Hồ sơ vụ án VEDAN
1/Những dòng sông chở nặng...
ô nhiễm
2/Những dòng sông
chết ở Việt Nam
3/Việt
Trì: Đừng để như VEDAN mới xử lý
4/Tình trạng ô
nhiễm trên những dòng sông ở Việt Nam
5/Việt Nam sẽ có
những dòng sông “chết”
6/Đừng buộc những
dòng sông phải “thay lòng đổi dạ”
7/Báo động đỏ về
những dòng sông đang hấp hối
8/Những dòng sông
thoát nước của Hà Nội: Bao giờ hết ô nhiễm?
9/Những dòng sông
chở nặng... ô nhiễm
10/Những con
mương “đen” giữa lòng thành phố Cảng
11/Bình Dương:
Nước thải từ các KCN góp phần gây ô nhiễm sông Đồng
Nai?
12/Xử lý ô nhiễm
sông Thị Vải: Chỉ mới giải quyết phần ngọn
13/Gây ô nhiễm
vẫn ung dung hoạt động
14/Hà Nội: "Bội
thực" vì nguồn chất thải
15/Hạt nix trong
mắt ai
16/Ô nhiễm môi
trường nước thải ở “Bến Nộc” xã Tân Định (Bến Cát):
Ngành chức năng cần sớm vào cuộc
17/115/154 khu
công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải
18/Nan giải bài
toán ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp
19/Những dòng
sông sắp qua đời
20/Những dòng
sông... chờ chết!
21/Cuộc sống
khốn cùng bên dòng sông 'chết'
22/Hoài Hà, dòng
sông bị bức tử
1- Những dòng sông chở
nặng... ô nhiễm
Chủ nhật, 24/08/2008
Sông Sài Gòn nguồn cấp nước cho hơn 10 triệu dân vẫn
không thoát khỏi ô nhiễm.
Ngày 14.8 vừa qua, Ban Kinh tế Ngân sách và Thường
trực HĐND TPHCM đã tổ chức buổi tham vấn ý kiến của
nhân dân về vấn đề môi trường; các quan chức hữu
quan đã hứa giải quyết một số vấn đề môi trường theo
ý kiến người dân.
Có thể nói, cho đến giờ, các lãnh đạo thành phố ở ta
chưa có thông lệ "lắng nghe dân nói" về các vấn đề
môi trường như vậy.
Dự kiến đầu tháng 9 này, HĐND TPHCM sẽ phối hợp với
UBNDTP, tổ chức một hội nghị chuyên đề về vấn đề môi
trường. Thành phố lớn nhất, đông dân nhất nước này
cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm toàn
diện và cũng ở mức báo động nhất nước.
Ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn TPHCM hiện nay được
đánh giá là nghiêm trọng nhất. Các dòng kênh trong
nội thành bị ô nhiễm đã đành, các dòng sông lớn cung
cấp nước sinh hoạt cho hàng chục triệu con người
cũng không thoát khỏi số phận tương tự.
Nguồn nước bị "ung thư"
Theo những số liệu mới nhất, hệ thống kênh rạch của
thành phố mỗi ngày bị đầu độc bởi sơ sơ có... 40 tấn
rác thải các loại và 70.000m3 nước thải công nghiệp
(vài năm trước số liệu này là 200.000m3)
chưa qