ngày 14.8, "sáng kiến" pha loãng nước thải, rồi xả lại ra sông tiếp tục được Cty
áp dụng và bị cơ quan chức năng phát hiện. Ngày 19.8.2008, qua kiểm tra, Phòng
TNMT huyện Nhà Bè đã xác định chỉ số COD nước thải của Cty Hào Dương vượt mức
cho phép 20 lần, NH4+ vượt 100 lần, Cl vượt 170 lần... Đồng thời, 2 mẫu khí thải
NH3 (vượt 0,1 lần) và H2S vượt... 200 lần.
Trước đó, ngày 4.6.2008, Thanh tra Sở TNMT TPHCM đã ra quyết định xử phạt hành
chính Cty Hào Dương 14 triệu đồng, về hành vi xả nước thải vào môi trường. Tuy
nhiên, việc xử phạt hành chính trên đối với Cty này xem ra chẳng... ăn thua gì.
Cho nên, Cty Hào Dương vẫn tiếp tục... lờn thuốc, vi phạm, xả cửa thải nước bức
tử sông và thải mùi hôi làm ô uế cả một vùng KCN rộng lớn huyện Nhà Bè.
Đông Anh
http://www.laodong.com.vn/Home/Nuoc-thai-gay-o-ue-ca-mot-vung-song-nuoc/200810/110102.laodong
TP.Hồ Chí Minh:
4- Chưa có giải pháp cụ thể hạn chế ô nhiễm sông Sài Gòn
Lao Động Điện tử Cập nhật: 4:20 PM, 21/06/2008
Nước sông Sài Gòn ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng.
(LĐĐT) - Kết thúc cuộc hội thảo về khắc phục tình trạng ô nhiễm sông Sài Gòn
được tổ chức tại Sở Khoa học Công nghệ TP.Hồ Chí Minh, ngày 19.6, các cơ quan
chức năng và nhiều nhà khoa học vẫn chưa thống nhất được giải pháp cụ thể thể để
hạn chế tình trạng ô nhiễm sông Sài Gòn.
Thay vào đó, "một bức tranh ảm đạm" về hiện trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng
của sông Sài Gòn đã được nêu lên đang ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước sinh
hoạt của người dân địa phương.
Phát biểu tại cuộc Hội thảo, ông Bùi Thanh Giang, Giám đốc Nhà máy nước Tân Hiệp
cảnh báo: Từ tháng 6.2004 đến nay chất lượng nguồn nước thô lấy từ sông Sài Gòn
luôn thay đổi phức tạp. Đặc biệt từ tháng 6.2007, khi Nhà máy nước Tân Hiệp tăng
công suất lên 300.000m2/ngày nhưng chất lượng nguồn nước thô của sông Sài Gòn
ngày càng xấu làm cho việc xử lý nước để cung cấp cho người dân hết sức khó
khăn.
Trong khi đó, Thạc sĩ Nguyễn Thị Vân Hà, Trường Đại học Bách khoa thuộc Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết: Theo kết quả khảo sát, vào mùa mưa hàm
lượng mangan ở một số khu vực trên sông Sài Gòn tăng cao và đang lan tỏa đến vực
lấy nước thô của Nhà máy nước Tân Hiệp. Vì vậy, sớm hay muộn thì UBND Thành phố
Hồ Chí Minh cần tính đến phương án dự trữ nước cho nhà máy Tân Hiệp hoặc tìm
nguồn ước khác thay thế để đối phó trong trường hợp nước sông Sài Gòn bị ô nhiễm
nghiêm trọng một cách đột ngột.
Nói về vấn đề này, ông Nguyễn Chương, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn, cho rằng:
Dự kiến sẽ có 3 nguồn nước khác thay thế cho nước sông Sài Gòn để cung cấp cho
Nhà máy nước Tân Hiệp là nước ngầm, nước Kênh Đông, nước hồ Dầu Tiếng. Tuy
nhiên, nguồn nước ngầm hiện nay đang hạn chế sử dụng, nguồn nước Kênh Đông đã
được khai thác quá tải, còn nguồn nước hồ Dầu Tiếng tuy đạt chất lượng nhưng
việc dẫn nước về thành phố cần đầu tư kinh phí rất lớn để lắp đặt đường ống dài
hàng chục km. Nhà máy nước Tân Hiệp có chi phí đầu tư xây dựng đến 1.000 tỉ đồng
và thời gian khấu hao là 25 năm. Nhà máy chỉ mới hoạt động được 4 năm do đó cần
phải vận hành liên tục thêm 21 năm nữa nên phải tìm cách bảo vệ nguồn nước sông
Sài Gòn không ô nhiễm thêm.
Xác định nguyên nhân ô nhiễm, Trung tá Lê Hoàng Minh, Cục Cảnh sát Môi trường -
Bộ Công an cho biết: Sông Sài Gòn bi ô nhiễm nặng bởi các nguồn chất thải công
nghiệp, y tế, sinh hoạt không chỉ của TP.Hồ Chí Minh mà còn từ tỉnh Bình Dương,
Tây Ninh. Điều đáng báo động là tình trạng doanh nghiệp vi phạm trong lĩnh vực
môi trường ngày càng tăng, nhất là vấn đề xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép.
Rất nhiều doanh nghiệp lợi dụng mùa mưa để thải nước trực tiếp ra sông sài Gòn
không qua xử lý. Chỉ tính riêng, trong 6 tháng đầu năm 2008 tại tỉnh Bình Dương,
Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh có đến hành trăm doanh nghiệp bị xử phạt hành
chánh vì xả nước thải chưa qua xử lý gây ô nhiễm sông Sài Gòn.
Với tư cách một địa phương nằm phía thượng nguồn sông Sài Gòn, có nhiều doanh
nghiệp chế biến nông sản với nguồn nước xả thải lớn, ông Nguyễn Hoàng - Phó Giám
đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh - đề nghị các nhà khoa học tham
gia nghiên cứu đề tài bảo vệ nguồn nước sông Sài Gòn phải tìm cách xác định cụ
thể các nguồn xả thải gây ô nhiễm thì mới có biện pháp xử lý hiệu quả.
http://www.laodong.com.vn/Home/Chua-co-giai-phap-cu-the-han-che-o-nhiem-song-Sai-Gon/20086/94357.laodong
Ngoại thành TP.HCM:
5- Không còn sông xanh
Cập nhật: 3:42 PM, 19/10/2007
Ô nhiễm tại kênh Ba Bò.
Khi nói đến những dòng kênh như Ba Bò, Thầy Cai, An Hạ... người ta nghĩ ngay đến
một màu nước đen ngòm, mùi hôi thối bốc lên thay cho màu xanh đáng lẽ phải có.
Không chỉ thế, sông Sài Gòn ở phía thượng nguồn giờ đây cũng đang chết từng
ngày.
Sông: đen, đỏ, trắng sữa
Bà Nguyễn Thị Liền ngụ ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn, TPHCM bức xúc: "Ba
bốn năm trước, người dân ở đây sau giờ đi làm đồng về hầu như ai cũng ghé vào
các con kênh để tắm giặt. Giờ nước kênh có lúc đen như dầu nhớt, không ai dám
xuống tắm nữa!".
Còn anh Nguyễn Văn Hoàng, ở ấp 1, nói: "Hồi trước môi trường sống ở vùng ven này
rất trong lành, người dân trồng hoa màu rất nhiều nhưng giờ thì không cây gì
sống nổi vì nước bị ô nhiễm nặng". Không khó khăn lắm, chúng tôi thấy ngay những
ống xả nước thải không rõ từ nhà máy, xí nghiệp nào gần đó đâm tua tủa ra rạch.
Anh Hoàng than thở: "Cách nay chưa lâu, khi địa phương cho xây lại hệ thống
đường giao thông nội đồng và khai thông rạch, chúng tôi rất mừng... Những tưởng
rằng đây sẽ là cơ hội phát triển sản xuất, thế nhưng...".
Tương tự, kênh Ba Bò cũng đang là nơi chứa chất thải. Đó là khẳng định của ông
Nguyễn Ngọc Huỳnh, Giám đốc Xí nghiệp Quản lý khai thác công trình thủy lợi quận
Thủ Đức.
"Mọi thứ chất thải từ khu công nghiệp Bình Đường, tỉnh Bình Dương đều đổ vào
kênh này. Lượng nước thải qua kênh là những loại hóa chất tẩy rửa, nhuộm và các
loại hóa chất khác, có cả một số kim loại nặng của ngành xi mạ rất độc hại. Hơi
bốc lên từ con kênh này có thể biến hàng loạt hệ thống cửa sắt gỉ mục là chuyện
thường.
Sắt thép còn bị hủy hoại thì cơ thể con người chẳng biết sẽ thế nào. Mỗi khi
lượng nước xả tăng cao, hơi bốc lên nặng mùi lắm, hít vào mũi cay nồng, vừa ngứa
vừa nóng ran cuống họng...", ông Huỳnh nói.
Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, TPHCM mỗi ngày xả trực tiếp khoảng 237
tấn chất thải sinh hoạt và hàng tấn hóa chất độc hại chưa qua xử lý xuống sông
Sài Gòn. Hiện nước sông Sài Gòn bị đục gấp 5 lần và hàm lượng các hóa chất độc
hại tăng từ 30 đến 40 lần so với những năm trước.
Theo ghi nhận của chúng tôi, dọc kênh Ba Bò, nhiều đồng rau rộng cả chục hécta
cũng đang héo hon dần. Từ Bến Dược huyện Củ Chi TP.HCM đến khu vực xã hồ Dầu
Tiếng tỉnh Tây Ninh, chúng tôi còn phát hiện dọc sông Sài Gòn nhiều đoạn nước đỏ
au từ các cơ sở sản xuất gốm tỉnh Bình Dương đổ ra.
Anh Nguyễn Trường Xuân, Giám đốc Công ty Quản lý khai thác dịch vụ thủy lợi
TPHCM, lo âu vì nhiều nguồn nước thải từ Tây Ninh, Bình Dương đang đổ vào sông
Sài Gòn. Trên cùng một dòng sông nhưng khúc có màu xanh đen, khúc lại đỏ bầm,
khúc thì mang màu trắng sữa...
Bao giờ hết ô nhiễm?
Đó là vấn đề nan giải, bởi theo ông Nguyễn Ngọc Huỳnh, Giám đốc Xí nghiệp Quản
lý khai thác công trình thủy lợi quận Thủ Đức, hầu hết các nhánh sông, kênh
chính của quận đã bị ô nhiễm và không thể một sớm một chiều khắc phục được.
Tại huyện Củ Chi, tình trạng ô nhiễm sông, kênh không trầm trọng như quận Thủ
Đức nhưng một cán bộ của Phòng Quản lý đô thị huyện cũng cho biết, phần lớn các
đoạn sông, kênh đi qua các khu công nghiệp đã bị nhuộm đen. Đây là hậu quả của
việc có quá nhiều cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong nội thành di dời ồ ạt ra
ngoại thành, trong khi ở ngoại thành, ngành chức năng chưa kịp lên quy hoạch,
chuẩn bị đất đai hợp lý cho các cơ sở này.
Hiện nay, thành phố cũng đã có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp được đầu
tư chu đáo để đón các doanh nghiệp di dời vào. Tuy nhiên, do giá cho thuê còn
vượt khả năng của nhiều doanh nghiệp nên họ không vào. Hơn nữa, đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuê hoặc mua đất nông nghiệp bên ngoài không những rẻ
hơn mà còn "né" được phí môi trường - một khoản tiền không nhỏ (!).
Ông Nguyễn Trường Xuân, Giám đốc Công ty Quản lý khai thác dịch vụ thủy lợi
TP.HCM, cho rằng từ khi thành phố có chủ trương di dời các cơ sở ô nhiễm ở nội
thành vào khu công nghiệp tập trung và vùng phụ cận, nhiều cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm dạt ra ngoại thành để tiếp tục hoạt động. Rõ ràng chẳng khác nào di chuyển
ô nhiễm từ nơi này đi nơi khác, nhưng trớ trêu hơn là di dời ô nhiễm lại lên đầu
nguồn các sông chảy về thành phố như sông Sài Gòn.
(Theo SGGP
http://www.laodong.com.vn/Home/Khong-con-song-xanh/200710/60472.laodong
6- 1,5 triệu dân dùng nước từ sông Sài Gòn ô nhiễm
Cơ quan chức năng đều biết rõ chất lượng nước sông Sài Gòn ngày càng suy giảm,
nhưng tới nay cũng chưa có giải pháp nào cụ thể để bảo vệ nguồn nước đang cung
cấp cho hơn 1,5 triệu người dân TP.HCM.
Hệ thống xử lý nước họat động hết công suất
Một cán bộ kỹ thuật ở Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco) tỏ ra bức xúc vì đã
chờ đợi quá lâu mà các cơ quan bảo vệ môi trường thành phố vẫn chưa có giải pháp
bảo vệ môi trường nước sông Sài Gòn, trong khi Sawaco hiện nay phải theo dõi
diễn biến chất lượng nước con sông này hằng giờ. Ông Võ Quang Châu, Phó tổng
giám đốc Sawaco nói: "Chúng tôi quan tâm nhất là các chỉ số biến đổi amoniac,
mangan, sắt, coliform và độ đục của nước sông Sài Gòn. Nhưng dù chất lượng nước
sông có thay đổi như thế nào, thì chất lượng nước sau khi xử lý cũng đều tốt hơn
tiêu chuẩn quy định. Tuy nhiên, nếu chất lượng nước sông không được cải thiện,
thì việc xử lý nước của Nhà máy nước Tân Hiệp sẽ càng khó khăn".
Giám đốc Nhà máy nước Tân Hiệp, ông Bùi Thanh Giang cho biết, từ năm 2004 đến
nay, chất lượng nguồn nước sông suy giảm rất nhanh qua từng năm. Đặc biệt
amoniac tăng rất cao, nếu trước đây tăng theo mùa, theo thủy triều, thì nay tình
trạng ô nhiễm này gần như tăng giảm thường xuyên trong ngày. Điều này dẫn đến
công suất hệ thống châm hóa chất để xử lý nước phải hoạt động ở mức sát tải
thiết kế, có lúc quá tải (hệ thống châm clor). Lượng hóa chất sử dụng tăng cao
dần qua các năm 2005-2007. Ông Bùi Thanh Giang cũng cho biết, Nhà máy nước Tân
Hiệp không có khả năng xử lý nếu có các chất độc hại xuất hiện trong nước sông.
Nước sông bị nhiễm những chất gì?
Trạm bơm nước thô của Nhà máy nước Tân Hiệp tại xã Hòa Phú, huyện Củ Chi đang bị
ô nhiễm "bao vây" từ phía thượng nguồn lẫn hạ nguồn. Ông Bùi Thanh Giang cho
biết, phía thượng nguồn thì ô nhiễm nước sinh hoạt và công nghiệp từ Bình Dương
theo nhánh sông Thị Tính đổ ra sông Sài Gòn, cùng với các cống xả, kênh rạch từ
các khu dân cư (không loại trừ chất thải công nghiệp) ở lân cận trạm bơm; còn
phía hạ nguồn có nước thải từ Khu công nghiệp Tân Quy, Tân Phú Trung chảy từ
rạch Bà Bếp đổ ra sông Sài Gòn.
Những năm qua, Sawaco và nhiều hộ dân ở TP.HCM đã từng phải xả bỏ nước đục do
nguồn nước sông Sài Gòn bị nhiễm mangan (Mn) và sắt. Nhóm nghiên cứu thuộc khoa
Môi trường, trường Đại học Bách khoa TP.HCM và khoa Kỹ thuật đô thị, trường Đại
học Tokyo (Nhật Bản) mới đây có khảo sát, đánh giá về ô nhiễm do Mn, sắt và
coliforms trên sông Sài Gòn, với kết luận nồng độ Mn tổng và sắt tổng trên sông
Sài Gòn đã vượt tiêu chuẩn chất lượng nước mặt loại A (dùng cho sản xuất nước
uống - TN) và đang là nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng nước cấp. Khảo sát dọc
theo sông Sài Gòn cho thấy, pH chỉ đạt tiêu chuẩn nước mặt loại B (5,5-9), DO
rất thấp, vi sinh cao vượt tiêu chuẩn chất lượng nước mặt sử dụng làm nước cấp.
Từ tháng 1 - 5 hằng năm, sông Sài Gòn còn bị nhiễm mặn và Sawaco phải tốn khoảng
3-4 tỉ đồng mỗi năm để Công ty khai thác thủy lợi Dầu Tiếng xả nước hồ, đẩy mặn
trên sông Sài Gòn, nếu không, hơn 1,5 triệu người dân Sài Gòn sẽ phải uống nước
bị nhiễm mặn.
Bảo vệ môi trường nước - việc cấp bách
GS.TS Lâm Minh Triết, Viện trưởng Viện Nước và công nghệ môi trường - nói về
những mối đe dọa từ chuyện ô nhiễm dòng sông Sài Gòn: "Chưa bao giờ sông Sài Gòn
được quan tâm nhiều như hiện nay bởi những diễn biến ngày càng xấu về chất lượng
nước của dòng sông đe dọa nghiêm trọng đến đời sống xã hội; trước hết đe dọa
trực tiếp đến nhu cầu cấp nước cho thành phố và đe dọa nghiêm trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững của TP.HCM, Tây Ninh và Bình Dương trên lưu vực
sông Sài Gòn". GS.TS Lâm Minh Triết cho rằng, đến lúc cần phải thực hiện một
chương trình nghiên cứu bài bản và thực sự nghiêm túc, có cơ sở khoa học và thực
tiễn xác định chính xác được các nguyên nhân gây ô nhiễm, nhằm đề xuất các giải
pháp bảo vệ nguồn nước sông Sài Gòn. "Chúng ta sẽ có lỗi rất to lớn với nhân dân
trên lưu vực sông và thế hệ mai sau nếu chúng ta không gìn giữ, không bảo vệ
được nguồn nước sông Sài Gòn" - GS.TS Lâm Minh Triết nói.
Báo chí đã tốn nhiều giấy mực lên tiếng báo động về tình trạng ô nhiễm trên sông
Sài Gòn. Cuối năm 2007, ông Nguyễn Văn Phước, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố đã giao cho Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM, Phòng Quản lý môi
trường của Sở phối hợp cùng với Viện Nước và công nghệ môi trường trong quý
1/2008 phải xây dựng xong kế hoạch bảo vệ nguồn nước sông Sài Gòn, trước mắt cho
khu vực lấy nước thô của Nhà máy nước Tân Hiệp (ở xã Hòa Phú, huyện Củ Chi).
Nghĩa là còn phải đợi xong kế hoạch, bàn triển khai, tổ chức thực hiện và còn
nhiều bước nữa - trong khi nước sông Sài Gòn ngày càngâ ô nhiễm hơn.
Mai Vọng (Thanhnien 10.1.08)
http://www.greenhanoi.org.vn/vi/news/printpreview.php?newid=news110120080841237802
7- TP Hồ Chí Minh: Những vùng nước ô nhiễm theo chỉ số quốc tế
Phân viện Công nghệ mới và Bảo vệ môi trường vừa thực hiện đề tài "Phân vùng
chất lượng nước theo chỉ số chất lượng nước (WQI) ở TP.HCM”. PGS-TS Lê Trình
giải thích về ý nghĩa của việc đánh giá chất lượng nước theo WQI.
- Thưa ông, điều gì khiến cho việc nhất thiết chúng ta phải có chỉ số chất lượng
nước (WQI)?
PGS-TS Lê Trình
- Nói một cách đơn giản, dễ hiểu, WQI (Water Quality Index) là công thức toán
học mô phỏng mức độ ô nhiễm nguồn nước sông, hồ dựa trên giá trị phân tích các
thông số đặc trưng về chất lượng nước.
Dựa vào đó các nhà lãnh đạo và cả người dân bình thường cũng có thể biết chất
lượng và mức độ ô nhiễm nước ở từng đoạn sông vào từng thời điểm, từ đó có thể
biết nguồn nước ấy có thể sử dụng được cho sinh hoạt, nuôi tôm cá, thủy lợi…
được hay không.
Một địa phương hoặc một quốc gia nếu có mạng lưới quan trắc chất lượng nước đồng
thời lại có qui định về WQI thì có thể thực hiện công tác quản lý tài nguyên
nước, phòng chống ô nhiểm, sử dụng nước hợp lý và an toàn. Chính vì vậy nhiều
nước tiên tiến, nhất là Hoa Kỳ, Canada, Anh và một số nước đang phát triển như
Ấn Độ, Thổ Nhĩ kỳ… đang triển khai rộng rãi các hệ thống WQI ở nhiều lưu vực
sông. Với các lợi ích đã được chứng minh nước ta trước hết là các thành phố lớn,
các lưu vực sông quan trọng cần nghiên cứu thiết lập và ứng dụng Hệ thống WQI.
- Nếu đem hệ thống WQI nói trên so sánh với các tiêu chuẩn hiện hành mà chúng ta
đã và đang sử dụng từ trước tới nay thì WQI có những ưu điểm gì?
- Mục đích của đề tài “Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước theo chỉ số chất
lượng nước (WQI) và đánh giá khả năng sử dụng các nguồn nước sông, kênh rạch ở
vùng TP.HCM” là (a) xác định cơ sở khoa học lựa chọn các thông số để lập các mô
hình WQI phù hợp đặc điểm môi trường nước TP.HCM, (b) áp dụng mô hình WQI để
phân loại, phân vùng chất lượng nước, (c) đề xuất, đánh giá khả năng sử dụng
nước các đoạn sông, kênh, rạch ở TP.HCM.
Đây là lần đầu tiên ở lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn và các sông phía Nam được
phân loại chất lượng nước theo hệ thống WQI có tính quốc tế hoá.
Chỉ số chất lượng nước là biện pháp lượng hoá dễ hiểu về mức độ ô nhiễm nước tại
vị trí cụ thể, thời điểm cụ thể. Dựa vào đó người dân có thể biết được nguồn
nước mà mình đang sử dụng đạt loại gì (rất tốt - không ô nhiễm, tốt - ô nhiễm
nhẹ, trung bình - ô nhiễm trung bình, xấu - ô nhiễm nặng hoặc rất xấu - ô nhiễm
nghiêm trọng) và sử dụng có an toàn cho mục đích mong muốn hay không? Bằng cách
đánh giá mức độ ô nhiễm nước bằng số học (cho điểm từ 0 đến 100) qua WQI ta có
thể hiểu chất lượng nước tại từng điểm trên dòng sông vào từng thời điểm.
Ví dụ khi được thông báo WQI của sông Sài Gòn tại cầu Bình Lợi vào ngày 25 tháng
5 là 30, người dân sẽ hiểu là vào thời điểm đó sông Sài Gòn tại đây đã bị ô
nhiễm ở mức nặng, không nên sử dụng cho cấp nước sinh hoạt, thủy sản, bơi lội.
Ngược lại, nếu được thông báo giá trị WQI của sông Lòng Tàu là 90 thì người dân
sẽ hiểu là chất lượng nước tại khu vực này rất tốt, có thể sử dụng an toàn cho
nuôi tôm, cá, du lịch, thể thao dưới nước.
Tuy nhiên, để làm được điều đó, các cơ quan chức năng (Sở TNMT hoặc Bộ TNMT) cần
phải có các điều kiện sau:
(a) Thiết lập và hoạt động mạng lưới quan trắc môi trường nước với nhiều điểm
thu mẫu và phân tích trên các dòng sông chính theo tần suất tuương đối dày, với
nhiều thông số quan trắc, ít nhất phải có các thông số trong công thức WQI đà
được lập.
(b) Tính toán các giá trị WQI và công khai thông tin cho lãnh đạo và công chúng
theo định kỳ.
(c) Diễn giải cách phân loại chất lượng nước theo WQI một cách dễ hiểu: Chỉ số
WQI là gì? Qui định chất lượng nước theo điểm số: bao nhieu điểm lầ loại tốt,
bao nhiêu điểm là loại xấu v.v…Loại nước nào có thể sử dụng cho sinh hoạt, loại
nào sử dụng an toàn cho nuôi thủy sản, loại nào không nên sử dụng mà phải xử lý…
Bản đồ phân vùng chất lượng nước sông, kênh rạch TP Hồ Chí Minh theo HCM-WQI
8.2007 (theo Lê Trình, 2007)
Hiện ở Việt Nam chưa có hệ thống chung để phân vùng chất lượng nước, hơn 15 năm
trước chúng tôi đã nghiên cứu phân vùng chất lượng nước cho lưu vưc sông Đồng
Nai – Sài Gòn nhưng chưa có công cụ về tin học để cập nhật số liệu định kỳ.
Trong các năm 2004-2006 Khoa Hóa học - Đại học Huế cũng đã vận dụng phương pháp
tính chỉ số WQI của Ấn Độ áp dụng cho việc phân loại chất lượng các sông khu vực
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
Hiện nay TP Hà Nội đã bắt đầu triển khai đề tài nghiên cứu phân vùng chất lượng
nước khu vực Hà Nội bằng hệ thống WQI và đề xuất biện pháp sử dụng hợp lý nguồn
nước (chủ nhiệm : Lê Trình). Hy vọng là trên cơ sở kết quả của các đề tài này
việc xác lập và áp dụng WQI trong quản lý môi trường ở Việt Nam sẽ thành hiện
thực sau năm 2010.
Phương pháp WQI tương đối đơn giản, ít tốn kém so với việc phải phân tích toàn
bộ các thông số ô nhiễm có trong các tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường nước (ví
dụ theo TCVN 5942-1995phải phân tích 37 thông số). Hệ thống WQI của TP Hồ Chí
Minh theo đề tài đề xuất chỉ yêu cầu phân tích 10 thông số chọn lọc hoặc ít nhất
là 6 thông số là có thể đánh giá tổng quát về chất lượng nước toàn bộ lưu vực.
Nguồn nước ô nhiễm làm cá chết, phơi bụng trắng phau trên sông Sài Gòn. Ảnh: VNN
- Giả sử chỉ số WQI được Nhà nước công nhận và đưa vào danh sách thành quy chuẩn
pháp lý thay cho các tiêu chuẩn hiện hành thì nó có những đóng góp gì cho sự
phát triển kinh tế xã hội không thưa ông?
- Trước tiên, cần phải khằng định rằng, hệ thống WQI này không thể thay thế cho
các Tiêu chuẩn chất lượng nước chuyên ngành (TCVN về nước cấp cho sinh hoạt,
thủy sản, thủy lợi…). WQI chỉ đánh giá một cách khái quát chất lượng nước cho
một lưu vực, một dòng sông, một hồ nước cụ thể. WQI không phải là tiêu chuẩn,
hoặc quy chuẩn kỹ thuật. Tuy nhiên do WQI có thể khái quát chất lượng nước cho
một lưu vực sông hoặc một vùng cụ thể nên đây là công cụ rất hiệu quả trong quản
lý môi trường, quan trắc ô nhiễm, đánh giá tác động môi trường, đánh giá hiệu
quả xử lý ô nhiễm, đánh giá sơ bộ khả năng sử dụng nước. Nếu áp dụng theo hệ
thống WQI tại khu vực TP.HCM và các lưu vực trong cả nước chắc chắn sẽ nâng cao
hiệu quả BVMT, tiết kiệm đáng kể nguồn chi phí về tiền của và nhân lực cho các
địa phương.
- Thế còn việc quản lý nước thì sao?
- Mục tiêu của đề tài này chính là để phục vụ cho yêu cầu quản lý và sử dụng hợp
lý, an toàn các nguồn nước, qua hệ thống WQI chúng ta sẽ quản lý được chất lượng
nước tại từng thời điểm, từng khu vực cụ thể, các cơ quan chức năng có thể dựa
vào đó để đánh giá mức độ ô nhiễm nguồn nước, tìm ra nguyên nhân và biện pháp
khắc phục chất lượng nước cho phù hợp với từng mục đích sử dụng. Theo kinh
nghiệm của nhiều quốc gia hệ thống này được đánh giá là có hiệu quả cao trong
bảo vệ tài nguyên nước.
- Xin cảm ơn ông!
Đặc điểm chất lượng nước (CLN) đoạn sông, kênh rạch ở TP Hồ Chí Minh
Sông/kênh Đoạn Phân loại CLN theo WQI Đặc điểm CLN Khả năng sử dụng
Đồng Nai Ngã 3 Đèn Đỏ đến P. Long Trường Q.9 III Nhiễm mặn nhẹ vào mùa khô; ô
nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, vi sinh, độ đục, chất rắn lơ lửng (SS):
trung bình Thủy lợi (vào mùa mưa); Nuôi thủy sản nước ngọt; Du lịch, thể thao
dưới nước.
P. Long Trường Q.9 – Cầu Đồng Nai II Nhiễm mặn nhẹ vào mùa khô, ô nhiễm do hữu
cơ, dinh dưỡng, vi sinh, dầu mỡ, độ đục, SS: nhẹ Như trên
Cầu Đồng Nai – Cầu Hóa An II Không nhiễm mặn. Ô nhiễm do hữu cơ, dinh dưỡng, dầu
mỡ, độ đục, SS: nhẹ Cấp nước thủy lợi, thủy sản (nước ngọt). Cấp nước sinh hoạt
(cần xử lý ô nhiễm do dầu mỡ, hóa chất độc hại)
Sài Gòn Từ ranh giới giáp Tây Ninh – Bến Đình (Củ Chi) II Không nhiễm mặn. Ô
nhiễm nhẹ do hữu cơ, dinh dưỡng, chua phèn và vi sinh: trung bình; SS, độ đục:
nhẹ. Cấp nước sinh hoạt, thủy sản nước ngọt, du lịch, thể thao dưới nước.
Bến Đình – X. Nhị Bình (Củ Chi) III Không nhiễm mặn. Ô nhiễm do chua phèn (axit
hóa) trung bình đến nặng. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, SS, độ đục, vi
sinh: trung bình Cấp nước cho thủy sản nước ngọt (không an toàn vì chua phèn)
cấp nước cho nhà máy nước (cần xử lý pH), du lịch, thể thao dưới nước.
Nhị Bình – Cầu Bình Phước (Quận 12) III Nhiễm mặn thời gian ngắn vào mùa khô, ô
nhiễm do axit hóa nhẹ. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh:
trung bình. Nuôi cá nước ngọt (không an toàn do thay đổi về độ mặn, pH và ô
nhiễm hữu cơ). Không phù hợp CLN cho các nhà máy nước
Thể thao dưới nước, du lịch:hạn chế
Cầu Bình Phước – Cầu Sài Gòn III Nhiễm mặn thời gian ngắn vào mùa khô. Không
nhiễm phèn. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: trung bình
đến nặng Nuôi cá nước ngọt (kém an toàn) – Không sử dụng cấp nước sinh hoạt.
Thể thao dưới nước, du lịch: rất hạn chế
Cầu Sài Gòn – Cảng Tân Thuận III - IV Nhiễm mặn vào mùa khô. Không nhiễm phèn. Ô
nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nặng Không sử dụng cho
thủy sản, thủy lợi, sinh hoạt, thể thao dưới nước, du lịch.
Cảng Tân Thuận – Ngã 3 Đèn Đỏ III Nhiễm mặn quanh năm. Không nhiễm phèn. Ô nhiễm
hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: trung bình đến nặng. Như trên
Sông Chợ Đệm Cầu Bình Điền – Giáp huyện Bến Lức (Long An) III Nhiễm phèn: trung
bình, nhiễm mặn nhẹ vào mùa khô. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS,
vi sinh: trung bình đến nặng. Không sử dụng cho thủy lợi, thủy sản, cấp nước
sinh hoạt
Sông Cần Giuộc – Các sông rạch ở Nam Bình Chánh – Nhà Bè Toàn bộ các sông, rạch
III Nhiễm phèn: nhẹ; Nhiễm mặn vào mùa khô.
Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ đến trung bình. Cấp nước
cho thủy sản (an toàn không cao do CLN thường thay đổi).
Không cấp nước cho thủy lợi (vào mùa khô) không cấp nước sinh hoạt.
Sông Nhà Bè Từ hợp lưu với sông Sài Gòn đến phà Bình Khánh III Không nhiễm phèn.
Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh:
nhẹ đến trung bình Có thể cấp nước cho thủy sản nước lợ, không cấp nước cho thủy
lợi, sinh hoạt
Sông Soài Rạp Từ phà Bình Khánh đến cửa Soài Rạp II Không nhiễm phèn. Nhiễm mặn
quanh năm. Ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ Cấp nước
cho thủy sản (lợ, mặn), du lịch, thể thao dưới nước. Không sử dụng cho thủy lợi,
cấp nước sinh hoạt.
Lòng Tàu – Ngã Bảy, Vàm Sát Toàn tuyến II Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm hữu cơ,
dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nhẹ Cấp nước cho thủy sản (lợ - mặn),
du lịch, thể thao dưới nước.
Đồng Tranh – Gò Da Toàn tuyến II - III Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm do hữu cơ,
dinh dưỡng, vi sinh: nhẹ đến trung bình (sông Gò Da: ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng:
trung bình). Cấp nước cho thủy sản (lợ, mặn): không an toàn vì ảnh hưởng nước
thải từ sông Thị Vải. Không sử dụng cho thủy lợi, cấp nước sinh hoạt. Có thể
phục vụ du lịch, thể thao dưới nước.
Thị Vải Khu vực xã Thạnh An (huyện Cần Giờ) III Nhiễm mặn quanh năm. Ô nhiễm do
hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh: trung bình đến nặng. Cấp nước cho thủy sản: không
an toàn vì nguồn thải từ thượng lưu Thị Vải. Không sử dụng cho thủy lợi, cấp
nước sinh hoạt. Có thể phục vụ du lịch, thể thao dưới nước.
Các kênh rạch nội thành Các lưu vực Đôi – Tẻ, Tân Hóa – Lò Gốm, NL – TN, Tham
Lương – Bến Cát – Rạch Nước Lên IV-V Hầu như không nhiễm mặn. Nhiễm phèn nhẹ. Ô
nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, dầu mỡ, độ đục, SS, vi sinh: nghiêm trọng. Không sử
dụng được cho thủy lợi, thủy sản, cấp nước sinh hoạt, thể thao dưới nước, du
lịch.
* Nguồn: Tổng hợp của Lê Trình - Đề tài “Nghiên cứu phân vùng CLN TP Hồ Chí
Minh”
Mai Linh
( Theo báo Vietnamnet )
http://www.wet-office.com/index.php?module=news&id=27
8- Tình hình cung cấp nước sạch cho các khu dân cư nghèo ở Việt Nam
Nước sạch là một nhu cầu căn bản nhất của con người và là trọng tâm của các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ, nó còn là yếu tố thiết yếu để xoá đói giảm nghèo.
Nước sạch góp phần nâng cao sức khoẻ, giảm thiểu bệnh tật, tăng sức lao động,
cải thiện điều kiện sống và mang lại một cuộc sống văn minh đang là đòi hỏi bức
bách của người dân sống trong các khu dân cư nghèo. Tuy nhiên, cho đến nay, ở
nhiều khu nghèo, người dân vẫn đang sử dụng nước không hợp vệ sinh cho các nhu
cầu sinh hoạt, dẫn tới các hậu quả là tỷ lệ mắc các bệnh lây lan do nước rất
cao.
1. Đặc điểm các khu dân cư nghèo ở Việt Nam
Khu dân cư nghèo hay khu ổ chuột (gọi tắt là LIA theo định nghĩa của Ngân hàng
Thế giới) thường được gọi là “khu vực thu nhập thấp” là các khu vực chưa được
quan tâm hoặc chưa có nguồn vốn của thành phố để đầu tư cải tạo; gồm các khu
chung cư đông dân nghèo ở trong nội thị, những nơi ở lấn chiếm, phát triển không
theo quy hoạch không được luật pháp công nhận, hợp thức hoá tại khu vực ven đô,
thiếu các điều kiện sống và sinh hoạt, như: Các dịch vụ đô thị cơ bản về hạ tầng
kỹ thuật (nước, vệ sinh, thu gom rác thải, thoát nước mưa, đèn đường, vỉa hè,
đường giao thông); và về hạ tầng xã hội (trường học, trạm xá, khu vực an toàn
cho trẻ em vui chơi, không gian giao tiếp của cộng đồng) và các dịch vụ tối
thiểu khác.
Cả nước hiện nay còn 2,25 triệu hộ nghèo, trong đó có 30 vạn hộ thường xuyên bị
thiếu đói. Đa số người nghèo làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công
việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Người nghèo dễ bị tổn thương do
sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc có
ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm,
thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương
trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó
khăn tới những người có khả năng giải quyết, họ ít được tham gia vào quá trình
ra quyết định... (nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2006: “Nghèo”)
Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã làm tăng số lượng người di cư tự do
từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi
lao động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này
trong các báo cáo về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn
trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm
được công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận với các dịch
vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao
hơn so với người dân đã có hộ khẩu. Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao
trong các nhóm đối tượng xã hội khác như những người không nghề nghiệp, người
lang thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mại dâm, nghiện hút, cờ
bạc...).
Hầu hết, trong các khu dân cư nghèo, hệ thống hạ tầng kỹ thuật không đáp ứng đủ
cho nhu cầu của người dân, phần lớn là manh mún, nhỏ lẻ và xuống cấp nghiêm
trọng. Người dân phải chịu cảnh sống trong các ngõ xóm, đường ra vào ngõ rất nhỏ
và xấu, chịu thực trạng từ xưa để lại, tự phát không theo bất kỳ quy hoạch nào,
nên đi lại rất khó khăn. Hiện nay, nhiều đường làng, ngõ xóm đã được bê tông hoá
và có cải thiện đáng kể, song vẫn chưa thoát khỏi khó khăn của cảnh nghèo. Tình
trạng lầy lội, úng ngập thường xuyên trong các khu nghèo khi có mưa là rất phổ
biến, do không có hệ thống thoát nước mưa. Rất ít hộ nghèo được hưởng đầy đủ
dịch vụ cung cấp nước sạch, mặc dù ở một số nơi đã được đấu nối, nhưng không đủ
nước hoặc không có nước do hệ thống cấp nước xuống cấp, và chưa có kinh phí cải
tạo, nâng cấp. Đa số các hộ trong khu nghèo tự khoan đào giếng để sử dụng, nên
nước không đảm bảo chất lượng vệ sinh. Hệ thống thoát nước chủ yếu là cống, rãnh
hở, mất vệ sinh. Nước thải sinh hoạt, chăn nuôi xả trực tiếp ra cống, đổ ra ao,
hồ trong khu vực, gây ô nhiễm môi trường và nguồn nước nghiêm trọng. Đây là
nguyên nhân chính gây ra các bệnh truyền nhiễm và bệnh hiểm nghèo trong dân. Rác
thải thu gom không triệt để, phần lớn đổ xung quanh nhà, đổ không đúng nơi quy
định, gây mất vệ sinh trong khu vực dân cư và ảnh hưởng đến môi trường sống của
chính mình. Mạng lưới điện cũ, thiếu an toàn, chất lượng dịch vụ cấp điện còn
thấp – thường xuyên xảy ra nhiều sự cố... người dân phải chi trả tiền điện với
giá cao. Hệ thống điện chiếu sáng công cộng thì hầu như không có. Dịch vụ bưu
chính viễn thông tương đối ổn định hơn so với các dịch vụ khác trong hệ thống hạ
tầng kỹ thuật đô thị ở các khu nghèo. Song mức độ chi trả tiền dịch vụ quá cao
so với thu nhập của người nghèo. Nhà ở với diện tích thấp, đủ loại mái lợp,
tường bao khác nhau (kiên cố, bán kiên cố, tạm bợ...), các công trình công cộng
khác như: chợ, trường học, y tế, công viên, vườn hoa... đều cách xa khu nghèo.
Qua khảo sát của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (World Bank) cho thấy: Trong
các khu đô thị nghèo: hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém và thiếu thốn các dịch vụ
cơ bản. Tốc độ đô thị hoá hiện đang tăng cao dẫn đến hiện tượng di cư ra thành
thị ngày một lớn. Do đó, đói nghèo từ nông thôn đang dần chuyển sang thành thị.
Hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của
dân nghèo. Năm 2007 đã có hơn 20 triệu người dân nông thôn lên thành thị (chiếm
27,1%) và dự kiến tới năm 2010 sẽ có khoảng 35% và 2020 là 45%. Trong khi đó,
động lực phát triển các đô thị Việt Nam còn yếu, tăng trưởng kinh tế chưa cân
xứng với tăng dân số và hạ tầng kỹ thuật đô thị; sự phân bổ dân cư không cân đối
và thêm nữa, còn sự cách biệt rất lớn giữa điều kiện sống ở đô thị và nông thôn
ngay cả các vùng miền trong cùng một đô thị.
Các khu dân cư nghèo xuất hiện ở nhiều đô thị, rất đa dạng nhưng có thể nêu lên
4 loại khu dân cư nghèo tiêu biểu là:
+ Khu dân cư đánh bắt hải sản (dân vạn chài), đó là các khu dân chài nghèo ở các
thành phố ven biển. Khu nghèo này chịu nhiều rủi ro kinh tế khi ngư dân đánh bắt
gặp phải thời tiết xấu như bão, gió, thiên tai,... liên tục xảy ra. Ngoài đánh
bắt hải sản theo mùa, họ còn làm các nghề tự do khác như: sơ chế hải sản, buôn
bán chạy chợ và các dịch vụ khác,... vì thế thu nhập thường không ổn định, đời
sống bấp bênh.
Nhà ở phần lớn là nhà tạm bợ, diện tích chật hẹp, mỗi căn hộ có khoảng 5 – 6
nhân khẩu sống trong gian nhà 30m2. Cơ sở hạ tầng thấp kém, đường sá hẹp, quanh
co, mặt đường bằng đất cát, không được cấp nước, không có cống rãnh thoát nước,
khi mưa thì ngập úng, nước thải sinh hoạt tự thấm xuống cát. Vệ sinh môi trường
rất kém, không có hố xí tự hoại ở các gia đình. Người dân phải sử dụng nhà vệ
sinh công cộng, thậm chí không có nhà vệ sinh mà phải đi đại tiện ở bãi biển,
bãi sông. Các hộ không có công tơ điện thường phải câu nhờ từ hàng xóm.
+ Khu dân cư nghèo nằm ở trung tâm các thành phố lớn.
Đặc điểm của các khu dân cư nghèo này là đa số làm nghề tự do, buôn thúng bán
bưng, thu nhập thấp và không ổn định. Mật độ dân số cao: 200 – 300 người/ha. Nhà
ở, có tới 70 – 80% là nhà tạm 1 tầng, 1 hộ trung bình có 6 – 7 người sinh sống,
thậm chí có nhà chỉ có 30m2 mà có tới 3 thế hệ sống chung với nhau. Giao thông,
khu phố có nhiều ngõ, hẻm, chiều rộng mặt hẻm hẹp từ 1 – 1,5 m, đi lại rất khó
khăn. Mặt đường là đường cấp phối. Không có hệ thống thoát nước, chỉ có một số
đoạn mương hở hoặc mương nắp đan, nước thải sinh hoạt chảy tràn trên mặt đường.
Tình trạng vệ sinh rất kém, rác thải chưa được thu gom hết, có nhiều bãi rác đổ
ngay trên mương trong khu dân cư, bốc mùi xú uế, nồng nặc. Các đường ống cấp
nước và cống thoát nước chồng chéo lên nhau, gây khó khăn cho việc sửa chữa và
bảo dưỡng đường ống. Mặt đường chật hẹp đến mức không thể lắp cột điện vào các
ngõ, các hộ đều phải câu dây điện từ xa, dây điện mắc nhằng nhịt, không an toàn,
tổn thất điện năng lớn.
+ Khu dân cư nghèo là những khu dân cư mới chuyển từ làng xã lên phường (từ làng
xóm chuyển lên thành phố). Trong mấy năm gần đây, nhiều đô thị đã mở rộng ranh
giới, thành lập các quận và phường mới. Đặc điểm chủ yếu của các phường mới
chuyển từ xã lên phường là: Thu nhập của các hộ dân là thấp, tỉ lệ hộ thu nhập
<300.000 VND/tháng/người là khá cao, chiếm trên 20%, có khu là 45%, vì đang
trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề sản xuất
công nghiệp và các chức năng chuyên dùng khác. Cơ sở hạ tầng của các khu dân cư
nghèo loại này còn rất yếu kém, phổ biến nhất là chưa có hệ thống thoát nước,
nước thải sinh hoạt chỉ thấm ra khu xung quanh, có khi chảy tràn trên mặt đường,
nhiều khu chưa được cấp nước máy, nhân dân phải dùng nước giếng khơi và nước
sông. Chất lượng nước không hợp vệ sinh, đường sá trong các khu dân cư chưa được
quy hoạch và phần lớn mặt đường là đường đất, không có chiếu sáng công cộng ở
các tuyến đường. Vệ sinh môi trường thấp kém, chỉ có một bộ phận hộ gia đình có
hố xí bán tự hoại, số còn lại là dùng hố xí 2 ngăn, 1 ngăn, xí tạm không hợp vệ
sinh; Rác thải sinh hoạt ít được thu gom, còn chôn lấp tại vườn nhà.
+ Khu dân cư nghèo bên cạnh các xí nghiệp công nghiệp.
Ngoài những khu nghèo xen kẽ trong các khu đô thị thì hiện tượng các khu nghèo
đang bắt đầu xuất hiện của những công nhân lao động tạm bợ bên cạnh các xí
nghiệp công nghiệp. Do các khu công nghiệp đầu tư ồ ạt, thiếu vốn, thiếu năng
lực, không quan tâm đến nơi ở của công nhân đã làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi
trường ở đô thị. Sự gia tăng các khu nghèo trong đô thị do tăng nhanh lao động
từ công nghiệp và của học sinh các trường đại học dạy nghề mới ở thuê rải rác
xen kẽ trong các đô thị lớn và các vùng ven đô đang là mối đe doạ làm cho đô thị
nghèo đi và môi trường xuống cấp. Đây chính là một trong những hiện tượng mới,
một hình thức làm nhanh chóng phát triển các khu nghèo kiểu mới và sự xuống cấp
của các khu đô thị.
Đặc điểm chung của các khu dân cư nghèo tỉ lệ % hộ thu nhập thấp là khá cao, cơ
sở hạ tầng, nhà ở thấp kém, môi trường bị ô nhiễm, nhiều bệnh tật phát sinh ảnh
hưởng đến sức khoẻ của dân cư và sự phát triển bền vững của đô thị.
2. Tình hình cung cấp nước sạch cho các khu dân cư nghèo ở Việt Nam.
Nước sạch là một nhu cầu căn bản nhất của con người và là trọng tâm của các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ, nó còn là yếu tố thiết yếu để xoá đói giảm nghèo.
Nước sạch góp phần nâng cao sức khoẻ, giảm thiểu bệnh tật, tăng sức lao động,
cải thiện điều kiện sống và mang lại một cuộc sống văn minh đang là đòi hỏi bức
bách của người dân sống trong các khu dân cư nghèo.
Tuy nhiên, cho đến nay, ở nhiều khu nghèo, người dân vẫn đang sử dụng nước không
hợp vệ sinh cho các nhu cầu sinh hoạt, dẫn tới các hậu quả là tỷ lệ mắc các bệnh
lây lan do nước rất cao. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): 80% các
bệnh đường ruột trên thế giới đều bắt nguồn từ nguồn nước không an toàn.
Hiện nay, hầu hết ở các khu nghèo, người dân phải tự lo nguồn nước sinh hoạt cho
mình. Họ sử dụng đủ loại nguồn nước. Nước mặt bao gồm: sông, suối, ao, hồ, kênh
rạch và các giếng mạch nông như giếng làng. Nước mưa hứng trực tiếp hoặc thu tà
các mái nhà. Nước ngầm bao gồm: Nước ngầm mạch nông, mạch nước lộ thiên và nước
ngầm sâu. Nước mưa không thiếu, nhưng tới 85 – 90% tổng lượng mưa chỉ tập trung
vào mùa mưa, khoảng 4 – 5 tháng. Một vấn đề đáng quan tâm là chất lượng của các
nguồn nước này bị ô nhiễm ở mức độ cao, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Hồng
và sông Cửu Long. Hàng ngày, người dân nghèo vẫn tắm giặt, ăn uống bằng những
nguồn nước này do không đảm bảo vệ sinh nên nguy cơ mắc các bệnh đường ruột,
bệnh ngoài da là rất cao.
Qua khảo sát tình hình sử dụng nước sinh hoạt của người dân ở những khu nghèo
cho thấy, ở nhiều nơi người dân sử dụng nguồn nước mưa để phục vụ cho nhu cầu
ăn, uống, nguồn nước ngầm lấy lên từ các giếng khoan và giếng khơi để tắm, giặt
và phục vụ cho các sinh hoạt thường ngày khác. Đối với nước mưa, do sự phát
triển nhanh chóng của các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp kéo theo lượng khí
thải thoát ra từ các nhà máy tăng lên nhanh chóng. Khi mưa xuống, những chất
thải độc hại theo nước mưa rơi xuống bể chứa nước của người dân. Người dân trực
tiếp sử dụng nguồn nước này, rất dễ mắc bệnh.
Còn đối với các nguồn nước ngầm, không phải ở đâu nước lấy lên từ giếng khoan và
giếng khơi cũng đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Nhiều nơi, hàm lượng sắt trong nước cao
hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, chính vì vậy nếu sử dụng nguồn nước này sẽ
gây ra những hậu quả không tốt cho sức khoẻ. Để hạn chế lượng sắt có trong nước,
người dân đã thực hiện loại bỏ bằng cách xây bể lọc nước nhỏ, nhưng với phương
pháp và trình độ kỹ thuật hạn chế, những giải pháp mà người dân nghèo đang thực
hiện thì hiệu quả không cao. Lượng nước ngầm giờ đây ngày càng bị ô nhiễm do
lượng chất thải và nước thải trong sinh hoạt, đặc biệt nguồn nước thải công
nghiệp từ các nhà máy, xí nghiệp ngày càng tăng. Ở những khu nghèo bên cạnh
những làng nghề truyền thống như làm hương, dệt nhuộm, thu gom chất phế thải,
đúc đồng, thuộc da... thì nguồn nước ngầm lại càng bị ô nhiễm nặng nề hơn. Nguồn
nước ngầm người dân đang khai thác để sử dụng không những ngày càng bị ô nhiễm,
mà còn có nguy cơ cạn kiệt. Ở nhiều nơi, nguồn nước ngầm không đủ cung cấp cho
nhu cầu sinh hoạt tăng đột biến của người dân nghèo trong những tháng hè.
Đặc điểm của việc cấp nước trong các khu nghèo là thường phân tán nhỏ, lẻ. Nước
ta trải dài trên 2000 km, điều kiện địa chất, thuỷ văn, khí hậu các vùng khác
nhau rõ rệt. Vì vậy, việc lấy nước và sử dụng nước cho các nhu cầu sinh hoạt của
người dân cũng khác nhau:
Đối với khu nghèo vùng ven biển. Nguồn nước ngọt khan hiếm, nước mặt và nước
mạch ngang bị nhiễm mặn. Nguồn nước họ dùng chủ yếu là nước mưa. Phương tiện
chứa là chum, vại, bể gạch... Nhiều nơi, người dân vẫn dùng nước giếng khơi bị
nhiễm mặn (nước lợ).
Các khu nghèo ở vùng trung du (độ cao 25 – 300m so với mặt nước biển). Có mạch
nước ngầm nông, chất lượng nước tốt và đầy đủ. Nước mưa chỉ là nguồn hỗ trợ
thêm.
Ở vùng núi thấp (độ cao 300 – 600m so với mặt nước biển). Các khu nghèo ở vùng
này chủ yếu là dân tộc thiều số. Nguồn nước tự nhiên bị ảnh hưởng do nạn phá
rừng. vào mùa khô, hồ chứa cạn nước, giếng đào cũng cạn. Đây là vùng khó khăn
nhất về nguồn nước sinh hoạt.
Vùng núi cao (độ cao từ 600m trở lên). Ở đây, chủ yếu là dân tộc thiểu số sinh
sống, vùng này có mật độ nghèo cao nhất trong cả nước. Các khu nghèo ở đây vẫn
còn phong tục tập quán lạc hậu. Nguồn nước sinh hoạt của họ chủ yếu dựa vào
nguồn nước ngầm mạch lộ thiên chảy từ các khe núi.
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, nguồn nước mặt phong phú, các hộ nghèo dùng nước
sông, nước ở các kênh rạch để uống còn rất phổ biến. Qua khảo sát ngẫu nhiên ở
100 hộ gia đình trong một khu nghèo thuộc tỉnh Long An cho thấy: Hơn 50% hộ
nghèo uống nước sông, kênh, rạch trong mùa nắng. Trong mùa mưa, tỉ lệ này giảm
xuống những vẫn ở mức cao hơn 30%.
Còn ở Vĩnh Long, qua khảo sát ngẫu nhiên ở 100 hộ gia đình trong một khu nghèo
cho thấy:
Vào một mùa nắng, có 61% hộ gia đình sử dụng nước sông để uống. Vào mùa mưa, tỷ
lệ này có thấp hơn nhưng vẫn ở mức trên 10%.
Vấn đề đáng lo ngại ở đây là hầu như nước lấy lên từ sông, rạch chỉ được xử lý
qua loa trước khi uống. Đa số người sử dụng nước sông, mưa hoặc giếng đều nói là
họ có xử lý nước trước khi uống. Tuy nhiên, khái niệm xử lý của những người được
phỏng vấn có thể không hoàn toàn giống nhau. Đối với 85,2% người dùng nước sông,
kênh có xử lý trong mùa mưa và 98,8% có xử lý trong mùa nắng, cách xử lý phổ
biến nhất là cho lắng trong bằng phèn hoặc để lắng trong tự nhiên.
Chưa có một khảo sát quy mô về tình hình ô nhiễm của các dòng sông và kênh rạch
ở Đông bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Nhưng trên thực tế dễ dàng thấy sự ô nhiễm
trầm trọng của những con sông, kênh rạch bởi phân người từ những “cầu tiêu ao
cá” trên sông, từ thói quen vứt tất cả xuống kênh, rạch của người dân. Khuynh
hướng sử dụng thuốc trừ sâu ngày càng tăng dẫn đến một dư lượng thuốc trừ sâu
tích lũy ngày càng nhiều trong nước sông. Trong tình hình dịch cúm gia cầm đang
hoành hành như hiện nay, mức độ ô nhiễm ngày càng lớn bởi xác gia cầm, bởi phân
và chất thải của loài thuỷ cầm bị bệnh. Lắng phèn và lắng trong tự nhiên không
thể tách các độc chất như thuốc trừ sâu, các mầm gây bệnh nguy hiểm ra khỏi nước
uống. Hàng ngày, người dân đang tự đầu độc cơ thể họ thông qua uống nước sông,
kênh, rạch.
Có hai nguyên nhân khiến các hộ trong khu nghèo ở các tỉnh ĐBSCL vẫn uống nước
sông:
Nguyên nhân khách quan: Khan hiếm nước ngọt, nhất là trong mùa nắng (không còn
nước mưa “trời cho”). Chỉ có những hộ khá giả mới có lu chứa đủ nước để uống
nước trong mùa khô. Những hộ nghèo, không có khả năng trữ nước mưa, trong khi
đó, các giếng đào thì cạn kiệt. Một số địa phương như Đồng Tháp Mười có 6 tháng
mùa nước nổi, người dân có khuynh hướng không sắm nhiều lu chứa nước mưa để khỏi
mất công di chuyển chúng theo con nước, và cớ sao họ phải lo trữ nước khi xung
quanh họ bốn bề là nước?
Các độc chất khác trong nước như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc cá có
khuynh hướng tích luỹ nồng độ dần dần trong cơ thể. Do vậy, sẽ làm hao mòn sức
khoẻ từ từ chứ không xảy ra tức thời. Tất cả đã tạo cho người nghèo tâm lý phớt
lờ, mặc kệ, thậm chí họ không tin uống nước như vậy là có hại cho sức khoẻ. Khi
được hỏi, câu trả lời của họ thường là “uống vậy từ đời nào tới giờ có ai bị
bệnh đâu”.
Nguyên nhân chủ quan: Người dân hiểu và tin rằng: Nước sạch là nước trong. Trong
đợt khảo sát trên 500 người ở 5 tỉnh ĐBSCL (Long An, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Đồng Tháp) vào tháng 2 năm 2007, thì có đến 400 người (chiếm tỷ lệ 80%)
trả lời: “Nước sạch là nước trong”. Chính vì tin như vậy nên người dân chỉ cần
lấy nước sông lên lắng phèn hoặc để lắng bùn cho nước trong là uống.
3. Kết luận
Vấn đề cung cấp nước sạch cho các khu dân cư nghèo trên thực tế còn nhiều khó
khăn. Nhìn chung, các khu dân cư nghèo ở nước ta hiện nay chưa có hệ thống cấp
nước công cộng, mà chỉ có nguồn nước công cộng với phương thức khai thác thủ
công là sức người gánh nước từ các nguồn về nhà. Hơn nữa, sự hiểu biết về vệ
sinh và sức khoẻ của người dân trong các khu nghèo còn thấp . Số đông dân cư ít
quan tâm đến vệ sinh, xem việc cải thiện điều kiện cấp nước và vệ sinh chỉ là
phụ. Phần lớn người dân không ý thức được hậu quả của việc dùng nước mất vệ
sinh. Hơn nữa, họ còn có thói quen xem cấp nước và vệ sinh là lính vực được Nhà
nước bao cấp và đầu tư.
Thiên tai cũng là nguyên nhân gây trở ngại không nhỏ trong quá trình cải thiện
việc cấp nước sạch. Nguồn nước ở nhiều vùng bị nhiễm mặn, các vùng núi cao và
vùng đá vôi thường thiếu nguồn nước phục vụ sinh hoạt. Trong những năm vừa qua,
khí hậu thời tiết có nhiều biến đổi bất thường, lũ lụt và hạn hán thường xuyên
xảy ra làm cho tình hình cấp nước ngày càng khó khăn hơn. Chỉ một cơn lũ cũng có
thể phá huỷ hoặc làm hỏng hàng nghìn giếng nước, công trình vệ sinh của người
dân trong các khu nghèo.
Đề đạt được mục tiêu “phát triển thiên niên kỷ về nước sạch và vệ sinh môi
trường” (đến năm 2015 giảm một nửa tỷ lệ người dân không được tiếp cận bền vững
nước sạch và môi trường). Vấn đề cần phải thực hiện trước mắt:
Đẩy mạnh công tác thông tin – giáo dục – truyền thông về nước sạch cho người
nghèo nhằm từng bước thay đổi hành vi uống nước của người dân. Cụ thể như sau:
Truyền thông cần giúp người nghèo hiểu rõ tác hại của nước uống không sạch đến
sức khoẻ của họ. Cần làm cho họ hiểu thế nào là nước sạch.
Nên phối hợp các kênh truyền thông đại chúng với kênh truyền thông trực tiếp.
Truyền thông đại chúng nên sử dụng ở giai đoạn đầu để làm tăng kiến thức của
người dân, truyền thông trực tiếp mới là kênh chủ yếu giúp người dân thay đổi.
Khuyến khích người nghèo nấu nước chín trước khi uống, song song – cung cấp các
hoá chất xử lý nước cho vùng lũ, những vùng khó khăn về chất đốt.
Vấn đề cần phải thực hiện trong tương lai:
Huy động sự tham gia mạnh mẽ của các ban, ngành, các nguồn tài trợ quốc tế và
trong nước, vì cấp nước sạch là một lĩnh vực rộng lớn, nếu không có sự hợp tác
và triển khai từ nhiều phía thì khó có thể thành công.
Xã hội hoá cấp nước cho khu nghèo, đầu tư xây dựng các mô hình cấp nước sạch phù
hợp với khu nghèo ở từng địa phương.
( Theo TC Xây dựng, số 4-2008 )
http://www.wet-office.com/index.php?module=news&id=30
9- Đừng buộc những dòng sông phải “thay
lòng đổi dạ” (Phần I)
thứ ba, 30/9/2008, 07:00 GMT+7
Khi những dòng sông đang dần “thay lòng đổi dạ”, khi các cuộc “tiếm ngôi”, “soán
quyền” bá vương thống lĩnh những dòng chảy ngày càng phát lộ, công khai và đầy
thách thức, khi ấy cũng là lúc những dòng sông nguyên sơ, trong mát biến mất
khỏi cuộc sống thực tại, chỉ còn có thể hiện hữu trong kí ức!
Vẫn tự hào là đất nước của những dòng sông, đất nước có một nền văn hóa gắn bó
sâu đậm với sông nước, thế nhưng đất Việt dường như đang để tuột khỏi tay mình
những dòng sông trong xanh?
Xả nước thải không qua xử lí ra sông
Đã bao đời nay, cuộc sống của người dân Việt gắn chặt với sông, suối, kênh,
rạch. Ở đó, có vui, buồn, có sự mất mát, chia li song cũng đầy ắp sự đoàn tụ,
sum vầy. Ở đó, những chàng trai, cô gái Việt đã sinh ra, lớn lên và thực sự
trưởng thành cùng dòng nước ngọt, nhẹ, êm ả trong suốt tuổi thơ của mình. Cũng
nhờ đó mà những cánh đồng lúa, những ruộng ngô đã nảy mầm, đơm bông, trổ bắp!
Những dòng sông gắn chặt định mệnh của mình với số phận của con người như một
cuộc kết duyên kiếm tìm ấm êm, hạnh phúc! Song, có lẽ chúng cũng không bao giờ
có thể ngờ mình sẽ trở thành kẻ bị phụ tình, bị bội bạc và hủy diệt bởi chính
những người mà chúng đã mang cả tâm hồn, sinh mệnh để gắn bó!
Từ cái chết của sông Lữ, sông Nhuệ,… rồi mới gần đây nhất là sông Thị Vải, tôi
hiểu những dòng sông đã thực sự bị bạc tình! Và chúng dường như đã khóc thật
nhiều cho cái chết của mình song giọt nước mắt của chúng bị gạt đi quá nhanh,
quá phũ phàng bởi hai tiếng lợi nhuận!
Nỗi đau của những dòng sông phải “thay lòng đổi dạ”
Cái sắc màu xanh lam trầm của rêu, của tảo, của những sinh vật phù du, cái sắc
xanh lẫn nâu vàng của những bụi cỏ ven bờ, hay cái bóng nước lấp loáng dưới ánh
sáng trắng của mặt trời, cái mờ ảo đầy thơ mộng, huyền bí trong những đêm trăng
của các dòng sông giờ đây đều đang bị “rũ bỏ” không thương tiếc bởi chính con
người.
Sông thay lòng, sông đổi dạ. Sông không còn muốn dung chứa những cái đã quá ư là
xưa cũ, những cảnh vật đã quá ư là quen thuộc trong tâm trí của mỗi con người?
Sông không muốn trở thành người lạc hậu, kẻ chậm tiến? Sông muốn “làm mới” mình
cho hợp hơn, kịp hơn với cuộc sống hiện đại này? Có phải vì đó mà sông đã “từ
chối” sắc xanh, vị trong của làn nước, của bóng cây ngọn cỏ quen thuộc mà tìm về
với bùn tù, nước đọng, với sắc đen u ám và mùi hương quá ư đậm đặc? Quả thật,
những dòng sông của nước Việt từ Bắc, Trung, Nam đều đang quặn mình mà biến đổi!
Những dòng nước đen ngòm, hôi tanh nồng nặc, lập lờ, lững đững không trôi cũng
chẳng chảy cứ dần một xuất hiện nhiều hơn, thay chỗ cho những dòng sông xanh.
Chúng lặng lẽ nhưng ngày càng nhanh hơn trong sự xuất hiện của mình để rồi âm
thầm tồn tại trong dạng thức mới với tất cả những đổi thay đến đau lòng ấy.
Những sông Lừ, sông Sét, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Cầu Bây, sông Nhuệ,
sông Đáy… và cả dòng sông mẹ (sông Hồng) của đồng bằng Bắc Bộ, sông Trà Khúc,
sông Bồng Miêu, kênh Bầu Lăng,… của dải đất miền Trung, sông Tiền, sông Hậu,
suối Linh, suối Săng Máu, sông Thị Vải,… cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt của
đất rừng phương Nam đều đã, đang và sẽ nhanh chóng bị buộc phải thay lòng đổi
dạ.
Sông Tô Lịch – nước đen dòng, rác ngự bờ
Những khu công nghiệp, khu chế xuất – vốn được xem là mảnh đất hứa, là cơ hội
mới cho sự phát triển, hội nhập của đất nước với thế giới, là phương thức hữu
hiệu để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân giờ trở thành “sát thủ” số một
của những dòng sông, khiến những dòng sông phải oằn mình mà sống chung với rác,
với nước thải, với sự ô nhiễm hạng nặng. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, các
nhà máy, các cơ sở kinh doanh,… tất cả cứ “vô tư”, “hồn nhiên” đổ tất cả những
gì là cặn bã của mình vào lòng sông. Chúng cứ như những đứa trẻ chưa lớn, chưa
thể ý thức được về cái mình đang đem đến cho những dòng sông. Hàng ngàn con số,
hàng sự “hồn nhiên” có chủ đích của các nhà doanh nghiệp khiến chúng ta phải ngỡ
ngàng khi được biết đến nó. Những mức chất thải cao gấp hàng nghìn lần cho phép
được đổ thẳng ra lòng sông mà không qua bất cứ một quá trình xử lí nào: hầu hết
nước thải của các nhà máy sản xuất ở 100 khu công nghiệp tại đồng bằng sông Cửu
Long đều được tuồn thẳng ra các kênh rạch rồi đổ về sông Hậu hay như việc mỗi
năm ở các cụm công nghiệp thuộc đồng bằng sông Cửu Long có gần 50 triệu m3 nước
thải công nghiệp được thải trực tiếp ra môi trường. Và còn nhiều nhiều con số
nữa khi được phanh phui ra mới hiểu thấy được tình trạng đáng báo động của việc
xả thái ra môi trường một cách quá tự do và vô trách nhiệm của các doanh nghiệp,
các cơ sở sản xuất. Những thông số ô nhiễm hữu cơ (COD, BOD¬¬¬5) tại các dòng
sông cạnh khu công nghiệp luôn đạt ở mức “đỉnh sàn” trong khi hàm lượng coliform
(ô nhiễm vi sinh) thì cao ngất ngưởng. Với tất cả những sự “ưu ái”, “đầu tư” một
cách kỹ lưỡng, có kế hoạch đó của các doanh nghiệp đã “giúp” các dòng sông không
còn là một môi trường sống lí tưởng cho các loài động thực vật, là một phần quan
trọng trong chuỗi tự nhiên giúp cân bằng hệ sinh thái môi trường, cũng không còn
có thể mang đến những giá trị vật chất hay tinh thần cho người dân. Chúng trở
thành những dòng nước thải, những cái cống lộ thiên hạng lớn vẫn đang được ưu ái
gọi bằng hai tiếng “dòng sông” với tất cả những đặc điểm đặc trưng nhất của
những “dòng kênh đen” từ màu sắc cho đến “hương vị”. Cũng chính bởi sự thay lòng
của các con sông mà những cuộc thay ngôi đổi chủ đã, đang diễn ra ngày càng
nhanh, mạnh hơn. Nước thay màu, đổi sắc, thay hương, đổi vị nên chủ nhân của
những dòng sông cũng dần biến mất, nhường chỗ cho những vị vua mới.
Hình ảnh của những con sông rác – con sông chết có lẽ không còn quá xa lạ với
người Việt Nam! Rác tiếm ngôi của tôm, cua, cá, của cả một hệ sinh vật phù du
sông nước để độc chiếm dòng sông cho riêng mình! Rác chễm chệ, vênh vang và hãnh
diện trong địa phận bất khả xâm của mình. Rác cứ vậy, lập lờ trôi, lập lờ du
ngoạn, lập lờ chiếm dụng những địa phận mới. Khi những dòng sông trở thành dòng
nước chết, mọi sinh vật không còn có thể sinh tồn trong một hệ môi trường vô
cùng ô nhiễm như vậy thì sự lên ngôi của rác cũng là điều đương nhiên, có tính
tất yếu trong chuỗi quy luật của sự sinh tồn. Sông chết trở thành nơi dung chứa
rác thải của mọi hoạt động sinh hoạt, sản xuất trong đời sống của con người. Rác
thải từ hộ gia đình, từ các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, từ các khu công nghiệp, các
khu chế xuất cũng từ đó mà tìm ra sông! Những dòng sông không trôi nhanh chóng
trở thành những vùng nước đọng, tù, lầy với đủ sự uế bẩn của nó! Vậy là những
dòng sông từ chỗ buộc phải “thay lòng đổi dạ” tiến dần đến chỗ biến mất!
Sông chết – văn hóa sông chết!
Trên thực tế, một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam sống bên cạnh những dòng
sông, gắn bó với nó cả về giá trị vật chất cũng như giá trị văn hóa tinh thần.
Dòng sông cung cấp cho con người những nguồn lợi thiết yếu trong cuộc sống hằng
ngày, là nơi diễn ra các hoạt động sinh hoạt đời thường của họ. Đó cũng là những
huyết mạch quan trọng tạo nguồn phù sa cho những cánh đồng màu mỡ, giúp những
cánh đồng có thể đảm nhận một cách tốt nhất nhiệm vụ cung cấp lương – thực phẩm
cho cuộc cống. Đồng thời, văn hóa sông nước là một thành tố quan trọng trong
tổng thể nền văn hóa dân tộc, có một sức ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tâm
linh người dân Việt. Bởi vậy, khi những dòng sông biến mất, khi những dòng nước
bị đổi màu, mất đi sức sống ngàn đời nay của nó thì nó cũng đồng thời để lại
những khoảng trống lớn trong cuộc sống của người dân.
Xóm chài trên sông Hồng
Nguồn lợi từ sông suối, kênh rạch không còn, đó là cái mất đầu tiên - cái mất
mát về mặt giá trị vật chất. Cuộc sống của không ít bộ phận dân cư Việt vốn phụ
thuộc vào những nguồn lợi thu được từ dòng sông (đánh bắt, khai thác các loài
thủy sản, các loài thủy sinh; khai thác các loại cắt, quặng) bị ảnh hưởng một
cách nghiêm trọng khi những dòng sông bị ô nhiễm. Có những ngôi làng mà ở đó
người dân quanh năm suốt tháng trong cuộc đời của mình sống dựa vào dòng sông
với những nguồn lợi mà dòng sông đem lại như làng chài sông Hồng, làng Choán ven
sông Chu, Thanh Hóa…Vốn gắn bó với những dòng sông, quanh năm dựa vào những
nguồn lợi từ đó mà trang trải cuộc sống gia đình, tạo dựng tương lai cho các thế
hệ con cái giờ họ phải tìm đến những cách thức sống mới, trong đó bao gồm cả
những cách thức đầy vất vả, khó khăn rồi sai trái. Các hoạt động kinh tế trên
những dòng sông cũng không còn có thể tiếp tục với những nguồn lợi lớn nữa. Một
loạt các hoạt động nuôi thủy sản trên sông của người dân… đã bị thất bại bởi sự
ô nhiễm quá cao của môi trường nước.
Bên cạnh sự biến mất của những giá trị vật chất thì có lẽ cần phải nhắc nhiều
hơn đến sự mất mát về giá trị văn hóa tinh thần của những dòng sông với cuộc
sống con người. Đời sống văn hóa sông nước vốn vẫn được xem là hết sức phong
phú, đa dạng, đặc sắc của người Việt Nam với các lễ hội trên các dòng sông.
Chúng ta biết đến chợ nổi Ngã Bảy như một nét văn hóa sông nước đặc trung của
vùng đất Hậu Giang, biết đến những nét văn hóa đặc sắc của người dân Phú Yên qua
lễ hội sông nước Tam Giang hay những tích xưa được lưu giữ truyền tụng trong lễ
rước nước trên sông Hồng của người dân Hưng Yên,…Rồi còn đó tục thời các vị thần
sông nước tại các ngôi đền, miếu trên khắp đất nước Việt Nam. Tất cả đều lưu giữ
trong đó những nét văn hóa đặc sắc, đậm đà tính dân tộc. Thế nhưng, các hoạt
động văn hóa sôi nổi, nhiều ý nghĩa trên sông nước này sẽ không còn cơ hội được
tiếp tục và duy trì theo thời gian trên những dòng sông chết. Bạn có thể tưởng
tượng rằng một ngày nào đó, bạn sẽ không còn có thể tham gia vào những lễ rước
Chử Đồng Tử, hội đua thuyền, đua ghe trên khắp những con sống của cả nước,… mà
chỉ còn có thể tìm hiểu nó qua những điều được ghi lại trong những cuốn sách? Sự
biến mất của những hoạt động văn hóa trong đó bao chứa những nền tảng tinh thần
quan trọng cho sự trưởng thành của những tâm hồn Việt thực sự là một sự tổn thất
lo lớn nhất đối với đời sống của mỗi cá nhân nói riêng và nền văn hóa đất nước
nói chung.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải nói đến sự ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên
nói chung, môi trường sống con người nói riêng của những dòng sông bị ô nhiễm.
Nó chính là những vách ngăn lớn cho sự phát triển một cách hoàn thiện của đời
sống người dân sau này. Những dòng nước vốn chiếm giữ vai trò quan trọng, có ý
nghĩa quyết định rất lớn đến sự tồn tại của tự nhiên và của người con người khi
bị thay đổi sẽ kéo theo nó rất nhiều những biến động theo hướng bị hủy hoại.
Bệnh dịch lan tràn, sức khỏe con người bị đe dọa. Những nguy cơ đó đều là những
điều có thể xảy ra ngay vào lúc này. Và quan trọng hơn cả, đáng lo ngại hơn nữa
là tất cả những hậu quả nghiêm trọng nhất đó của nó đều đổ xuống đầu của những
người dân, đặc biệt là người dân nghèo sống bám trụ lay lắt bên bờ sông.
(Còn nữa)
Đỗ Hòa
http://vietimes.vietnamnet.vn/vn/nguoiquansat/5742/index.viet
10- Những con sông "sống mòn" ở Hà Nội (Bài 1): "Trâu Vàng" ngắc ngoải Thứ ba,
7/10/2008, 11:38 GMT+7
Trên thế giới, nhiều dòng sông trong nội đô đã trở thành một biểu tượng của
thành phố. Nhưng đối với người Hà Nội, sống cạnh những con sông chảy quanh thành
phố lại là... cực hình.
Thu gom rác tại sông Kim Ngưu (Ảnh: Lao động)
Bèo cũng không sống nổi
Sông Kim Ngưu, nghĩa là Trâu Vàng, gắn liền với một sự tích đẹp của Thủ đô Hà
Nội, có chiều dài 7,7km, kéo từ ngã năm Lò Đúc đến cầu Văn Điển. Nhưng giờ đây,
con sông đang oằn mình "hấp hối" giữa đô thị tấp nập.
Thấy chúng tôi chụp ảnh dòng sông đen kịt, đặc quánh bùn rác, bác Nguyễn Đức
Long, 65 tuổi, sống ở đường Nguyễn Tam Trinh từ hàng chục năm nay chua xót:
"Dòng sông thơ mộng thuở nào giờ toàn bốc mùi xú uế. Với sự đầu tư hàng chục tỷ
đồng để cải tạo, nâng cấp, hai bên bề sông được kè kiên cố, hàng liễu được trồng
đều tắp, nhưng nước sông thì vẫn quanh năm đen ngòm, có điểm xuyết màu xanh đỏ
của ni lông, rác thải, nước thải".
Không hề thấy sự sống của bất kỳ loài động, thực vật nào ở đây, kể cà bèo, tảo.
Nhưng hai bên bờ sông, hàng ngàn hộ dân vẫn sinh sống, buôn bán bình thường.
Những hàng cơm bụi, giải khát, thịt chó... vấn tấp nập người ra vào.
"Chúng tôi biết ô nhiễm, nhưng giữa nơi đất chật người đông thế này, biết chuyển
đi đâu. Lo nhất là lũ trẻ bởi chúng dễ mắc các bệnh về đường hô hấp, ngoài da.
Mấy đứa con tôi đều có dấu hiệu bị viêm xoang" - một người dân sống ở phố Kim
Ngưu thổ lộ.
Gọi là sông Kim Ngưu, nhưng từ lâu sông đã trở thành cống lớn. Sự ô nhiễm nặng
nề trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người dân nơi đây. Chị Mai Hoa, nhà ở khu tập
thể Quỳnh Mai, khu vực tập trung đông dân cư nhất trên chiều dài con sông, cho
biết: "Từ năm 2000, lúc kè con sông này, người dân chúng tôi đã hy vọng tình
trạng ô nhiễm sẽ được cải thiện. Song rốt cuộc, cảnh quan thì có vẻ thay đổi
phần nào, còn sự ô nhiễm mỗi ngày một nặng nề hơn. Vào những ngày nóng, các nhà
ở đúng hướng gió thổi đều phải đóng cửa. Chiều đến, không dám cho mấy đứa trẻ
chơi đùa bên bờ sông".
Bà Thúy, chủ ruộng rau muống ở phường Vĩnh Tuy, ngay cạnh Khi công nghiệp Vĩnh
Tuy bức xúc: "Trước đây, tôi vẫn thả rau muống trên ruộng nước này, nhưng gần
đây nước trong ruộng đã đen kịt. Bây giờ phải quấn ni lông vào người mới dám lội
xuống nước. Ngâm người trong thứ nước này là bị mẩn đỏ khắp người". Hầu hết
những thửa ruộng xung quanh đều chung tình trạng tương tự, bị nguồn nước thải từ
các nhà máy trong Khu công nghiệp Vĩnh Tuy làm ô nhiễm nặng.
Triết lý... thành bùn!
Dự án cải tạo, xây dựng kè và nạo vét làm sạch lòng sông Kim Ngưu trị giá khoảng
trên 20 tỷ đồng và được triển khai từ năm 2000. Tuy nhiên, hiện nay nhiều đoạn
kè đang bị sụt, lún nghiêm trọng. Còn dòng sông vẫn bị ô nhiễm nặng nề và ngày
đêm vẫn hứng chịu những "trận đòn" nước thải, rác thải, để làm dày thêm lớp bùn
đen bốc mùi nồng nặc.
Dự án kè hai bên sông Kim Ngưu dài 2.000m, có tổng mức đầu tư hơn 21 tỉ đồng -
hiện bị sụt lún nghiêm trọng tại nhiều đoạn
Dọc các tuyến phố Kim Ngưu, Mai Động, Tam Trinh... nhiều đoạn kè hai bên sông đã
xuất hiện những vết rạn nứt, có đoạn cả vỉa hè (rộng khoảng 10m), rào chắn, kè
bờ sông đều bị sụt, lún sâu gần 1m và chực đổ xuống sông.
Những khối bê tông, kè đá của bờ sông ở một số đoạn bị vỡ thành từng mảng, làm
"thắt nút chai" lòng sông. Người dân phản ánh, hiện tượng sụt, lún xuất hiện từ
lâu, các đơn vị thi công cũng đã nhiều lần sửa chữa, nhưng tình trạng sụt, lún
lại ngày càng sâu và nghiêm trọng hơn.
Đại diện Ban quản lý Dự án công trình giao thông công chính (Sở Giao thông công
chính Hà Nội) cho biết: Dự án cải tạo sông Kim Ngưu nằm trong dự án thoát nước
Hà Nội giai đoạn I, đã được bàn giao cho các phường từ năm 2000 và trong quá
trình sử dụng chưa có "vấn đề gì lớn" xảy ra. Hiện tượng sụt, lún là do các dự
án làm vỉa hè, lòng đường mới gây ra, vì địa chất ở đoạn này vốn rất yếu.
Có vẻ như tiền tỷ đổ ra đầu tư nạo vét, cải tạo ô nhiễm sông Kim Ngưu đang dần
hóa thành... bùn. Việc vớt rác thải trên bề mặt sông không được thực hiện thường
xuyên và cũng không giải quyết được tận gốc vấn đề. Chỉ còn hơn 700 ngày nữa là
đến Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Vậy mà một dòng sông huyền
thoại vẫn phải chịu cảnh "sống mòn".
Theo Tiến Hiếu - Hồng Hạnh
Những con sông "sống mòn" tại Hà Nội (Bài 2): Sông biến thành cống Thứ hai,
13/10/2008, 12:07 GMT+7
Cùng với Kim Ngưu, các dòng sông khác là Tô Lịch, Lừ, Sét, Nhuệ ở Hà Nội cũng
đang phải ngày đêm gồng mình hứng nguồn nước thải sinh hoạt, nước thải công
nghiệp chưa qua xử lý
Bịt mũi qua sông
Theo Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội, tổng lượng nước thải của khu vực nội
thành hiện nay đạt khoảng 500.000 m3/ngày đêm, trong đó có khoảng 100.000m3 nước
thải của các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viện... tất cả lượng nước thải này
đổ thẳng ra sân.
Theo đánh giá chung, các dòng sông này đều đang bị ô nhiễm nặng, vì "chở nặng"
các chất hữu cơ, vô cơ, vi sinh vật, dầu mỡ... Sông nào cũng có làn nước đen,
mùi hôi thối, nhất là vào mùa khô.
Bên cạnh đó, do không có nguồn nước bổ sung, độ dốc nhỏ khiến tốc độ chảy chậm,
nên các dòng sông không có khả năng tự làm sạch, độc tố tích tụ lâu ngày, dẫn
đến ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt và cả nguồn nước ngầm.
Một ống cống đổ ra sông Nhuệ
Trong số hàng trăm cơ sở của thành phố từ sản xuất công nghiệp, dịch vụ, đến
bệnh viện... gây ô nhiễm môi trường trực tiếp mới chỉ có khoảng 70 cơ sở có trạm
xử lý nước thải. Và con số ít ỏi đó, rất ít trạm đạt tiêu chuẩn.
Tốc độ đô thị hoá nhanh nhưng quy hoạch xây dựng thiếu đồng bộ, cộng với sự
thiếu ý thức của người dân sống gần các con sông đang tạo ra sự ô nhiễm nặng nề.
Những người dân sống cạnh sông Tô Lịch phản ánh, con sông là nơi tiếp nhận đủ
loại nước thải, ô nhiễm nặng nhất là đoạn chạy dọc đường Láng xuống đến Ngã Tư
Sở.
Ngoài việc phải hứng chịu một khối lượng lớn nước thải của nhiều nhà máy, xí
nghiệp, chợ... đổ ra, dòng sông còn tiếp nhận gần chục nhánh kênh rạch nhỏ từ
các phường trong nội thành, cộng với nước thải sinh hoạt từ các đường cống đổ
thẳng vào.
Sông Sét, đoạn chảy qua 2 phường Bách Khoa, Trương Định (quận Hai Bà Trưng) cũng
đang ngày đêm chịu chung cảnh ''hấp hối" như sông Tô Lịch. Do chảy qua nhiều khu
trường Đại học, chợ, khu tập thể... nên dòng sông phải hứng lượng rác thải khổng
lồ. Hai bên bờ sông đã được bồi lấp bằng lượng rác thải xả trực tiếp từ bao năm
nay, khiến dòng sông chỉ còn hẹp như một con rạch nhỏ.
Ở bên dòng sông Nhuệ, bà Lê Thị Hà, ở thị trấn Cầu Diễn (huyện Từ Liêm) gắn bó
cả cuộc đời bên dòng sông chua xót: "Chưa bao giờ nước sông Nhuệ đáng sợ như bây
giờ, toàn bốc lên mùi tanh nồng. Các cơ quan chức năng và lãnh đạo các cơ sở sản
xuất hoá chất, công nghiệp tại thị trấn đã cam kết hết lần này đến lần khác về
việc hạn chế nguồn thải thẳng ra sông, song cuối cùng đâu lại vào đấy. Người nào
qua lại khu vực này mà không đeo khẩu trang, không lấy tay bịt mũi mới là lạ".
Bao giờ trở lại... ngày xưa
Trong khi tốc độ ô nhiễm tại các dòng sông gia tăng nghiêm trọng thì tốc độ di
dời, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm cho các dòng sông ở Hà Nội lại chậm như rùa. Mà
càng chậm thì càng tốn thêm nhiều chi phí bởi sự tích tụ ô nhiễm dẫn đến tác hại
tăng theo cấp số nhân.
UBND TP Hà Nội đã giao cho các cơ quan chuyên ngành môi trường, đô thị, giao
thông công chính lập các đề án tổng thể để chủ động khắc phục tình trạng ô nhiễm
của các con sông. Tuy nhiên, cũng phải đến năm 2015, thành phố mới có thể di dời
toàn bộ các cơ sở sản xuất không phù hợp quy hoạch, gây ô nhiễm ra khỏi nội đô
bởi muôn vàn lý do như thiếu đất, kinh phí...
Trao đổi về vấn đề làm sạch các dòng sông ở Hà Nội, Phó Tổng cục trưởng phụ
trách Tổng cục Môi trường (Bộ tài nguyên và Môi trường) Bùi Cách Tuyến cho biết:
"Việc xử lý ô nhiễm ở các lưu vực sông không thể ngày một ngày hai mà theo từng
giao đoạn khác nhau. Chúng ta lựa chọn vấn đề theo mức độ quan trọng, cái nào
cấp bách cần được ưu tiên giải quyết trước. Những vấn đề ít cấp bách hơn có thể
đưa vào danh mục để xử lý dần dần. Rất khó để khẳng định sẽ giảm được bao nhiêu
phần trăm ô nhiễm trong mỗi giai đoạn. Do đó, việc ước lượng rằng trong thời
gian bao lâu có được kết quả tối ưu là rất khó".
Bao giờ Tô Lịch, Kim Ngưu... trở lại ngày xưa, là những con sông làm đẹp cho
thành phố? Câu trả lời còn bỏ ngỏ.
Theo Tiến Hiếu - Hồng Hạnh
http://tintuconline.com.vn/vn/xahoi/227285/
11- Ô nhiễm do chất thải công nghiệp ở Đà Nẵng
Liên tiếp trong vòng chưa đầy một tháng, tại Đà Nẵng đã xuất hiện hiện tượng cá
chết nổi hàng loạt tại hai hồ Xuân Hoà A và hồ công viên 29.3. Theo kết quả từ
Trung tâm Bảo vệ môi trường (Sở Tài nguyên và môi trường Đà Nẵng), nguyên nhân
của hiện tượng trên là do nguồn nước ở hồ có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ và ô nhiễm
phênol (là chất gây độc làm chết cá) và một số kim loại nặng không sử dụng được
vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản tại hồ; hàm lượng ôxy hoà tan trong nước hồ bị
suy kiệt. Báo cáo đánh giá và phân tích tác động ô nhiễm do ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo ở VN vừa được Ngân hàng Thế giới công bố ngày 27/6, Đà Nẵng
xếp thứ 8/10 thành phố của Việt Nam có tải lượng ô nhiễm cao nhất trong công
nghiệp!
Trong khi dư luận Đà Nẵng chưa hết lo ngại về hiện tượng cá chết phơi bụng nổi
trắng hồ Xuân Hoà A vào các ngày 18 đến 21.8 thì những ngày đầu tháng 9.2008,
tại hồ công viên 29.3, hàng tạ cá chết nổi phơi xác khiến một đoạn đường Nguyễn
Tri Phương bốc mùi tanh ngòm. Tuy chưa có cơ quan nào khẳng định rằng liệu có
mối liên hệ gì giữa những số liệu quan trắc môi trường nước của thành phố Đà
Nẵng với các hiện tượng cá chết này hay không. Nhưng trên thực tế, chất lượng
nước tại các ao hồ của Đà Nẵng đang ngày càng kém dần. Theo khảo sát của Viện
qui hoạch thành phố Đà Nẵng đối với 15 hồ có diện tích trên 5.000m2 từ năm 2001
đến nay, hầu hết đều bị ô nhiễm nghiêm trọng, thuỷ sinh khó có thể tồn tại. Đơn
cử, theo kết quả quan trắc chất lượng nước và bùn đáy tại hồ Xuân Hoà A, thì
nguồn nước hồ có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ và ô nhiễm phênol (là chất gây độc làm
chết cá) và một số kim loại nặng không sử dụng được vào mục đích nuôi trồng thuỷ
sản tại hồ; hàm lượng ôxy hoà tan trong nước hồ bị suy kiệt. Hàm lượng DO trong
nước thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn phục vụ cho đời sống thuỷ sinh, pH cao và
một số các chất hữu cơ như BOD5, COD, TSS, NH3-Nitrit đều vượt tiêu chuẩn Việt
Nam đối với khu vực thuỷ sinh.
Hồ Đầm Rong (phường Thuận Phước, quận Hải Châu), từ hàng chục năm nay luôn đứng
đầu bảng danh sách các hồ bị ô nhiễm nghiêm trọng của Đà Nẵng. Nước thải từ 6
miệng cống đổ vào hồ luôn đen ngòm, hôi thối. Anh Nguyễn Đình Tuy, người dân
sinh sống bên hồ bức xúc: “Từ khi đến sinh sống ở đây, chưa bao giờ nước trong
hồ có màu khác ngoài màu đen với đầy váng, bọt. Từ mùa mưa cho đến mùa nắng, dân
quanh đây đều bị tra tấn bởi mùi hôi thối, tanh tưởi”. Nằm cạnh đường Nguyễn Tất
Thành - “tuyến đường vàng” ven biển, nhưng từ lâu sông Phú Lộc được biết đến với
tên gọi là “sông đen”. Sông Cu Đê, hồ Bàu Tràm cũng đang đứng trước nguy cơ “có
những dòng sông không trở lại”. Nước thải ô nhiễm, chưa được xử lý từ Khu công
nghiệp Hoà Khánh, Liên Chiểu mặc sức chảy vào hồ Bàu Tràm rồi đổ về sông Cu Đê
khiến môi trường tại đây càng phức tạp. Hàng trăm hộ dân sinh sống xung quanh
khu vực luôn trong cảnh “sống dở chết dở” vì môi trường nước bị ô nhiễm, kế sinh
nhai bị đe doạ, cá tôm, cây trồng đều bị chết hàng loạt do nước bị ô nhiễm. Chưa
dừng lại, các căn bệnh như: ngứa, ghẻ lở, hô hấp, sốt xuất huyết…thường xuyên
“đe doạ” người dân. Ông Võ Đức Trung ở xã Hoà Liên cùng các hộ lân cận cho biết:
“Trước kia các gia đình nuôi trồng thuỷ sản trong vùng có thu nhập cao và ổn
định. Nhưng kể từ khi nước thải từ KCN Hoà Khánh chưa qua xử lý đổ trực tiếp ra
Bàu Tràm rồi ra sông Cu Đê làm cho tôm cá đang nuôi bị nổ mắt, lở da, chết hàng
loạt, cuộc sống người dân khu vực trở nên khó khăn”. Tính đến thời điểm này, Đà
Nẵng có 17 bệnh viện, trung tâm y tế và 700 phòng khám chữa bệnh chưa có hệ
thống xử lý nước thải đồng bộ; 5 KCN nhưng mới chỉ có 1 trạm xử lý nước thải tại
KCN Hoà Khánh, song chỉ có khoảng 20% lượng nước thải tại KCN Hoà Khánh được thu
gom và xử lý. Hàng ngày, tất cả lượng nước thải chưa được xử lý này vẫn đổ trực
tiếp ra môi trường xung quanh. Dọc ven biển Đà Nẵng, có khoảng vài chục miệng
cống hàng ngày vẫn vô tư xả nước thải ra biển. Có lẽ chính vì vậy mà dù phải
đóng tiền phạt vì hành vi xả nước thải vượt chỉ tiêu cho phép nhưng 6 doanh
nghiệp hoạt động tại khu công nghiệp dịch vụ thuỷ sản Đà Nẵng và khu cảng cá
Thuận Phước vẫn không “tâm phục khẩu phục”. Ông Nguyễn Văn Chín - Giám đốc Công
ty TNHH Bắc Đẩu - (doanh nghiệp vừa bị UBND thành phố phạt 32 triệu đồng) cho
biết: “Nếu không giải quyết được triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường tại đây
thì việc phạt cũng chỉ như bắt cóc bỏ đĩa mà thôi. Phạt chỉ là biện pháp tức
thời, còn để giải quyết triệt để, tại đây cần phải có nhà máy xử lý nước thải
cũng như hệ thống cống rãnh thoát nước tốt”. Bởi như nhận xét của ông Nguyễn Đức
Tuấn - Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Thuỷ sản Nhật Hoàng - cho biết: “Hệ thống
thoát nước thải ở đây rất xập xệ, nhiều lúc nước thải từ ống thoát chung lại
chảy ngược vào công ty! Chúng tôi phải xây rào chắn”.
PGS.TS Nguyễn Thưởng - Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường TP Đà
Nẵng cho biết : “Đà Nẵng đang đứng trước nguy cơ mất dần hệ thống ao hồ do ô
nhiễm môi trường và cạn nước nếu không có biện pháp khắc phục và xử lý thì tình
hình ô nhiễm như hiện nay. Chính quyền thành phố cần có những động thái tích cực
nhằm bảo vệ hệ thống ao hồ bằng những biện pháp sinh học, tránh các trường hợp
san lấp hồ”.
Hà Ánh Ngọc
http://www.gdtd.com.vn/gdtdroot/2008-119/bai10.htm
Thứ Năm, 26/06/2008 - 3:55 PM
12- Ô nhiễm môi trường vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Ngày 8/5/2008, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế
trọng điểm (KTTĐ) quốc gia đã phối hợp với các bộ, ngành trung ương và địa
phương tổ chức Hội nghị Điều phối phát triển vùng KTTĐ Bắc bộ.
Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã tới dự và có bài phát biểu. Về vấn đề
ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước do chất thải công nghiệp và đô
thị ngày càng tăng, ô nhiễm trên một số con sông như sông Cầu, sông Nhuệ... đã
đến mức báo động. Việc xử lý chất thải rắn đang là vấn đề nan giải, cần có kế
hoạch phối hợp liên tỉnh để xử lý hiệu quả. Vậy đâu là nguyên nhân và giải pháp
nào cho bài toán về môi trường của Việt Nam hiện nay và tương lai?
1. Hiện trạng ô nhiễm môi trường
Theo báo cáo, trong 5 thập kỷ qua, diện tích che phủ rừng của Việt Nam đã giảm
từ 43% xuống còn 29%, gây sói mòn đất, mất cân bằng sinh thái và khu hệ sinh
sống, làm cho nhiều loài động, thực vật có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng.
Bức xúc nhất là vấn đề nước thải, chất thải CN, chất thải rắn, chất thải sinh
hoạt đang là vấn đề gây ô nhiễm nghiêm trọng tại các khu công nghiệp (KCN), nhất
là nước thải. Có những tỉnh, khu xử lý nước thải chỉ có khoảng 15%.
Một quan chức cấp cao của Nhà nước nói: “Đã đến lúc chúng ta không thể lùi được
nữa, không thể tiếp tục hi sinh chất lượng môi trường cho các mục tiêu tăng
trưởng kinh tế. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nếu GDP tăng 1%, thì chất
thải tăng 3%. Nếu tiếp tục tình trạng này, chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt tại
thời điểm hiện nay và cả thế hệ mai sau. Chất lượng cuộc sống sẽ giảm và không
bảo đảm thực hiện được ba mục tiêu phát triển bền vững là tăng trưởng kinh tế,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.
2. Môi trường lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy – S.O.S
Theo Bộ KH&CN thì hiện nay, ba hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn, sông Cầu, sông
Nhuệ - sông Đáy đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong mấy năm qua, Chính phủ đã
rất cố gắng chỉ đạo, phân công các bộ, ngành, địa phương phối hợp, xử lý ô nhiễm
ba hệ thống sông này, nhưng đến nay vẫn chưa có một mô hình nào có tính khả thi
cao. Các dòng sông bị ô nhiễm vẫn đang tiếp tục chảy và đang bị ô nhiễm trầm
trọng hơn.
Lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy nằm ở hữu ngạn sông Hồng với diện tích tự nhiên gần
8.000 km2 chạy qua các tỉnh Hoà Bình, Hà Tây, Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Ninh
Bình. Do lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy có nhiều phụ lưu lớn chảy qua các thành
phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, tụ điểm dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất,
dịch vụ, làng nghề,... nên chịu ảnh hưởng nặng nề của các hoạt động kinh tế - xã
hội. Chính vì thế, nguồn nước tại lưu vực các con sông này bị ô nhiễm nghiêm
trọng.
Theo kết quả phân tích mới nhất của các cơ quan chuyên môn cho thấy, chất lượng
nước tại lưu vực các sông này đang ở mức báo động. Phân tích mẫu nước tại sông
Tô Lịch, sông Thanh Hà, sông Nhuệ, sông Châu, sông Hoàng Long, sông Đáy... đều
vượt quá tiêu chuẩn cho phép về hàm lượng chất hữu cơ, các yếu tố kim loại nặng.
Tại sông Nhuệ, do phải tiêu nước cho thành phố Hà Nội và thị xã Hà Đông nên nước
bị ô nhiễm nặng. Tại đây cũng đã xuất hiện nhiều sự cố về môi trường như hiện
tượng cá chết hàng loạt do xả nước thải của thành phố vào mùa cạn với lưu lượng
lớn. Sông Nhuệ nhận nguồn thải và nước mưa của Hà Nội trong tổng diện tích lưu
vực là 107.503 ha. Trên diện tích đó, khu vực ảnh hưởng của Hà Nội là 20.093 ha,
bao gồm một phần diện tích của huyện Thanh Trì và Từ Liêm. Kết quả phân tích mẫu
nước tại Hoàng Liệt cho thấy, nước bị ô nhiễm quá nặng, hàm lượng COD trung bình
đạt từ 180 - 200 mg/l; BOD trung bình đạt 100-150 mg/l, vượt quá tiêu chuẩn A từ
10 - 20 lần, vượt quá tiêu chuẩn B từ 8 - 15 lần. Hàm lượng oxy hoà tan thấp
dưới 4,0 mg/l, nước có màu đen đặc, có váng và có mùi hôi tanh, ảnh hưởng rất
lớn đến môi trường không khí.
Nước trên sông Nhuệ tại Phủ Lý (mặc dù nước thải đã được pha loãng và tự làm
sạch nhiều lần, hàm lượng và các chất đã giảm), vẫn không đạt tiêu chuẩn A. Kết
quả khảo sát cho thấy, hàm lượng BOD, COD, oxy hoà tan vẫn vượt quá tiêu chuẩn A
từ 1,5 - 2,2 lần.
Sông Đáy là con sông chính, có chế độ dòng chảy phức tạp do ở thượng lưu đã bị
chia cắt khỏi sông Hồng, lại chịu ảnh hưởng của các con sông nhánh, các đoạn hạ
lưu và thuỷ triều, do vậy, việc cấp nước và tiêu nước cũng rất phức tạp. Chất
lượng nước sông Đáy thay đổi thất thường, phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng
nước thải từ sản xuất và sinh hoạt xuống các kênh mương. Qua khảo sát tại đoạn
Ba Thá - Chương Mỹ cho thấy, nước sông Đáy chịu ảnh hưởng bởi nước tiêu nông
nghiệp và nước thải sinh hoạt của thị trấn Thanh Oai. Vào mùa kiệt, các chất hữu
cơ như COD đạt từ 18 - 26 mg/l, vượt quá tiêu chuẩn A từ 1,3 -1,8 lần, Hàm lượng
NH4 đạt từ 0,5-0,75 mg/l, vượt quá tiêu chuẩn A cho phép từ 5 - 7 lần. Đoạn tại
Hồng Phú - Phủ Lý là nơi nhập lưu của 3 con sông: Nhuệ, Đáy, Châu Giang, nước bị
ô nhiễm chất hữu cơ, hàm lượng COD trung bình đạt từ 20 - 30 mg/l vượt quá tiêu
chuẩn A từ 1,4 - 2 lần. Hàm lượng NO2, SS cao. Nồng độ dầu có trong nước đạt
trên 0,32 mg/l, không đạt tiêu chuẩn B. Chất lượng nước đoạn sông này không đạt
tiêu chuẩn dùng để cấp nước cho sinh hoạt.
Đặc biệt, nước sông Tô Lịch thường xuyên xả vào sông Nhuệ với lưu lượng trung
bình từ 11-17 m3/s, lưu lượng cực đại 30m3/s. Sông Tô Lịch đón nhận toàn bộ nước
thải từ hai quận Ba Đình, Đống Đa và nhiều sông nhánh khác, do vậy, sông Tô Lịch
đang bị ô nhiễm nặng, sông Nhuệ thì hiện đang mất dần khả năng tự làm sạch và
mức độ ô nhiễm ngày càng gia tăng. Lưu vực hai con sông này rộng tới 8.000 km2,
với dân số gần 9 triệu người và trên 3,5 triệu người sống dọc triền sông. Do
vậy, người dân sống trong lưu vực này đang đứng trước những hiểm họa tiềm ẩn về
môi trường. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân tỉnh Hà Nam. Theo nghiên
cứu của Trường Đại học Y Hà Nội, tại xã Hoàng Tây (ven sông Nhuệ) có đến 21% trẻ
em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy, 86% trẻ em nhiễm mắc bệnh giun đũa... Tại huyện Lý
Nhân, có đến 30% bị bệnh về đường ruột, đặc biệt là tại thị trấn Vĩnh Trụ có đến
50% bị bệnh phụ khoa, do nguồn nước ô nhiễm. UBND tỉnh Hà Nam đang mong muốn
Trung ương hỗ trợ, nâng cấp và di chuyển Nhà máy nước thị xã Phủ Lý lên phía
thượng lưu sông Đáy, cách ngã ba sông thị xã Phủ Lý 1.200 m (hiện nay cách 700
m) để thoát khỏi tình trạng ô nhiễm nguồn nước của sông Nhuệ.
Một tin mừng là, ngày 29/4/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
57/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông
Nhuệ, sông Đáy đến năm 2020”, với mục đích giải quyết vấn đề ô nhiễm và bảo vệ
môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy.
3. Nguyên nhân nào dẫn đến ô nhiễm môi trường
Luật Bảo vệ Môi trường được QH thông qua năm 2005, có hiệu lực từ 01/07/2006.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại chủ yếu là, đội ngũ cán bộ, lực
lượng kỹ thuật bảo vệ môi trường còn mỏng về số lượng và yếu về nghiệp vụ;
phương tiện quan trắc môi trường, phân tích, thí nghiệm nói chung vẫn còn thiếu
và yếu. Vì vậy, việc kiểm tra xử lý vi phạm môi trường còn bị buông lỏng, chưa
làm thường xuyên, ý nghĩa giáo dục, răn đe còn bị hạn chế.
Ngoài ra, việc thực hiện Luật của chúng ta ngay từ đầu không nghiêm. Lý do chính
là trên thực tế chưa xác định rõ ràng quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân,
cũng như chưa có những chế tài buộc họ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Đây là căn bệnh của nền hành chính nước nhà, không biết đến khi nào mới sửa
được?
Ví dụ, trong Luật quy định có tới 20 điều về trách nhiệm của chính quyền cấp
tỉnh về bảo vệ môi trường. Nhưng qua đợt giám sát, chưa có tỉnh, thành nào ban
hành đầy đủ văn bản, trách nhiệm thực hiện Luật theo thẩm quyền của mình. Có một
số tỉnh đã ban hành một số văn bản nhưng khâu triển khai, kiểm tra đôn đốc, xử
lý vi phạm còn yếu nên không đánh giá được cá nhân, DN nào làm tốt hay chưa tốt
và cần áp dụng biện pháp kinh tế, hành chính, xử lý hình sự nào.
Luật BVMT chưa có hiệu quả vì nhiều quy định không thực hiện được và chế tài xử
phạt còn quá nhẹ. Được biết, hiện nay, Bộ TN-MT đã liệt kê 600 nhà máy nằm trong
danh sách đỏ phải di dời, nhưng vẫn chưa có chó tài buộc di dời các nhà máy đó
đi được?
Vấn đề phạt chỉ là giải pháp tạm thời mang tính chất cảnh cáo. Còn mức phạt hiện
nay tối đa là 70 triệu đồng, thì nhiều DN thay vì phải đầu tư nhiều tỷ đồng vốn
cho công nghệ xử lý rác thải, họ sẵn sàng chịu phạt để tiếp tục xả chất thải
trực tiếp ra môi trường.
Hàng năm, với khoản kinh phí 1% ngân sách nhà nước chi cho công tác quản lý môi
trường; bộ máy quản lý, trình độ nghiệp vụ, phương tiện và sự công tâm của công
chức như hiện nay, thì mục tiêu của Nhà nước đề ra đến năm 2010, chúng ta sẽ xử
lý cơ bản các KCN trọng điểm gây ô nhiễm thì có thể khẳng định không thực hiện
được. Bởi lẽ, Bộ TN-MT và Bộ Tài chính đã có thông tư liên tịch về sử dụng kinh
phí cho sự nghiệp bảo vệ môi trường là 1% ngân sách nhà nước. Nhưng, trong mấy
năm qua, việc chi chưa đúng và chưa hiệu quả còn diễn ra ở nhiều địa phương.
Theo báo cáo của Bộ TN-MT, nhiều tỉnh chỉ giữ lại 10 - 15% cho hoạt động bảo vệ
môi trường ở tỉnh, phần còn lại chia cho các huyện và cũng thiếu cơ chế kiểm tra
việc thực hiện các khoản chi này.
4. Một số kiến nghị
Muốn BVMT nói chung và khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nói riêng với
mục tiêu cùng xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường thì:
- Các tỉnh, thành phố cần chủ động tăng cường kiểm soát nguồn thải của các nhà
máy, xí nghiệp, dịch vụ, làng nghề trên địa bàn. Thực hiện các biện pháp cưỡng
chế các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mà không
có khả năng giảm thiểu và di dời.
- Điều đáng quan tâm nhất hiện nay, là sự bất hợp lý về phát triển đô thị và khu
công nghiệp. Cụ thể, phát triển đô thị nhanh nhưng chưa có quy hoạch xứng tầm,
việc lập các đề án đô thị mới ồ ạt, không hiệu quả và gây lãng phí.
- Các cơ quan chức năng của Nhà nước phải nhận diện được những vấn đề cần ưu
tiên cấp bách, làm cơ sở cho các nhà quản lý môi trường Việt Nam hoạch định
chính sách môi trường Việt Nam.
- Nhà nước cần đầu tư kinh phí vào những dự án môi trường để không còn cảnh
nhếch nhác, bẩn thỉu, ô nhiễm nặng và thiếu văn minh... vốn là “đặc trưng” ở
nhiều khu vực, trong đó có nhiều con mương nước đen lộ thiên ở Hà Nội. Rác thải,
nước thải đang bị con người vô tư đẩy xuống lòng mương. Mùa mưa, rác thải làm
ách tắc dòng chảy thoát nước. Đặc biệt, Hà Nội lại đang gấp rút hoàn thiện những
công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. Đại lễ 1.000 năm Thăng Long chắc chắn
còn phải chứng kiến sự lộ thiên của các mương nước ô nhiễm. Một Thủ đô văn minh
– một thành phố lớn nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc lẽ nào lại để tồn
tại những nguy cơ về dịch bệnh, những dòng nước đen kịt bốc mùi ô nhiễm len lỏi
trong các khu dân cư?.
http://irv.moi.gov.vn/News/PrintView.aspx?ID=19654
13- Nợ môi trường: GDP tăng 1%, chất thải tăng 3%
GDP tăng 1%, chất thải tăng 3%. Nếu tiếp tục tình trạng này, chúng ta sẽ phải
trả giá rất đắt trong hiện tại cũng như mai sau... Ý kiến của Phó Chủ nhiệm Ủy
ban Khoa học-Công nghệ và Môi trường (KH-CN &MT) Quốc hội Nghiêm Vũ Khải. Trong
các tháng đầu năm nay, Ủy ban KHCN &MT Quốc hội do Phó chủ nhiệm Ủy ban Nghiêm
Vũ Khải làm trưởng đoàn đã có đợt đi kiểm tra tình hình thực hiện Luật Bảo vệ
môi trường ở một số khu công nghiệp (KCN), kinh tế và đô thị trên cả nước. Phóng
viên VietNamNet đã có buổi trao đổi với Phó chủ nhiệm Ủy ban KHCN &MT Quốc hội
Nghiêm Vũ Khải xung quanh vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Qua đợt kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường ở nhiều cơ
sở trên cả nước, theo ông, vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam nghiêm trọng đến
đâu?
Vấn đề nước thải, chất thải CN, chất thải rắn, chất thải sinh hoạt đang là vấn
đề gây ô nhiễm nghiêm trọng tại các KCN, nhất là nước thải. Có những tỉnh, tỷ lệ
KCN có khu xử lý nước thải chỉ đạt 15%. Các cơ sở sản xuất, nhất là các xí
nghiệp sản xuất nhuộm, giấy, thuộc da là những DN thải ra lượng nước thải hàng
nghìn m3/ ngày. Lượng nước thải này thấm sâu vào lòng đất, tầng nước ngầm và
chảy ra các dòng sông gây ô nhiễm nghiêm trọng đến nguồn nước. Điển hình như
sông Thị Vải hiện nay có những khúc sông người ta gọi là sông chết.
Bản thân Thị Vải không phải là một con sông mà là một vịnh hẹp ăn sâu trong đất
liền, do vậy lượng nước thượng nguồn rất ít và hầu như không có sự lưu thông. Do
sông Thị Vải thuộc địa phận hai tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu nên việc phân
công trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm dòng sông này chưa có sự thống nhất và gây
nhiều tranh cãi. Cũng may sông Thị Vải không chảy ra biển nên không gây ô nhiễm
môi trường và hệ sinh thái dọc bờ biển. Ba hệ thống sông Đồng Nai - Sài gòn,
sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong mấy năm qua,
Chính phủ đã rất cố gắng và có nhiều mô hình phân công, phối hợp, xử lý ô nhiễm
ba hệ thống sông này nhưng cho đến nay vẫn chưa có một mô hình nào có tính khả
thi cao. Các dòng sông bị ô nhiễm vẫn đang tiếp tục chảy và đang bị ô nhiễm.
Thưa ông, có nhiều ý kiến cho rằng VN đang "để sổng" ô nhiễm môi trường và là
bãi rác công nghệ, ý kiến của ông về vấn đề này?
Trong giai đoạn đầu, do có nhu cầu phát triển kinh tế và chúng ta có ít kinh
nghiệm nên đã tiếp nhận một loạt công nghệ lạc hậu cấm sử dụng ở nước ngoài mang
sang VN.
Luật bảo vệ môi trường được QH thông qua năm 2005, có hiệu lực từ 01/07/2006, đã
trở thành đạo luật cơ bản về bảo vệ môi trường ở nước ta, vậy tại sao chúng ta
vẫn để xảy ra tình trạng này?
Việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường đã đạt được tiến bộ đáng ghi nhận và đưa
hoạt động bảo vệ môi trường ngày càng đi vào nề nếp hơn.Tuy nhiên, bên cạnh đó
vẫn còn một số tồn tại chủ yếu là về đội ngũ cán bộ, lực lượng kỹ thuật bảo vệ
môi trường còn mỏng về số lượng và nghiệp vụ; phương tiện kỹ thuật vẫn còn thiếu
và yếu. Ngoài ra, việc thực hiện Luật của chúng ta ngay từ đầu không nghiêm. Lý
do chính là trên thực tế chưa xác định rõ ràng quyền và trách nhiệm của tổ chức,
các nhân cũng như có những chế tài buộc họ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đó. Ví dụ, trong luật quy định có tới 20 điều về trách nhiệm của chính quyền cấp
tỉnh về bảo vệ môi trường. Nhưng qua đợt giám sát có thể nói chưa có tỉnh, thành
nào ban hành đầy đủ văn bản, trách nhiệm thực hiện luật theo thẩm quyền của
mình.
Trong khi việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường còn chưa nghiêm thì việc chế tài
xử phạt của ta còn quá nhẹ. Hiện Bộ TN-MT đã liệt kê 600 nhà máy nằm trong sách
đỏ phải di dời nhưng vẫn chưa chế tài, buộc di dời các nhà máy đó đi được?
Vấn đề phạt chỉ là giải pháp tạm thời mang tính chất cảnh cáo. Còn mức phát hiện
nay mức tối đa là 70 triệu đồng thì nhiều DN thay vì phải đầu tư vốn lớn cho
công nghệ xử lý rác thải họ sản sàng chịu phạt để tiếp tục xả chất thải trực
tiếp ra môi trường.
Thưa ông, nếu chúng ta không có những biện pháp giải quyết dứt điểm và nghiêm
túc, thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải gánh chịu hậu quả những "đống rác" này?
Tôi nói đã đến lúc chúng ta không thể lùi được nữa, không thể tiếp tục hi sinh
chất lượng môi trường cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Theo đánh giá của
nhiều chuyên gia GDP tăng 1%, chất thải tăng 3%. Nếu chúng ta tiếp tục tình
trạng này, chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt tại thời điểm hiện nay và thế hệ mai
sau. Chất lượng cuộc sống sẽ giảm và không bảo đảm thực hiện được ba mục tiêu
phát triển bền vững là tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường.
Với khoản kinh phí 1% ngân sách Nhà nước chi cho quản lý môi trường và theo mục
tiêu dự thảo sửa đổi Nghị quyết 41 năm 2010 chúng ta sẽ xử lý cơ bản các KCN
trọng điểm gây ô nhiễm. Thưa ông, khoản kinh phí này có đủ để đạt mục tiêu
không?
Bộ TN-MT và Bộ Tài chính đã có thông tư liên tịch về sử dụng kinh phí cho sự
nghiệp bảo vệ môi trường là 1% ngân sách Nhà nước. Nhưng trong mấy năm qua, việc
chi chưa đúng và chưa hiệu quả còn diễn ra ở nhiều địa phương. Theo báo cáo của
Bộ TN-MT, nhiều tỉnh chỉ giữ lại 10 - 15% cho hoạt động bảo vệ môi trường ở
tỉnh, phần còn lại chia cho các huyện và cũng thiếu cơ chế kiểm tra việc thực
hiện các khoản chi này. Tôi cho rằng, cần chi đủ, thậm chí cao hơn 1% và chi
đúng để từng mục tiêu được thực hiện dứt điểm, tránh dàn trải, tùy tiện trong
việc chi kinh phí sự nghiệp bảo vệ môi trường. Ngoài ra, cần huy động các nguồn
lực khác như phí bảo vệ môi trường, các dự án quốc tế và sự đóng góp của xã hội.
Sau chuyến đi này, Ủy Ban KNCN&MT Quốc hội có kiến nghị gì với Chính phủ?
Chúng tôi đã và đang thu thập những kiến nghị của các địa phương và sẽ tổ chức
hội thảo, hội nghị để xin ý kiến rộng rãi, dân chủ chọn những nội dung cấp bách
nhất báo cáo với Ủy ban thường vụ QH. Việc trước mắt, Ủy ban KHCN&MT đề nghị
Chính phủ, Bộ TN-MT, các bộ ngành đôn đốc, giúp đỡ các UBND cấp tỉnh nhanh chóng
hoàn thiện hệ thống văn bản, tổ chức bộ máy và điều kiện trang thiết bị bảo vệ
môi trường theo đúng quy định của Luật BVMT năm 2005; củng cố bộ máy, từng bước
chính quy hóa các hoạt động BVMT; đề nghị với Chính phủ bổ xung, sửa đổi các
quyết định của Thủ tướng và các thông tin hướng dẫn của địa phương.
Xin cảm ơn ông!
Theo Vietnamnet
http://www.hcmier.edu.vn/newier/?lang=0&tab=3&cateid=318&msgid=858
14- 10.000 km2 sông ngòi bị ô nhiễm nghiêm trọng
Những họng nước thải đen ngòm từ các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn xả thải
trực tiếp ra môi trường sông ngòi xung quanh mà không qua xử lý.
Đô thị hóa, sự hình thành và phát triển nhanh chóng các khu công nghiệp, khu chế
xuất... đã khiến hệ thống sông ngòi Việt Nam, gồm 8 lưu vực với 10.000 km2 sông
ngòi, kênh rạch, bị ô nhiễm ở mức báo động.
Ông Dương Thanh An, Phó chánh văn phòng phụ trách tổng hợp và pháp luật thuộc
Cục Bảo vệ môi trường, đã phát biểu như vậy tại hội thảo "Phát triển bền vững
các thành phố xanh trên lưu vực sông" diễn ra sáng nay tại TP HCM.
Nhiều kết quả khảo sát, quan trắc cho thấy, hàm lượng các chất ô nhiễm trên
những lưu vực sông cao vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Sông Tô Lịch vốn
thơ mộng nay đã đen ngòm. Hệ thống sông tại Đà Nẵng bị nhiễm lượng cyanua cao
vượt mức cho phép. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng ô nhiễm của lưu vực sông
Đồng Nai với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương,
Bà Rịa - Vũng Tàu.
Các thành phố lớn tại Việt Nam đều có một ưu điểm lớn là gắn với một dòng sông
nào đó, nhưng chính các thành phố này đã tự làm mình ô nhiễm và làm dơ bẩn nguồn
nước mặt của sông.
Lưu vực sông Đồng Nai phải phục vụ cho khoảng 15 triệu người với tỷ lệ đô thị
bình quân toàn lưu vực là 51%, 116 khu đô thị, 4 thành phố trực thuộc tỉnh, 19
quận nội thành TP HCM, 8 thị xã, 85 thị trấn. Khu vực này còn có 47 khu công
nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động, trong đó TP HCM có 13 khu, Đồng Nai 16 khu,
9 khu ở Bình Dương và 6 khu Bà Rịa - Vũng Tàu. Chỉ 16 khu công nghiệp có hệ
thống xử lý chất thải tập trung, còn lại đều xả trực tiếp ra môi trường.
Kết quả khảo sát của Viện Môi trường và tài nguyên Đại học quốc gia TP HCM vào
đầu năm nay cho thấy, 44 khu công nghiệp thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
hàng ngày đã xả vào nguồn nước của hệ thống sông Đồng Nai 111.605 m3 nước thải,
trong đó có các chất độc hại như TSS, BOD, COD... Các cơ quan chức năng đều biết
tình trạng này nhưng giải quyết như thế nào là điều không đơn giản.
Bà Ngô Thị Vân, Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bình Dương cũng cho biết, 7 khu
công nghiệp trên địa bàn tỉnh xả nước thải 23.000 m3/ngày đêm. Tuy hầu hết các
khu công nghiệp này đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng lượng nước
thải thu gom đưa về các nhà máy xử lý chỉ đạt khoảng 75%, còn khoảng 25% chỉ xử
lý sơ bộ rồi thải trực tiếp ra cống thoát nước mưa, làm cho các nguồn tiếp nhận
bị ô nhiễm.
Tại hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng, bảo vệ môi trường không là nhiệm vụ của
riêng một đơn vị nào, mà cần phải huy động sức mạnh tổng lực của toàn dân.
Các nhà khoa học phân tích, nếu mỗi tỉnh thành trong khu vực chỉ tự giải quyết
tình trạng ô nhiễm trong phạm vi của mình thì ô nhiễm khó có thể giải quyết
triệt để, nỗ lực sẽ trở nên manh mún và nguy cơ lây lan từ thượng nguồn đến hạ
nguồn là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Giáo sư, tiến sĩ Lâm Minh Triết thuộc Văn phòng điều phối Chiến lược quản lý môi
trường TP HCM nói: "Đã có một vài thành công trong việc bảo vệ môi trường, nhưng
mặt làm được này chỉ mới có tính chất tự phát, chưa phải là từ kế hoạch thống
nhất triển khai các nội dung của Chiến lược quản lý môi trường quốc gia". Nhiều
nhà khoa học khác cũng lên tiếng đề nghị cần có sự hợp tác giữa các thành phố,
tỉnh liên vùng, liên ngành trong bảo vệ môi trường.
Phó giám đốc Sở tài nguyên môi trường TP HCM Nguyễn Văn Chiến đưa ra quan điểm,
cộng đồng cũng như cơ quan quản lý Nhà nước cần phải chuyển tư duy từ "Yêu cầu
Nhà nước bảo vệ môi trường" sang "Cùng Nhà nước bảo vệ môi trường".
Phan Anh
.http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2005/05/3B9DEAC9/
15- Những dòng kênh bị truy sát
Lao Động số 229 Ngày 04/10/2008 Cập nhật: 9:02 AM, 04/10/2008
http://www.laodong.com.vn/Home/Nhung-dong-kenh-bi-truy-sat/200810/109039.laodong
Nhà tạm thi nhau "ngoạm" lấy mặt kênh.
(LĐ) - Khói, bụi, nước thải bẩn, chất thải độc hại tấn công sức khoẻ người dân
hàng ngày. Những dòng kênh xanh trở thành kênh nước đen, kênh nước đỏ và kênh
rác. Những dòng kênh đó đã, đang và sẽ chết vì sự "truy sát" của con người.
Bóp nghẹt các dòng kênh
Trên bản đồ giao thông TPHCM có tên Kênh Nước Đen - nằm trên địa bàn quận Bình
Tân. Dưới chân cầu Trắng, màu nước vẫn tương đồng với tên con kênh và người dân
được "khuyến mãi" thêm mùi hôi khó chịu. Nhưng thương hiệu "kênh nước đen" giờ
đã được chuyển giao ra khắp thành phố: Kênh Tân Hoá nước đen, kênh Đồng Đen nước
đen, kênh Tham Lương nước đen, kênh Thị Nghè nước đen,...
Dọc theo rạch Lò Gốm từ cầu Rạch Ông Buông, dòng nước tuyền một màu đen, thi
thoảng có đoạn rác nổi lềnh bềnh.
Ông Thới Văn Thôn - sống bên bờ rạch Lò Gốm từ năm 1965 - nhớ lại: "Trước đây,
đứng trên bờ nhìn thấy cả cá, sỏi đá dưới đáy, trẻ nhỏ còn ra bơi. Nhưng rồi dân
cư kéo đến ngày một đông, hai bên bờ rạch chỗ nào cũng thấy nhà. Từ những năm
1980, dòng kênh cứ ngày một bẩn hơn". Ở kênh Tân Hoá gần đường Trịnh Đình Thảo,
phường Phú Trung, quận Tân Phú có không ít cơ sở sản xuất chĩa ống xả nước thải
xuống dòng kênh. Dòng nước lúc đen, lúc đỏ, khi thì bị sủi bọt trắng xoá bởi thứ
nước thải chưa rõ nguồn gốc.
Không chỉ kênh, rạch thoát nước mới bị ô nhiễm, những dòng kênh thuỷ lợi cũng
chịu chung số phận. Kênh thuỷ lợi gần KCN Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh là ví
dụ điển hình. Hàng trăm DN hoạt động tại đây đã đầu độc kênh rạch trong khu vực
hết năm này qua năm khác. Cuối năm 2007, người dân nơi đây đã phải kêu cứu vì
hiện tượng cây cỏ lụi dần do ô nhiễm nước. Người dân dùng nước từ kênh đưa vào
ruộng là "đầu độc" cây trồng của mình.
Khó bắt quả tang
Trong buổi tham vấn ý kiến nhân dân về ô nhiễm ở KCN Lê Minh Xuân - do Ban Kinh
tế - Ngân sách HĐND TP chủ trì cuối tuần trước - người dân nơi đây đã tỏ ra chán
chường với việc họp lên họp xuống, nhưng chẳng thấy chuyển biến gì cả.
Ông Lê Văn Khanh - Giám đốc Ban quản lý KCN Lê Minh Xuân - gãi đầu: "Kiểm tra bể
chứa nước thải tại các DN cho thấy đạt tiêu chuẩn, nhưng không hiểu sao, ra đến
bể chứa chung nồng độ ô nhiễm đều vượt quá mức cho phép đến mấy lần". Thậm chí,
có DN không đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN. Như vậy rõ
ràng là vi phạm, không hiểu sao cơ quan quản lý vẫn chưa nghiêm khắc xử lý, để
xảy ra tình trạng ô nhiễm kéo dài.
Rộng hơn, trên địa bàn huyện Bình Chánh, Phòng Tài nguyên - Môi trường kiểm tra
về môi trường tại 181 doanh nghiệp, kết quả chỉ có vỏn vẹn 5 doanh nghiệp đáp
ứng tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường - chiếm tỉ lệ 2,7%. Nhưng, phía địa phương
vẫn không nắm rõ được trên địa bàn có bao nhiêu DN gây ô nhiễm môi trường và
viện dẫn lý do: "Không bắt được quả tang để xử lý".
Dư luận chưa hết xôn xao, phẫn nộ về "cái chết" của kênh Ba Bò lại chuyển sang
"vụ đầu độc" sông Thị Vải. Lợi nhuận chảy vào túi một số người kinh doanh trên
xác các dòng kênh, còn xã hội phải gánh lấy phần hậu quả. Có ai tính được, chúng
ta phải tốn bao nhiêu tiền mới cứu được các dòng kênh?
Đăng Hải - Vinh Hả
http://www.vietshowbiz.com/index.php?name=Forums&file=viewtopic&p=279709
16- Đồng bằng sông Cửu Long Cứu lấy vùng sinh thái “xanh” trước khi mất “trắng”!?
Thứ ba, 30/09/2008, 23:19 (GMT+7)
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/9/166853/
“Hãy cứu lấy vùng sinh thái “xanh” trước khi bị mất “trắng” ở ĐBSCL” – đó là lời
kêu gọi chung của khoảng 250 đại biểu tham dự hội nghị Hội thảo Khoa học Bảo vệ
môi trường ở ĐBSCL trong quá trình CNH, HĐH được tổ chức tại Cần Thơ, ngày 30-9,
do Tạp chí Cộng sản, Thành ủy và UBND TP Cần Thơ và Viện Khoa học-Công nghệ
Phương Nam tổ chức.
“Mức độ ô nhiễm môi trường nuôi cá tra, tôm sú ngày càng nghiêm trọng. Nguồn lợi
thủy sản ngoài tự nhiên bị cạn kiệt (ngay cả đỉa cũng chết), đất bị suy thoái…
Đó là những vấn đề đáng báo động. Cần phải có giải pháp hữu hiệu cho môi trường
thủy sản gắn với an sinh của người dân” – PGS-TS Tạ Ngọc Tấn, UVTƯ Đảng, Tổng
Biên tập Tạp chí Cộng sản đề xuất.
Tại Cần Thơ, nước ở sông Hậu đã bị ô nhiễm cấp độ 2, rạch Sang Trắng (Ô Môn) ô
nhiễm cấp độ 7. Tại Long Hòa (An Giang), nồng độ NH3 vào mùa khô cao gấp 40 lần
so với tiêu chuẩn môi trường cho phép… Một hệ quả của ô nhiễm môi trường có thể
thấy rõ nhất là tình trạng hao hụt (cá chết) của các hộ nuôi cá tra trên sông
Hậu ngày càng gia tăng. Trước đây, chỉ ở mức hao hụt 10%; hiện nay lên đến 30%.
“Nếu không khắc phục tình trạng ô nhiễm do nuôi cá tra gây ra thì chính những
người nuôi cá tra giết chết cá tra trong tương lai – thạc sĩ Phạm Văn Quỳnh, Phó
Giám đốc Sở NN-PTNT Cần Thơ dẫn chứng về những hệ lụy của môi trường bị ô nhiễm…
Do phát triển ồ ạt các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) của ĐBSCL
cùng với xu thế bùng phát nuôi trồng, chế biến thủy sản chưa theo quy hoạch tổng
thể; lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu; áp lực gia tăng dân số nhanh đã làm cho
tình trạng ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước hết sức nghiêm trọng.
Năm 2003, ĐBSCL có 68 KCN-CCN với 15.154 ha, năm 2007 đã vọt lên 151 KCN-CCN với
gần 20.000 ha. Dự báo, năm 2010 diện tích phát triển các KCN-CCN khoảng 31.500
ha. “Có nên chọn cách tăng trưởng GDP nhanh để đánh đổi bằng những vùng “trắng”
ô nhiễm? Hiện nay, mức độ ô nhiễm ở miền Đông Nam bộ đã đến đầu gối, còn miền
Tây đã đến mắt cá chân” – tiến sĩ Nguyễn Hữu Nguyên (Viện Nghiên cứu xã hội
TPHCM) nói một cách hình tượng.
“ĐBSCL cũng đang đứng trước những thách thức về ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu,
làm rõ thực trạng, nguyên nhân và các hậu quả của vấn đề ô nhiễm môi trường
không chỉ là cơ sở khoa học cho hoạch định chính sách, giải pháp môi trường, mà
còn là cơ sở để giáo dục nhận thức của cán bộ, nhân dân, các nhà quản lý về sự
cần thiết trong việc bảo vệ môi trường ĐBSCL” – Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng
ban Tuyên giáo Trung ương Tô Huy Rứa nhấn mạnh.
CAO PHONG
17- Sông Lục Nam trước nguy cơ ô nhiễm
26/02/2008
Lục Nam là một trong 3 con sông lớn của tỉnh Bắc Giang và là tuyến giao thông
đường thuỷ huyết mạch của cả vùng Đông Bắc. Do đặc điểm địa hình, sông Lục Nam
chảy giữa hai bên là núi và những cánh đồng phì nhiêu, khi qua trung tâm huyện
Lục Nam, sông uốn lượn dưới chân núi Huyền Đinh, tạo nên bức tranh sơn thuỷ hữu
tình.
Tuy nhiên gần đây, sông Lục Nam bị đe dọa ô nhiễm bởi nước thải từ Nhà máy Giấy
Mạnh Đạt và từ việc khai thác cát sỏi bừa bãi của một số doanh nghiệp trong khu
vực.
Nhà máy Giấy Mạnh Đạt đi vào hoạt động từ năm 2004, với công nghệ khép kín. Tuy
nhiên trên thực tế, trong quá trình sản xuất, nhà máy đã không tuân thủ đúng quy
trình kỹ thuật, nước thải qua bể lắng nhưng không được xử lý mà chảy thẳng xuống
sông. Nhân dân sinh sống hai bên bờ sông, nhất là khu vực gần nhà máy đã sớm
phát hiện nguồn nước bị ô nhiễm và nhiều lần kiến nghị xử lý. Chính quyền tỉnh
Bắc Giang, huyện Lục Nam và các ngành chức năng đã vào cuộc. Theo kết quả quan
trắc, phân tích chất lượng nước bề mặt tại Báo cáo đánh giá tác động môi trường
thuộc dự án Nhà máy Nhựa Khải Thừa (Trung Quốc) tại cụm công nghiệp Già Khê
(Tiên Hưng), do Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường -Bộ Tư lệnh hoá học (Bộ
Quốc phòng) thực hiện tháng 10.2007, hầu hết các thông số đánh giá nồng độ ô
nhiễm chất lượng bề mặt nước tại thượng lưu, hạ lưu (cách khu vực xả thải của
nhà máy 200m) thấp hơn giới hạn cho phép theo TCVN-5942, nhưng tại điểm tiếp
nhận nước thải của nhà máy giấy chảy ra sông, các thông số BOD5, COD, NO2, NH4+.
Sắt... quá giới hạn cho phép.
UBND huyện Lục Nam đã yêu cầu Nhà máy Giấy Mạnh Đạt phải thực hiện đúng yêu cầu
kỹ thật khi xử lý nước thải, nếu không sẽ phải ngừng sản xuất, nhưng đến nay nhà
máy vẫn chưa thực hiện đúng cam kết, sông Lục Nam vẫn tiếp tục bị đe dọa ô
nhiễm.
Không chỉ ô nhiễm nguồn nước, lòng sông Lục còn bị đào bới không thương tiếc để
khai thác cát, sỏi. Sông Lục Nam chảy qua địa phận 12 xã của huyện Lục Nam. Từ
năm 2006, đã có 47 thuyền khai thác cát sỏi có trọng tải từ 20 đến 40 tấn, công
suất từ 25-50m3/ngày hoạt động thường xuyên trên sông Lục Nam. Những thuyền cát
đậu giữa dòng sông, nhưng đưa vòi hút cát sát bờ sông, đe dọa sạt lở nghiêm
trọng. Có thời gian, thuyền cát hoạt động suốt ngày đêm, khi các ngành chức năng
kiểm tra, xử lý thì các chủ thuyền hoạt động về đêm để dễ lẩn tránh. Trong số
các doanh nghiệp đang khai thác cát, chỉ duy nhất có doanh nghiệp Quang Hưng
được tỉnh cấp giấy phép hoạt động. Tuy nhiên, do chưa quy hoạch cụ thể vùng khai
thác nên các chủ thuyền chưa được cấp phép cũng tự do khai thác cát sỏi bừa bãi
nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để. Chính tình trạng khai thác không theo
quy hoạch đã làm cho dòng sông mất đi sự bình yên vốn có, làm cản trở giao
thông, đe dọa sạt lở gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của người
dân.
Để trả lại môi trường trong lành, sự bình yên cho dòng sông Lục Nam và hàng vạn
cư dân hai bên bờ sông, tỉnh Bắc Giang và chính quyền sở tại cần sớm có giải
pháp tích cực, kiên quyết hơn ngăn chặn tình trạng vi phạm. Những cư dân sống
hai bên bờ sông Lục Nam cũng phải phối hợp với các ngành chức năng góp phần bảo
vệ dòng sông.
Trần Luyện
http://www.nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/7/ContentID/34004/Default.aspx
18- Ám ảnh những con sông nội thành
24/06/2008
Hà Nội hiện có 4 con sông, gồm: sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, sông Kim Ngưu.
Gọi là sông nhưng trong con mắt của nhiều người, đó chỉ là những đường cống
thoát nước lớn. Sự ô nhiễm nặng nề không chỉ là nỗi buồn tiếc của những người
yêu Hà Nội mà còn là nỗi ám ảnh của nhiều người dân sống bên bờ các con sông
này.
Vớt rác trên sông Tô Lịch.
Ô nhiễm và không “hoàn thành nhiệm vụ”
Có thể nói chính quyền thành phố đã có nỗ lực cải tạo 4 con sông này nhằm cải
thiện tình trạng úng ngập của Hà Nội, đồng thời mang lại cảnh quan đẹp cho thủ
đô. Trong vài năm trở lại đây, các con sông này đã được kè hai bên bờ, nạo vét
lòng sông và vớt rác thường xuyên.
Thế nhưng, mọi nỗ lực trên cũng chưa thể làm cho những con sông đã từng đi vào
thơ, ca, nhạc, họa này thơ mộng trở lại. Thực tế, cho đến nay tình trạng ô nhiễm
tại các con sông trong nội thành không hề giảm đi mà vẫn đang tiếp tục tăng lên.
Theo Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Nội, tổng lượng nước thải sinh hoạt và nước
thải sản xuất công nghiệp ở khu vực nội thành khoảng 500.000 m3/ngày, đều tiêu
thoát qua hệ thống cống và 4 sông tiêu chính là Tô Lịch, Lừ, Sét, Kim Ngưu.
Trong đó, nước thải từ hoạt động sản xuất, bệnh viện và cơ sở dịch vụ chứa nhiều
chất gây ô nhiễm chưa được xử lý chiếm tới 90%.
Bị ô nhiễm vì gánh vác nhiệm vụ thoát nước thải và chống úng ngập song thực tế,
những con sông này hiện không thể đảm đương nổi vai trò chủ lực trong việc chống
ngập úng của thủ đô. Dự án thoát nước cho Hà Nội giai đoạn 1 có tổng vốn đầu tư
187,36 triệu USD bao gồm vốn ODA 139 triệu từ Chính phủ Nhật Bản và 48,36 triệu
USD từ nguồn vốn trong nước đã gần hoàn thành nhưng mỗi khi có những trận mưa
lớn, Hà Nội vẫn tiếp tục lâm vào tình trạng ngập úng ở nhiều nơi.
Trận mưa lớn ngày 18-6 vừa qua cho thấy, nước ở 4 con sông này đã đầy ắp, dâng
lên cao chưa từng thấy, trong khi nhiều đường phố Hà Nội vẫn ngập sâu trong
nước.
Nỗi ám ảnh của người dân
Với những người dân sống ven bờ những con sông này thì sự ô nhiễm thực sự là một
nỗi ám ảnh dai dẳng. Sông Tô Lịch ngoài những đoạn đã được cống hóa thì đoạn dọc
đường Bưởi đến Ngã Tư Sở, dọc Kim Giang về đến khu vực Cầu Bươu đều lộ thiên.
Việc kè bờ, trồng cỏ và cây cảnh ven bờ khiến cảnh quan con sông này được cải
thiện hơn trước.
Thế nhưng, chỉ những người dân sống ở đây mới thấu hiểu nỗi khổ khi phải chung
sống với một dòng sông đen kịt đầy rác rưởi, bốc mùi khó chịu trôi qua trước
nhà. Muỗi, côn trùng cũng từ đó mà ra. Con sông Kim Ngưu đoạn chảy qua khu tập
thể Quỳnh Mai cũng trong tình trạng tương tự.
Chị Mai Hà (KTT Quỳnh Mai) cho biết: “Từ ngày kè con sông này tôi đã hy vọng
tình trạng sẽ được cải thiện nhưng đến nay, cảnh quan thì có vẻ thay đổi phần
nào song sự ô nhiễm thì mỗi ngày một nặng nề hơn. Vào những ngày nóng nực, đúng
hướng gió thổi về KTT thì các nhà ở đây đều phải đóng cửa. Chiều hè, không dám
dạo bộ bên bờ sông cũng vì không khí không được trong lành”.
Cũng như vậy, con sông Lừ đang là nỗi ám ảnh ghê gớm của những hộ dân sống dọc
bờ sông. Người dân thuộc 2 phường Phương Liệt, Trương Định (Q. Hoàng Mai) hiện
rất bức xúc vì sự ô nhiễm đang tăng lên ở đoạn sông dài chừng 3km chảy qua địa
bàn này. Nước sông đen kịt vì ô nhiễm lại kèm thêm chất thải rắn nổi lềnh bềnh
khắp mặt sông.
Theo anh Trần Mạnh Dũng (tổ 23 P. Phương Liệt), ô nhiễm ngày càng nặng là vì các
hộ dân đang lấn chiếm hai bên bờ con sông này . Ở đoạn cuối ngõ 177 phố Định
Công nằm sát khu chung cư Đại Kim, hiện có hơn 10 căn nhà tạm mới được người dân
địa phương xây dựng trong vòng 2 tháng nay.
Hầu hết những căn nhà này đã được cho người nơi khác đến thuê ở và kinh doanh
dịch vụ như: hàng cơm, quán nước, sửa chữa xe đạp, xe máy… Các cửa hàng tạm bợ
này vẫn hàng ngày vô tư xả rác xuông lòng sông.
Chẳng còn bao lâu nữa là đến Đại lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội. Chẳng
lẽ chúng ta cứ để những con sông đã đồng hành cùng lịch sử ngàn năm đó mang
gương mặt “lọ lem” trong ngày hội?
Theo SGGP
http://www.pindex.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=1017&Itemid=245
19- Ô nhiễm môi trường nước ở đồng bằng sông Cửu Long
Hiện nay, các dòng sông ở đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nạn ô nhiễm
môi trường nước. Đây cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng tôm nuôi bị chết hàng
loạt thời gian qua.
Trước hết là tình trạng ô nhiễm nước thải. Nước thải có từ nhiều nguồn như sinh
hoạt của các chợ, điểm dân cư, nước thải từ việc nuôi cá, tôm mang tính công
nghiệp, trong sản xuất kinh doanh tôm giống, chế biến thủy sản, chế biến thực
phẩm, dịch vụ, giao thông vận tải và nước cải tạo ao đầm vụ trước...
Trong các nhóm này, nước thải từ chế biến thủy sản, sản xuất kinh doanh tôm, cá
giống, nước thải cải tạo ao đầm sau khi nuôi, sau khi bị sự cố dịch bệnh, tôm,
cá chết là rất nguy hại vì chứa nhiều mầm bệnh..., đang được thải trực tiếp ra
môi trường sông rạch. Người dân nuôi tôm lấy nước vào cũng không xử lý an toàn
trước khi thả giống, làm cho mầm bệnh lưu tồn, lan truyền. Các nguồn nước hiện
nay không chỉ chứa mầm bệnh mà còn có cả dư lượng thuốc trừ sâu, kháng sinh trừ
bệnh, hóa chất xử lý môi trường... rất bất lợi cho thủy sinh vật và tôm, cá
nuôi. Đây là vấn đề bức xúc nhất, cần phải được cả cộng đồng cùng quan tâm và
kiên quyết xử lý thì mới có kết quả tốt. Giải pháp quy hoạch lại các làng bè ở
quy mô hợp lý, dùng ao lắng và thay nước giới hạn sẽ rất cần thiết và hữu ích
cho việc nuôi tôm, cá trong tình hình nguồn nước bị ô nhiễm hiện nay.
Sau đó là sự phát sinh độc hại từ các yếu tố lý, hóa học, đất, nước... do tác
động cải tạo của con người. Các vùng đất đã chuyển đổi để nuôi tôm, cá ao phần
lớn đều thuộc loại nhiễm phèn; tầng sinh phèn thường ở nông nên trong quá trình
cải tạo, kiến thiết ao, ruộng nuôi, do vô tình hoặc cố ý mà nông dân đã tạo nên
những xáo trộn nguy hiểm, đã đào sâu và đưa tầng sinh phèn lên bề mặt, tạo điều
kiện cho nó tiếp xúc với không khí trở thành phèn hoạt động, làm cho hàm lượng
sắt và cả nhôm hòa tan tăng cao. Các loại khí độc H2S, NH3... do xác thực vật,
rong tảo bị phân hủy trong quá trình nuôi cũng phát triển gây độc hại cho các
loài thủy sản.
Tình hình này thời gian qua rất nghiêm trọng do nông dân đồng loạt cải tạo ao
đầm, kiến thiết bờ mương, đặc biệt là đưa vào áp dụng các công cụ cơ giới như
máy bơm bùn, máy khoan đất... là những công cụ mới làm đất có năng suất rất cao,
nhưng người sử dụng chưa được trang bị kiến thức tốt. Với lực lượng máy khoan
đất, bơm bùn hùng hậu và trong tình trạng bơm đổ trực tiếp ra sông, kinh rạch
bất kể mùa vụ như hiện nay, thì chỉ riêng nước bùn thôi cũng đủ làm hại cho mọi
loài thủy sản. Nếu các địa phương không chấn chỉnh, kiểm soát nơi đổ bùn sao cho
có chỗ, có nơi, không xử lý tốt những vi phạm thì hậu quả sẽ rất lớn. Các lòng
sông, kinh rạch, sẽ bị bồi lắng, nước bùn sẽ tiếp tục gây bất lợi cho nuôi trồng
thủy sản. Theo chúng tôi, cần có những quy định chặt chẽ và biện pháp chế tài
nghiêm khắc mới mong cải thiện được tình hình.
Mặc dù thường xuyên có những khuyến cáo, ngăn cấm, nhưng tình trạng nông dân lạm
dụng nông dược, thuốc kháng sinh, hóa chất, phân bón... quá mức cần thiết, dẫn
đến những hậu quả ô nhiễm các nguồn nước ngay trong ao đầm. Sau đó bơm xả ra làm
ô nhiễm lan tỏa sông rạch, như thế, việc tồn lưu ngay trên nguyên liệu là hoàn
toàn có thể xảy ra, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm...
Hiện nay, vấn đề này vẫn còn nan giải đối với việc quản lý môi trường nuôi trồng
thủy sản ở nhiều nơi, nếu không kiên quyết ngăn chặn, đặc biệt là các hóa chất
kháng sinh, thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng thì hậu quả sẽ không nhỏ. Việc tăng
cường giáo dục, tập huấn nâng cao nhận thức, hướng dẫn kỹ thuật cho người nuôi
và người kinh doanh dịch vụ trong giai đoạn này là rất cần thiết. Công tác giám
sát, kiểm tra vi phạm trong kinh doanh dịch vụ cũng cần phải được tiến hành
thường xuyên và xử lý nghiêm khắc triệt để hơn nữa.
Ngoài ra, trong quy hoạch, chuyển đổi, tổ chức các loại hình kinh doanh nuôi
trồng của các tỉnh vừa qua có những vùng không phù hợp cho con tôm, con cá, như
đất quá gò, đất không giữ được nước, nơi nguồn nước ô nhiễm cao, nước nhiễm
phèn, khó cải tạo... nhưng nông dân cố đeo đuổi cải tạo một cách gò ép để nuôi
đã tác động mạnh mẽ vào các yếu tố đất, nước làm cho môi trường bị biến đổi theo
xu thế bất lợi như tăng độ mặn, tăng nhiệt độ, PH luôn dao động và các thông số
môi trường khác thường xuyên biến đổi..., tác động xấu đến thủy sinh vật, góp
phần gây nên hiện tượng tôm, cá chết trên diện rộng. Nhiều vùng chuyển dịch đã
mất luôn khả năng làm một vụ lúa để thanh lọc môi trường. Vấn đề này rất cần
được rà soát, nghiên cứu đánh giá và đề ra giải pháp khắc phục sớm để nông dân
yên tâm đầu tư, ổn định sản xuất hoặc trồng lúa, màu, cây công nghiệp, v.v.
Các vấn đề trên có liên quan trực tiếp các yếu tố môi trường nuôi trồng thủy sản
trong các vùng chuyển dịch thời gian qua, và hiện nay không chỉ tác động trực
tiếp tại đồng ruộng, mà còn theo thủy triều chảy ra biển, phát tán đến nhiều nơi
và có nguy cơ ảnh hưởng không nhỏ đến các nguồn lợi thủy sản ven bờ và nghề nuôi
trồng thủy sản trong nội địa trên toàn khu vực.
Đã đến lúc cơ quan quản lý môi trường, các địa phương trong vùng cần nghiêm khắc
xử lý các cơ sở, cá nhân gây ô nhiễm môi trường nước; tổ chức quan trắc thật tốt
nhằm đánh giá kịp thời các yếu tố môi trường để thông báo cho nhân dân. Cần tăng
cường công tác, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn dân cùng tham
gia bảo vệ tốt môi trường nước nuôi trồng thủy sản. Đây là vấn đề sống còn và là
yếu tố "cần" rất quan trọng nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nghề
nuôi thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long.
NGUYỄN VĂN THƯỚC
Nguồn: Nhân dân
20- Các hiểm họa từ thượng nguồn sông Cửu Long
Kỹ Sư Phạm Phan Long
Các hiểm họa từ thượng nguồn sông Cửu Long đang đổ xuống có khả năng từ từ dìm
Cà Mau và duyên hải Nam Việt xuống biển, ép nước mặn lấn dần vào sâu trong châu
thổ sông Cửu Long, và ngăn chặn tôm cá đi đi về về sinh sản tại hạ nguồn. Ô
nhiễm từ kỹ nghệ quặng mỏ Vân Nam sẽ theo dòng nước đổ xuống, những hồ chứa
nước, đập thủy điện khổng lồ và khai thác quặng mỏ ở thượng nguồn sẽ còn là
những mối hiểm họa ghê gớm, có khả năng gây sóng thần tràn ngập lưu vực và gây
tê liệt vựa lúa Việt Nam nếu việc quản lý có sự tắc trách vô tình hoạc cố ý.
Việc gia tăng sử dụng than đá và phát triển kỹ nghệ luyện kim trên Vân Nam sẽ
tăng độ ô nhiễm không khí; ô nhiễm này sẽ lan rộng và tỏa xuống Bắc Việt theo
gió mùa không ngăn cản được.
Sông Mekong từ Tây Tạng chảy qua sáu nước, do đó vừa là phương tiện giao thoa
của nhiều nguồn văn hóa ngôn ngữ, có thể mang lại tình hữu nghị và cũng là mối
tranh chấp quyền lợi. Mekong là mạch máu chính và cũng là dòng sữa mẹ cưu mang
hàng chục triêụ ngư dân và nông dân, có các nền văn minh lâu đời đa dạng, là nơi
ẩn trú và sinh tồn của hàng chục ngàn giống loài, trăm ngàn thảo vật rất hiếm
qúy. Mekong vẫn còn là nơi tiếp tục cống hiến những phát hiện mới góp phần làm
phong phú cho kho tàng sinh học của nhân loại [1].
Tương lai của lưu vực sông Mekong, và vì thế nhất là của Việt Nam tại cuối
nguồn, sẽ lệ thuộc nặng nề vào chính sách phát triển của các nước thượng nguồn
nhất là Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc với 1,3 tỉ dân số đang mắc vào nạn hạn
hán và sa mạc hóa trầm trọng lan rộng trên lành địa của họ. Sông Songhua, hằng
mang nước về cho dân cư Hoa Bắc nay đã khô cạn. Nửa tỉ người sống từ Mông Cổ đến
Tân Giang (Xinjiang) đang mất dần nước dùng; có đến 400 trong số 668 thành phố
đang thiếu nước sinh hoạt. Chỉ cách Bắc Kinh 70 cây số, đã có những trận bão
cuốn cát vàng (hoàng thổ) từ sa mạc Mông Cổ Gobi thổi về bao phủ cả thành phố và
làng mạc; có những đụn cát nổi lên cao đến 100 mét tiến về hướng kinh đô với vận
tốc 5 mét mỗi năm. Tại Hà Bắc một đoạn của Vạn Lý Trường Thành bỗng nhiên ngoi
lên từ đáy hồ cạn Phan Gia Khẩu (Pan Jiakou) [2].
World Bank dự dự đoán rằng hai phần ba sản xuất nông nghiệp của cả Trung Quốc là
nằm ở Hoa Bắc lại là nơi không đủ nước dùng, đến năm 2050 thu hoạch ngũ cốc sẽ
giảm mất 7% [3]. Trung Quốc đã bơm nước từ Hoàng Hà lên cứu Hoa Bắc, hậu quả
việc này là 226 ngày trong năm 1997 nước Hoàng Hà không còn chảy được tới biển.
Trung Quốc đang lập kế hoạch chuyển 45-60 tỉ mét khối nuớc từ Dương Tử từ phía
Nam lên lưu vực Hoàng Hà. Dự án vĩ đại này tốn khoảng US$30 tỉ [4], hơn cả đập
Tam Giáp; mà Tam Giáp vốn là một công trình
xây cất lớn bậc nhất của nhân loại. Trung Quốc đã để dân số tăng quá nhanh, chăn
nuôi quá sức chịu đựng của đất đai, và khai thác rừng quá sức phục hồi của tạo
hóa [2]. Sau 50 năm, Hoa Bắc đã rơi vào thảm trạng bi đát, đến nỗi châu thổ
Hoàng Hà -cái nôi của nền văn minh Trung Quốc- đã bị hy sinh.
Bây giờ, không thể tránh được nữa, Mekong với tiềm năng 71 triệu kW [5] tuy ở
phương Nam nay đã thành mục tiêu khai thác chiến lược của Trung Quốc. Liệu Trung
Quốc có quan tâm gì về hạ nguồn để tránh cho sông Mekong khỏi rơi vào cùng số
phận với sông Hoàng Hà hay không? Liệu biển hồ Tonle Sap, Đồng Tháp Mười và châu
thổ sông Mekong có tránh khỏi phải đón nhận các chất thải kỹ nghệ độc hại như
cyanide, arsenic, acid vốn có từ các quặng mỏ từ
Vân Nam chảy về hủy hoại hệ sinh thái của họ hay không? Phù sa có còn đủ để bồi
đắp cho duyên hải Cà Mâu và đem dinh dưỡng giữ cho thủy hệ biển Đông được tồn
tại hay không?
Hiện nay việc khai thác tiềm năng thủy điện và chứa giữ nước từ Lạn Thương giang
(Lancang) thượng nguồn Mekong, tại Vân Nam đã được tiến hành đại quy mô và với
tầm vóc kỷ lục thế giới. Họ đã thực hiện xong các đập thủy điện lớn ngang dòng
chính như Mãn Loan (Manwan) 1500 MW và Đại Chiếu Sơn (Dashaohan) 1350 MW [6].
Bốn nước Trung Quốc, Thái, Miến, Lào đã thỏa thuận sẽ phá các cù lao đảo, vét
lòng sông và mở rộng ghềnh thác cho tàu bè trọng tải 500 tấn có thể đi từ hải
cảng Simao xuống tận Chiang Khong/Chang Sean, Thái Lan [7] [8]. Trung Quốc sắp
khai dựng thêm đập Hiếu Loan (Xiaowan) 4200 MW, cao gần 300 m, cao bằng các toà
nhà chọc trời 100 tầng [9]. Họ còn các dự án lớn khác nữa như Nuozhadu (5500MW),
Mengsong và Gongguoqiao [14]. Như thế họ sẽ tận dụng hết các tiềm năng Lạn
Thương giang trên Vân Nam để phục vụ việc khai thác quặng mỏ nói trên. Lào cũng
không kém nỗ lực, họ đã chận ngang hầu hết những sông nhánh của Mekong như Nam
Ngum, Nam Thuen, Nam Leuk, Houay Ho trên lành thổ họ. Họ vừa phá rừng lấy gỗ,
làm hồ giữ nước, làm điện bán cho kỹ nghệ Thái [10] . Lào lại đang dự định cho
công ty Oxiana của Úc vào khai mỏ vàng và đồng tại
Sepon; và Lào đã cấp 40 giấy phép khai mỏ khác đang chờ vốn đầu tư vào khai thác
[11] [12]. Thái Lan cũng đã thực hiện xong đập Pak Mun, và có tham vọng hàng năm
sẽ chuyển 8 tỉ mét khối nước sông Mekong khỏi dòng chính để biến sa mạc Đông Bắc
Thái thành vùng canh tác mới.
Từ kinh nghiệm 50 năm qua của nhân loại về thủy điện trên các dòng dông quốc tế
như Danube, Colorado, Columbia, Nile, Missisippi, Hoàng Hà, Dương Tử thì những
công trình thủy điện tuy đã giúp phát triển tiện nghi, đem lại ánh sáng, dẫn
thủy nhập điền, và nâng cao đời sống hàng trăm triệu người nhưng cũng có khả
năng tác hại nặng nề trên nguồn thực phẩm và kế sinh nhai của hàng chục triệu
người khác. Chúng thay đổi hoàn toàn chế độ thủy vận
trên toàn lưu vực, và gây nguy hiểm ghê gớm cho hệ sinh thái hạ nguồn [13].
Tại Côn Minh, Vân Nam, hồ Điền Trì (Dianchi), lớn hàng thứ sáu của TQ, đã bị ô
nhiễm nặng nề vì nước thải từ các nhà máy luyện kim, nông nghiệp và sinh hoạt
dân cư. Theo tường trình tháng 4, 2000 của Sứ Quán Hoa Kỳ tại Bắc Kinh: TQ đã
tốn trên US$2 tỉ để làm sạch, nhưng theo WB ô nhiễm vẫn không thuyên giảm vì vẫn
TQ không kiểm soát hết được các nguồn chảy. Tại Dali cũng thế, Nhĩ Hải (Erhai),
nơi khởi thủy của truyền thống dạy chim cormorant bắt cá
-hồ lớn thứ bảy của TQ- với dung tích 3 tỉ mét khối do 120 con sông ô nhiễm đổ
vào. Hồ này không bị tù hãm như hồ Điền Trì nhờ chảy ra sông Xier, và Xier lại
chảy ngay vào sông Mekong để đổ xuống hạ nguồn mà ra biển.
Các hồ nước lớn chặn hết khả năng chuyển tải phù sa, ngăn trở cá không lội ngược
về nguồn sinh sản dần dần đi đến tuyệt chủng, phá mất đi diện tích lớn rừng già,
nơi trú ngụ của hoang thú. Việc điều hòa lưu lượng sông làm giảm ngay diện tích
vùng lụt nước theo muà (seasonally flooded area), vốn nhờ vào đó mà hàng năm tôm
cá sinh sản và dân cư tìm được thực phẩm. Đồng bằng hạ nguồn sẽ thiếu hụt phù sa
để bón ruộng, thiếu dinh dưỡng nuôi phiêu sinh vật và thu hoạch hải sản sẽ sa
sút. Duyên hải thiếu đất bồi và sóng biển sẽ ăn vào thềm lục địa. Nước mặn sẽ
lấn sâu hon vào đất liền và việc canh tác trên châu thổ sẽ không còn thực hiện
tốt lành được. Những nghiên cứu khoa học về các hậu quả kinh nghiệm này ngày
càng hiện rõ và phổ quát.
Ở hạ lưu Mekong, trên 10 triệu dân nghèo hai nước Cam Bốt và Việt Nam vẫn phải
sống nhờ vào phù sa và thủy sản của dòng sông này, chúng ta cần phải tự hỏi mình
rằng: Sẽ phải hứng chịu những ảnh hưởng gì trước những biến đổi to lớn đang dồn
dập trên thượng nguồn như thế?
Lịch sử cho thấy môí căng thẳng giữa các quốc gia nằm chung lưu vực những dòng
sông lớn thường bùng nổ thành các cuộc tranh chấp lớn trên thế giới: Giữa Ai Cập
và Sudan-Ethiopia trên sông Nile; Israel và Jordan trên sông Jordan vùng Địa
Trung Hải; giữa Turkey và Syria-Irak trên sông Euphrates vùng vịnh Persian, giữa
India và Bangladesh trên sông Ganges, giữa
Parkistan và India trên sông Indus [4]. ---
Vấn đề khai thác các dòng sông lớn là vấn đề còn nan giải giữa nhiều dân tộc,
Mekong và nhân loại không thể ngừng lại trước trở ngại và để lịch sử tái diễn
như vậy mà phải tìm phương cách giữ hoà bình, giảm thiểu tai hại và chia sẻ phúc
lợi công bình cho toàn lưu vực. Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (UN) đã bỏ ra 20 năm để
soạn thảo ra bộ một luật thông qua vào tháng 5 năm
1997: "United Nations Law of the Nongaginational Uses of International
Watercourses" cho cả thế giới trong đó có ba nước bỏ phiếu chống là Burundi,
Turkey và Trung Quốc [4]. Gần hơn nữa, World Bank và International Union
Conservation Network (IUCN) đã thành lập và tài trợ cho World Commission on Dams
(WCD) thực hiện một công trình nghiên cứu để tìm giải
pháp chung. Sau bốn năm, những chuyên gia khoa học kỹ thuật và chính khách nổi
danh trên khắp thế giới do WCD quy tụ đã hoàn thành bản tường trình và đưa ra
những khuyến cáo được UNEP, ADB và nhiều nước đón nhận như kim chỉ nam cho tương
lai khai thác thủy điện.
Việt Nam cũng như tất cả các nước Mekong đều trong nằm tình trạng thiếu thốn
năng lượng gay go không khác Trung Quốc hay Thái Lan; nên việc phát triển tiềm
năng thủy và điện Mekong vì nhu cầu phúc lợi không thể tránh nhưng cần phải vô
cùng nghiêm túc. Việt Nam và Cam Bốt là các nước cuối nguồn, sẽ phải gánh chịu
hầu hết mọi thiệt thòi do khai thác thượng nguồn gây ra, nếu các nước thượng
nguồn không nghiên cứu tác động cho toàn lưu vực, không thực nhiện những biện
pháp an toàn cho hạ nguồn.
Tây Tạng và cả sáu chính phủ Mekong từ đâu nguồn đến cuối nguồn phải ngồi chung
lại trên một bàn họp nhìn nhận nhau là những thành viên cốt yếu cùng chung sống
trong một lưu vực lớn, sẽ cùng nhau phát triển tài nguyên dòng sông này trên căn
bản bền vững và công bằng cho toàn lưu vực. Mekong sẽ không thể mang hiểm họa mà
phải là dòng sữa mật ngọt ngào cho cả 100 triệu dân cư trong lưu vực.
Hợp tác cả sáu nước lại sẽ tạo nền hòa bình thịnh vượng trong vùng và gìn giữ
kho tàng thiên nhiên lâu bền cho đời sau. Ngày nay Mekong tương đối vẫn còn
trinh nguyên khi các dòng sông lớn khác trên toàn cầu đều đã bị khai thác hủy
hoại nặng. Các dân tộc lưu vực Mekong có một sứ mạng và cơ hội giữ lại cho loài
người một kho tàng sinh thái to tát cho mình và cho cả nhân loại.
Tài Li®u Tham Khäo
[1] Asian Development Bank, Environment in Transition, Cambodia, Lao, Thailand
and Vietnam,
April 2000.
[2] Micro Cernetig, Sand of Time Creep Up on China Water, Globe and Mail,
Toronto,31 July, 2000.
[3] Dow Jones Newswire, World Bank: China Water Shortgae Threatens Catastrophe,
09-05-01.
[4] Sandra Postel, Pillar of Sand, World Watch Institute, 1999.
[5] Lucy Yang, Natural Resources, Unversity of Cincinnati,
http://blues.fd1.uc.edu/www/international/china/yunnan/natrural.htmlx
[6] The 1999 Mekong Papers, MekongForum, 1999.
[7] Chapman, Hydropower, Environmental Protection and Industrial Pollution, IMRN
Item 9/2001.
[8] Saridet Marukatat, Bangkok Post, Concern over plan to widen channel -
Clearing islets could affect neighbours, 20 April, 2001.
[9] Asia Pulse Pte. Ltd., China prepares for major new power station, Kunming,
April 12, 2001
[10] Avia Imhof, Power Struggle, IRN Working Paper, Feb 1999.
[11] Amy Kazmin, Tapping Laos' Mineral Resources, May 2, 2001
[12] Oxiana,
http://www.minesite.com/archives/news_archive/Jan-2001/oxiana-22.htm
[13] WCD Thematic Review, http://www.dams.org/thematic/
[14] Chapman E.C., He Daming, Downstream Implications of China Dams on the
Lancang Jiang, http://asia.anu.edu.au/mekong/dams.html
21- Ô nhiễm môi trường sông Nhuệ ở Hà Nam: Cá “trắng” đầy sông, người kêu cứu!
02/12/2003
Chúng tôi đến làng chài Châu Thuỷ, Châu Giang (thị xã Phủ Lý) ngày 28/11, hai
ngày sau sự kiện ô nhiễm chưa từng có xảy ra tại nơi này, sự phẫn uất vì bỗng
nhiên tay trắng và nỗi ám ảnh sinh kế vẫn đầy ứ nơi đây! Có bà cụ không còn sức
mà xao xác ngược xuôi, chảy nước mắt theo chân chúng tôi đến cuối làng một hai
nhờ kêu cứu giúp làng chài.
5 ngày ám ảnh của Hà Nam
Có lẽ cái đêm 22/11 sẽ còn đè nặng lòng gần 200 hộ dân làng chài. Dòng nước đen
xú uế đã tràn về trong đêm khắp đoạn sông Nhuệ chảy qua nơi đây. Sáng ra, mở
cửa, điều đập vào mắt trước hết là cảnh cá chết nổi trắng mặt sông, thậm chí cả
những giống nằm sâu dưới bùn cũng ngóc lên mà chết. Mùi tanh tưởi và hôi thối
xộc lên khiến người ta chỉ có thể gập lưng mà bỏ chạy. Tình trạng ngày một khủng
khiếp hơn trong suốt mấy ngày sau đó. Thực ra, hai năm gần đây cũng vào độ thời
gian như thế này đều có một vài ngày nước ô nhiễm chảy về dồn dập khiến cho dòng
sông vốn hiền hoà “trở chứng” và bà con ngư dân “đứt bữa” mấy ngày. Nhưng ác
nghiệt như lần này thì chưa từng bao giờ xảy ra, bà Phạm Thị Vịnh 81 tuổi khẳng
định với chúng tôi. 200 hộ dân nơi đây và hơn 50 hộ dân sống dưới thuyền từ cả
trăm năm nay chỉ biết có bám vào đoạn sông Châu Giang này mà sinh sống bằng nghề
chài lưới, nuôi cá,nuôi tôm và hến, không tấc đất canh tác, không nghề phụ làm
thêm... Xưa sông Châu Giang trong xanh là thế, làm ăn có phần thư thả với bà
con. Nhưng càng gần đây, nước sông ô nhiễm ngày một nhiều, cá tôm hiếm dần đi,
ngay cả đặc sản - con hến cũng khó khăn mà kiếm. Bà con phải tính đến nuôi cá
lồng, bè, nuôi tôm, nuôi hến. Tính vậy, cả làng có được 5 người đủ sức làm bè
cá. Và trận ô nhiễm này đi qua, cả 5 người tiên phong ấy đều phải gánh chịu hậu
quả nặng nề, tay trắng. Anh Nguyễn Văn Nam, 45 tuổi, đầu tư gần 70 triệu đồng
nuôi cá với tính toán khi thu có thể đạt cả trăm triệu. Ấy vậy mà mấy ngày thôi,
3 tấn cá giống, 10 tấn cá thịt của anh đã phơi bụng đầy sông đem theo cả giấc mơ
làm ăn đổi đời và để lại gánh nợ quá lớn. Không chịu được nỗi mất mát quá bất
ngờ, anh Nguyễn Văn Toàn, một người chí thú chăn nuôi cá đã bỏ nhà ra đi sau khi
phải chấp nhận cơ nghiệp tan theo những sọt cá vữa nát. Ồn ào không kém là
chuyện của anh Bùi Quốc Ky, người đàn ông mang bộ mặt lệch méo một nửa, nghe nói
lại là hậu quả của trận “xung đột “ với vợ vì nỗi tiếc của gần 400 triệu đổ vào
nuôi cá tan tành. Anh là người mạnh dạn nhất, đứng ra thuê của HTX nhánh sông
dài 2,5 km chặn lại nuôi cá và cũng phải trả giá lớn nhất. Khi chúng tôi đến,
tình trạng nước sông đã được coi là như bình thường, nhưng bằng mắt thường cũng
có thể thấy độ “bình thường” ấy quả thật đáng cảnh báo. Vậy mà, bà con ở đây vẫn
phải vo gạo rửa rau trên chính dòng sông ấy và cũng tắm giặt luôn ở đó. Đã làm
gì có nhiều nhà khoan nổi cái giếng khoan đâu? Bệnh tật hiển hiện trong nước da
mái mái, trong cả sự sần sùi thô nứt cả da... Những căn bệnh hiểm nghèo đã xuất
hiện ngày một nhiều hơn.
Toàn thị xã mất nước!
Trận ô nhiễm ngày 22/11 không chỉ gây họa cho làng chài Châu Thuỷ, Châu Giang.
Ông Lại Thanh Tuyên - Phó giám đốc Cty Cấp nước Hà Nam cho biết thêm về một sự
kiện đáng nhớ đối với cả Cty lẫn người dân toàn thị xã. Với công suất 10.000 m3/
ngày đêm, hoàn toàn khai thác nước mặt từ sông Đáy, cách đoạn giao nhau với sông
Nhuệ về phía thượng nguồn 550 m, Cty đã phải ngừng cấp nước vì không thể làm gì
hơn được với dòng nước ô nhiễm nặng nề. Sau đêm 22, Cty đã phải ngừng cung cấp
nước trong ngày 23/11. Ngày 24/11 cấp trở lại được đúng một ngày nhưng liền phải
đóng cửa trong suốt mấy ngày sau đó. Ngày 27/11 mới trở lại cấp nước bình
thường. Trong văn bản ngày 26/11, UBND tỉnh Hà Nam gửi Chính phủ, Bộ Tài nguyên
- Môi trường đã cấp báo tình trạng: “Hiện tại, nước sông Đáy, cách 20 km từ Phủ
Lý về phía thượng lưu trở xuống rất hôi thối, màu đen đặc, đã làm cho cá và một
số thuỷ sản khác trên các sông nói trên bị chết rất nhiều. Đặc biệt, nhà máy
nước thị xã Phủ Lý đã phải ngừng hoạt động, nhân dân thị xã Phủ Lý và dọc ven
sông Nhuệ, sông Châu Giang, sông Đáy không có nước dùng để ăn và sinh hoạt đang
trong tình trạng lo lắng, kiến nghị tỉnh phản ánh tới Chính phủ và Quốc hội...”
Đáng chú ý, đây không phải lần đầu tiên nhà máy phải đóng cửa vì không thể lọc
nước cung ứng cho dân. Năm 2001 và 2002 đều xảy ra tình trạng trên, tuy ngày cắt
nước có ít hơn, mức độ thiệt hại cũng không bằng nămnay. Muốn giải quyết được
tình trạng này, một giải pháp cấp bách đã được đặt ra - di dời trạm bơm nước số
1 của Cty về phía thượng nguồn 2.000 m nữa, đảm bảo độ sạch tương đối cho nguồn
nước. Tuy nhiên, với Cty, khoản đầu tư 7 tỷ cho việc di dời là trở ngại khó vượt
qua suốt từ năm 2001 đến nay.
Hậu đợt ô nhiễm
Ông Trần Xuân Đoàn, phụ trách Bộ phận Môi trường - Sở Tài nguyên - Môi trường Hà
Nam ước tính sơ bộ, sau sự việc vừa rồi, ước chừng toàn tuyến thuộc tỉnh có tới
hơn 200.000 hộ dân thuộc 30 xã chịu ảnh hưởng, nặng nề nhất là 200 hộ dân ở làng
chài Châu Thuỷ, Châu Giang. Dòng chảy đen trànvề các sông khu vực này lại vào
đúng ngày thứ 7, chủ nhật nên phải đến ngày thứ hai, tỉnh mới báo cáo lên Bộ và
Trung ương đề nghị giải quyết. Để giải quyết tình hình, Bộ TN - MT đã kiến nghị
ngừng trạm bơm xả nước ở HN và mở cửa xả bơm nước sông Hồng vào, pha loãng độ
đậm đặc ô nhiễm của sông Nhuệ, sông Đáy, sông Châu Giang. Tình hình nhờ thế mà
được cải thiện. Nhưng giải quyết hậu vấn đề ngày 22 lại là cả một vấn đề không
nhỏ. Dòng sông Nhuệ là dòng chảy thải ra của Hà Nội và Hà Tây nhưng lại là nguồn
cung cấp nước cho Hà Nam. Đáng chú ý, mới ngày 7/8/2003, 6 tỉnh lưu vực sông
Nhuệ và sông Đáy đã cùng ký vào cam kết xây dựng đề án ngăn chặn sự ô nhiễm ngày
một nghiêm trọng và bảo vệ môi trường lưu vực hai con sông này. Thế nhưng, chỉ
không đầy mấy tháng sau, sự cố nghiêm trọng hơn đã xảy ra vào ngày 22 - 27/11,
gây thiệt hại nghiêm trọng như đã kể trên. Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam bức xúc
kiến nghị, cần có biện pháp chỉ đạo ngăn chặn ngay các cơ sở từ đầu nguồn sông
Nhuệ thuộc Hà Nội, Hà Tây xả nước thải chưa xử lý ra sông Nhuệ. Ông Đỗ Quang Cừ
- Giám đốc Sở TN-MT Hà Nam kiến nghị, mỗi khi xả nước thải từ thượng nguồn xuống
thì HN và Hà Tây cần có thông báo trước mấy ngày để Hà Nam chuẩn bị tinh thần
“đón nhận” , như thế mới giảm được phần nào thiệt hại cho bà con. Ông Cừ nhấn
mạnh đến viêc cần thành lập sớm Hội đồng 6 tỉnh lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy và
phải gắn ngay chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cho hội đồng này để ngăn chặn
việc “tỉnh làm cứ làm, tỉnh gánh chịu cứ gánh chịu”. Trước mắt, để giải quyết
những thiệt hại vừa xảy ra với bà con làng chài, ông Đỗ Quang Cừ cho biết, tỉnh
đã chỉ đạo điều tra cụ thể thiệt hại để có cơ chế hỗ trợ cho bà con tái ổn định
sản xuất. Độ mười ngày nữa sẽ đưa ra được phương án hỗ trợ cụ thể, có thể là xem
xét không tính lãi suất số tiền bà con vay làm lồng cá hoặc tính lãi suất hỗ trợ
cho vay tiếp tiền đầu tư... -ông Cừ nói. Tuy nhiên, cứ nhìn thực tế, nhân lực
chỉ có 3 người và chẳng có thiết bị đo đạc, quan trắc gì của tổ môi trường nàycó
thể thấy “mươi ngày nữa” hoàn toàn là giới hạn khó lòng xác định!
Bản thân Hà Nam ngoài việc kêu gọi phía thượng lưu không xả nước thải trực tiếp
ra sông Nhuệ thì cũng cần nghiêm khắc thực hiện việc cấm xả nước thải trực tiếp
của các đơn vị, DN đóng trên địa bàn. Vừa là nạn nhân vừa là đối tượng trực tiếp
gây tai hoạ là bài học nhỡn tiền. Ngoài ra, trong khi kêu gọi Trung ương đề ra
chính sách, thể chế hay đầu tư cho những thiết bị quan trắc, công cụ thực hiện
bảo vệ môi trường, thì vẫn có những việc trong tầm tay tỉnh cần phải sớm thực
hiện. Hãy đặt vấn đề môi trường bên cạnh những bài toán kinh tế, không chỉ
nônnóng phát triển mà quên đi yếu tố dân sinh.
Lưu Hương
http://muasam247.vn/PortletBlank.aspx/48AA7423480F4D5B913ED24FFF1D617D/View/Chat_luong_song/O_nhiem_moi_truong_song_Nhue_o_Ha_Nam-Ca_trang_day_song_nguoi_keu_cuu/?print=124451063
22- Hàng vạn người điêu đứng vì “dòng sông chết”!
(Thứ tư , 13/08/2008, 08:49)
(BNS) Đó là điều đang xảy ra tại sông Thị Vải - hơn 10 năm qua được gọi là “dòng
sông chết”! Đến giờ này, khi cơ quan chức năng từ tỉnh đến trung ương đang loay
hoay tìm biện pháp “cứu” sông Thị Vải, con người bắt đầu trả giá cho những năm
dài liên tục chạy theo lợi ích kinh tế mà bất chấp việc bảo vệ môi trường dọc
con sông này.
Tàu nước ngoài bắt đầu ngại vào cửa sông Thị Vải
CẢNG CHIẾN LƯỢC NHƯNG TÀU KHÔNG DÁM VÀO
Những ngày qua, dư luận chú ý việc hai doanh nghiệp là Công ty Phân bón Việt -
Nhật, Công ty Shell Việt Nam (đóng tại Khu công nghiệp Gò Dầu) đã kêu cứu đến
các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai về tình trạng tàu hàng của Nhật từ chối chở
nguyên vật liệu, hàng hóa cho họ vì không dám cho tàu cập cảng Gò Dầu B, ảnh
hưởng đến sản xuất kinh doanh. Trước đó, tàu của Singapore cũng đã cảnh báo sẽ
không cho tàu vào cảng này sau khi hết hợp đồng với các doanh nghiệp trên.
Nguyên nhân các chủ tàu đưa ra là do nguồn nước sông Thị Vải khu vực cảng này bị
ô nhiễm nặng, ảnh hưởng đến vỏ tàu, sức khỏe của thủy thủ. Cùng thời điểm, Công
ty Cổ phần cảng Đồng Nai (quản lý cảng Gò Dầu B tại khu vực sông Thị Vải, xã
Phước Thái, Long Thành, Đồng Nai) cũng đã gửi kiến nghị đến các cơ quan chức
năng Đồng Nai và các Bộ về tình trạng nguồn nước sông Thị Vải ô nhiễm, ảnh hưởng
đến tuổi thọ của các cầu cảng, khiến chi phí khắc phục, bảo dưỡng tăng lên rất
nhiều, tàu nước ngoài e ngại khi vào cảng v.v... Công ty này cũng đồng thời kêu
cứu về tình trạng sức khỏe trở nên tồi tệ của khoảng 70 công nhân đang làm việc
tại đây. Hầu hết họ phải làm việc trong môi trường mùi hôi thối bốc lên từ mặt
nước sông Thị Vải, khiến họ bị mắc các bệnh viêm xoang, viêm mũi, nhức đầu và
đau ốm liên tục. Công ty đã xây nhà tập thể cho công nhân ở nhưng vì gần sông,
mùi hôi nồng nặc nên hầu hết bỏ ra ngoài thuê trọ.
Trong tương lai, một số cảng tại TPHCM sẽ di dời đến khu vực sông Thị Vải. Nhưng
với thực trạng hiện tại, chiến lược khai thác cảng sông này liệu sẽ còn khả thi?
Bởi tàu không vào thì cảng sẽ “đắp chiếu”!
Buổi chiều nước sông Thị Vải thường nổi váng như thế này
Có thể nói, tình trạng nước sông Thị Vải bị ô nhiễm nặng đang được báo động.
Ngày 2-7 và 6-8-2008, đại diện các sở, ngành của Đồng Nai đã tổ chức các buổi
họp với các nhà khoa học, doanh nghiệp để đánh giá, đưa ra biện pháp giải quyết
những vấn đề trên. Đáng thất vọng là hầu hết các ý kiến vẫn với điệp khúc cũ:
“chưa thể đánh giá hết tác hại!” và phải “chờ ý kiến của cấp trên” như nhiều năm
qua các cơ quan này vẫn làm. Cho dù, dọc con sông này người dân nuôi trồng thủy
sản đã giải nghệ từ lâu và có hàng ngàn người dân các xã xung quanh khu vực đã
và đang mang những căn bệnh về hô hấp do ngửi phải mùi hôi thối từ nước sông Thị
Vải. Với kiểu giải quyết “xin chờ ý kiến” của các cơ quan chức năng tỉnh Đồng
Nai, nên trong cuộc họp ngày 6-8-2008, một phó giám đốc doanh nghiệp đã bức xúc:
“Chúng ta nói nhiều quá. Nước sông ô nhiễm, sinh vật chết, con người thì ngửi
mùi hôi thối. Còn chúng ta cứ... bàn!”, rồi ông xách cặp bỏ về.
NGƯỜI VÀ SÔNG KÊU CỨU!
Sông Thị Vải có chiều dài khoảng 70km, chạy dọc tuyến Quốc lộ 51, từ Đồng Nai
chảy ra cửa biển Bà Rịa - Vũng Tàu, được xem là con sông “vàng” để khai thác
tiềm năng kinh tế, bao gồm cả giao thông, bến cảng, nguồn nước phục vụ sản xuất,
xây dựng, nuôi trồng thủy sản, môi trường sinh thái... Từ đầu những năm 1990,
tại Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT) bắt đầu hình thành những khu công
nghiệp, cụm công nghiệp dọc con sông này. Đến nay, trên địa bàn Đồng Nai có các
khu công nghiệp Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Nhơn Trạch 3, Gò Dầu. Còn địa phận
BR-VT thì có KCN Mỹ Xuân A, Mỹ Xuân A2, Phú Mỹ 1, Cái Mép... với hàng trăm nhà
máy đang hoạt động, mỗi ngày thải ra dòng sông này hàng chục ngàn khối nước thải
các loại chưa được xử lý. Phải nói rằng, hơn 10 năm qua, con sông này đã oằn
mình gánh vác nhiệm vụ nặng nề là phục vụ tiềm năng kinh tế của khu vực Đồng
Nai, BR-VT, TP Hồ Chí Minh. Thế nhưng, con người chỉ biết khai thác tiềm năng
của sông mà quên đi nhiệm vụ bảo vệ nó. Mỗi ngày, dòng sông càng bị đầu độc bởi
hàng vạn tấn nước thải chứa đầy chất độc hại.
Vào những năm 1992, 1993, chúng tôi còn đi chèo thuyền thả lưới, ngồi trên bờ
thuộc xã Phước Thái (huyện Long Thành, Đồng Nai) câu cá. Thế nhưng, từ khi Nhà
máy bột ngọt Vedan - một trong những dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên có số vốn
rất lớn được xây dựng tại xã này, cùng với hàng loạt dự án khác hình thành thì
dòng sông bắt đầu “chết” dần “chết” mòn. Những con cá mà chúng tôi phải ngồi câu
lúc đó bắt đầu ngóc đầu lên khỏi mặt nước, dạt vào bờ và sau đó vài ngày là chết
la liệt. Chúng tôi chỉ cần lấy vợt di dọc bờ là vớt được cá. Rồi dần dần, màu
nước sông trở nên nâu sẫm, mùi hôi thối bốc lên thì bóng dáng của những con cá
cũng không còn nữa.
Đến những năm 1995, 1996 tình trạng vô cùng tồi tệ. Nước sông Thị Vải bốc mùi
hôi thối nồng nặc vào mỗi buổi chiều, nhất là những lúc trời oi bức chuyển mưa,
ít gió. “Mùi” của con sông này không chỉ lan tỏa tại xã dọc sông mà ngay cả
nhiều xã cách xa bờ sông từ 5 - 7km như xã Tân Hiệp, Bàu Cạn, Long Phước, Phước
Bình (huyện Long Thành, Đồng Nai)... người dân cũng phải khốn đốn “sống chung
với mùi hôi”. Người già, trẻ con bắt đầu bị những căn bệnh liên quan đến hô hấp
như viêm mũi, viêm xoang... ngày càng nhiều. Những nhà máy không chỉ xả nước
thải xuống sông, mà người ta còn thấy cảnh tượng rất tức cười: nước thải có màu
nâu đen của một số nhà máy được hàng chục chiếc xe bồn chở vào “tưới” cho hàng
ngàn héc-ta cao su của Nông trường Thái Hiệp Thành (thuộc Công ty Cao su Đồng
Nai) nằm gần đó quanh năm. Vườn cao su nào cũng bị nhuốm màu nâu đen của nước
thải. Người ta giải thích cho công nhân rằng đó là “nước thải dinh dưỡng” tốt
cho cây cao su. Chỉ sau vài ngày bị tưới nước thải này, cỏ cây đều trơ trụi,
vàng úa. Còn hàng ngàn công nhân và con em họ, người dân trong các xã xung quanh
vườn cao su đành phải “nuốt” cái mùi vừa hăng hoá chất vừa thối của loại “nước
thải dinh dưỡng” kỳ lạ kia. Mấy ngày qua, người dân tại xã Phước Thái, Phước
Bình (nằm gần Khu công nghiệp Gò Dầu) cũng đang đối phó với những căn bệnh về hô
hấp, nhức đầu và thậm chí nước uống cũng có mùi vị rất lạ.
Người dân sống ở khu vực này đang phải trả giá đắt trước “dòng sông chết” Thị
Vải. Bản thân con sông này, theo các nhà khoa học thì không thể tự làm sạch được
nữa mà phải do con người. Vậy ai đứng ra “cứu” sông Thị Vải, cứu người dân đây,
và phải chờ đợi đến bao giờ?!
http://www.congan.com.vn/van_de_hom_nay/2008/08/20080812.613P.V
23- Sông Thị Tính đang bị “đầu độc”?
Ngày cập nhật: 02/10/2008 11:38
Cửa xả nước thải chưa qua xử lý của một nhà máy giấy đặt ngầm đổ ra sông Thị
Tính
Bài 1: Sông xanh nay thành sông bẩn
Bao đời nay, con sông Thị Tính hiền hòa, thơ mộng vừa mang nặng phù sa, nước
ngọt tưới mát cánh đồng, vừa mang lại nguồn lợi thủy sản dồi dào nuôi sống bao
con người quanh đây.
Sông Thị Tính đang bị “đầu độc”?
Bài 1: Sông xanh nay thành sông bẩn
Bao đời nay, con sông Thị Tính hiền hòa, thơ mộng vừa mang nặng phù sa, nước
ngọt tưới mát cánh đồng, vừa mang lại nguồn lợi thủy sản dồi dào nuôi sống bao
con người quanh đây. Mấy năm gần đây, tình hình công nghiệp phát triển mạnh,
nhiều nhà máy, xí nghiệp mọc lên ven sông để tận dụng thế mạnh sông nước, sẵn
tiện một số xí nghiệp đổ luôn chất thải độc hại chưa qua xử lý xuống dòng sông
làm con sông bị ngộ độc và chết lần chết mòn. Dòng sông xanh tươi đẹp của ngày
nào nay đã thành sông bẩn.
Khóc... một dòng sông!
Ông Tám Mảnh, một dân chài nổi tiếng ở xã Chánh Mỹ, TX.TDM sống bằng nghề câu
lưới truyền thống, nay đã phải kéo ghe lên bờ... ngồi chơi vì “nước sông ô nhiễm
quá, cá tôm còn đâu nữa mà đánh với bắt”. Tuy đã bỏ nghề nhưng cứ chiều chiều
ông Tám lại kéo ghế nhìn ra sông với biết bao hồi ức tràn về: “Nếu như đặc sản
của sông Sài Gòn là con tôm càng xanh, thì đặc sản của sông Thị Tính là cá các
loại. Mỗi năm cứ đến đầu mùa mưa, cá leo mang trứng từ trên thượng nguồn đổ về
tìm chỗ đẻ, nó theo nước mát chạy có bầy xanh cả mặt sông. Cá loại to con (con
lớn nặng đến trên 10kg) lại mang đùm trứng nặng nề (2 đến 3kg) sống lâu ở nơi
chật hẹp trên nguồn, nên khi ra sông lớn nó lờ khờ dễ đánh bắt lắm. Cùng với cá
leo còn có chạch lấu, cá trèn, cá kết... thuộc họ cá da trơn, nhưng thịt của nó
thì ngon hết kể. Bây giờ khoa học kỹ thuật tiên tiến, người ta đánh bắt tùy tiện
lắm, ăn một con, nhưng giết chết cả bầy như cào điện, đánh bắt bằng hóa chất,
cộng với nguồn nước bị ô nhiễm nên giờ đây tìm đâu ra những loại cá đó để mà
nhìn, chứ đừng nói nếm thử”.
Anh Hoàng Ngô Minh (*), một đồng nghiệp thuộc hàng con cháu của ông Tám Mảnh chỉ
vào đống lưới cào bỏ xó bên chái nhà buồn bã kể: “Hai năm trước, vợ chồng tôi
còn chạy ghe đánh lưới, sáng về mang cá lên lộ bán, người ta bu mua đông nghẹt
vì cá tươi ngon, quanh hai bên bờ sông bà con trồng hoa màu, cây trái nên thường
xuống sông gánh nước, tắm giặt... Bây giờ ghe phải kéo lên bờ, lưới thì bỏ khô ở
đó vì dưới sông không còn cá, đất đai bỏ trống cho cỏ mọc, không ai dám xuống
đụng nước vì bã hèm lắng cả mấy tấc bốc mùi tanh tưởi, nguồn nước thì nhiễm bẩn.
Mấy cái lọp đặt ven sông trước nhà lúc trước ngày đổ 2 giác cá đựng cả thúng,
bây giờ đặt tối ngày đổ lên cũng không đủ kho. Nguyên nhân là do những nhà máy
công nghiệp họ xả chất thải không qua xử lý ồ ạt xuống lòng sông làm con sông bị
ô nhiễm chết lần chết mòn, thì cá tôm nào mà sống nổi”...
Chất thải rắn từ nhà máy đổ ra ngoài tràn lan
Sông xanh nay thành sông bẩn
Tự nguyện làm người chèo đò trước khi đưa chúng tôi đến chứng kiến tận mắt các
cửa cống xả chất thải do các nhà máy sản xuất giấy phế liệu thải ra thuộc Cụm
sản xuất công nghiệp Tân Định ở ấp 3, xã Tân Định, huyện Bến Cát, anh Hoàng và
một người bạn cùng xóm đã thử chứng minh bằng cách cắm thẳng cây chèo xuống lòng
sông rồi rút lên, cả một đoạn khoảng 5 tấc thuộc phần cuối cây chèo bị dính bùn
nhão đen ngòm, tương tự như bã hèm mà người ta thường thấy công nhân vệ sinh vớt
lên từ dưới đáy cống bám đầy vào thân cây chèo bốc lên mùi hôi thối khó chịu.
Các anh giải thích: “Trước đây, đáy sông sạch lắm, chỉ toàn cát nên dân làng
thường kéo ra sông để tắm giặt, gánh nước sinh hoạt, tưới hoa màu... Từ khi các
nhà máy giấy đi vào hoạt động, họ xả thẳng nước thải sản xuất không qua xử lý
xuống lòng sông làm cho dòng nước ở đây bị ô nhiễm nặng, không còn ai dám xài
nước của dòng sông này vì sản xuất giấy phế liệu phải dùng đến rất nhiều hóa
chất, axít để tẩy rửa, cộng thêm keo, bã hồ từ trong giấy tan ra là những thứ
lợn cợn, nặng nên chìm xuống đáy sông tạo ra thứ bùn đen hôi hám, gây bồi lắng
nhanh lòng sông mà không được nạo vét, cộng với các loại hóa chất độc hại tan
trong nước nên giờ đây không người nào dám xuống sông để tắm giặt vì rất dễ bị
ngứa, dị ứng, nổi ghẻ... Nếu như trước đây, con sông Thị Tính này có rất nhiều
cá, tôm thì giờ đây, dân chài chúng tôi chỉ đánh bắt được toàn cá lau kiếng,
loài cá có sức chịu đựng rất khỏe với nguồn nước bị ô nhiễm và chuyên “thu gom,
xử lý” chất thải của người khác”!
Vừa dứt câu chuyện cũng là lúc chiếc xuồng đưa chúng tôi đến bên họng lấy nước
của một nhà máy sản xuất giấy bao bì phế liệu. Lướt qua đám cỏ lau dày đặc chiếc
xuồng chồm lên, trước mắt chúng tôi là một quầng trắng có diện tích to hơn chiếc
đệm, nước thải từ dưới lòng sông trào lên bừng bựng cùng với lớp bọt trắng xóa
bao quanh. Không cần giải thích, nhưng ai cũng hiểu đây là đường cống nước thải
được chôn ngầm sâu dưới lòng sông và nó cứ chảy tự do từ năm này sang năm nọ mà
không bị phát hiện, xử lý. Nhìn ngược lên phía trên nhà máy cách bờ sông chừng
100m, chúng tôi không khỏi rợn người khi nhìn thấy đủ loại chất thải: bao nylon,
bao nhôm và nhiều thứ không hòa tan khác tràn ra từ một hồ nước phía trên nhà
máy rồi tự do trôi từ đó xuống sông tạo thành một dòng thác rác trải dài gây xốn
cả mắt!”. Bà Út Trang, nhà cách cửa cống chừng 50m về phía hạ nguồn rầu rĩ than:
“Trước đây, gia đình tôi làm vườn, trồng rau sinh sống trên mảnh đất này, từ khi
các nhà máy giấy về đây sản xuất, gia đình chúng tôi phải bỏ nghề vì trồng trọt
không hiệu quả, môi trường bị ô nhiễm nặng, tôm cá ngày một ít đi nhưng côn
trùng có hại, muỗi độc thì xuất hiện ngày càng nhiều. Các chú quan sát kỹ xem,
nếu nước thải đã qua xử lý đạt tiêu chuẩn thì xung quanh cửa xả phải có con này
con kia đến tìm thức ăn như ngoài tự nhiên mình thường thấy, chứ kiểu đó thì
không lâu con sông này sẽ thành dòng sông chết vì quanh đây có 5-6 nhà máy giấy
sản xuất tự do như thế này, chưa kể một nhà máy thép phế liệu to đùng trên đầu
nguồn kia đã âm thầm làm bẩn dòng sông liên tục từ nhiều năm qua. Có phải lợi
ích của các doanh nghiệp đó còn lớn hơn cả sinh mạng của con sông cùng với cuộc
sống của bao gia đình đã gắn liền với dòng sông này từ bao đời nay, hay là do
các nhà máy kia nằm khuất sâu ngoài sông nên không ai để ý, phát hiện?”...
Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Bến Cát Huỳnh Công Du: Sẽ đề nghị
tỉnh rút giấy phép nếu tái phạm nhiều lần
Nhiều lần gặp gỡ, tiếp xúc cử tri và tại các kỳ họp HĐND, chúng tôi đều nghe
phản ánh và đã trả lời về vấn đề này. Phải nói thẳng ra rằng ý thức chấp hành
pháp luật, bảo vệ môi trường của một số doanh nghiệp đến giờ còn rất kém. Cụ thể
công suất nước thải của nhà máy là 300m3/ngày đêm, nhưng hệ thống xử lý cũng có
công suất là 300m3/ngày đêm, thì rõ ràng là làm để đối phó, không có thiện chí
khắc phục! Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện doanh nghiệp tái phạm nhiều
lần, chúng tôi sẽ đề nghị tỉnh rút giấy phép hoạt động. Qua đây, chúng tôi rất
mong quần chúng nhân dân khi phát hiện bất cứ ai cố tình gây ô nhiễm môi trường
hãy kịp thời báo cho cơ quan chức năng xử lý.
Theo báo cáo xử lý ô nhiễm của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng năm
2007 thì chỉ 1 doanh nghiệp sản xuất giấy bao bì các-tông nằm trong Cụm sản xuất
công nghiệp thuộc ấp 3, xã Tân Định, huyện Bến Cát, kết quả phân tích cho thấy:
Nước thải có chỉ tiêu COD vượt tiêu chuẩn quy định gấp 34 lần; BOD vượt tiêu
chuẩn 25,4 lần; SS vượt tiêu chuẩn 3,9 lần; khí thải lò hơi, bụi vượt tiêu chuẩn
4,5 lần; CO vượt tiêu chuẩn 1,7 lần... Cũng theo khảo sát của Sở Tài nguyên và
Môi trường thì tại khu vực ấp 3, xã Tân Định có đến 5 nhà máy sản xuất giấy có
nguồn nước thải xả ra sông Thị Tính gồm: Công ty TNHH giấy Vạn Phát, Vĩnh Cơ,
Hiệp Lợi, Thuận An, Đồng Tiến.
(*) Vì lý do tế nhị, bảo đảm an toàn nguồn tin, tác giả xin được thay đổi họ tên
một vài nhân vật trong phóng sự này
Kỳ sau:
|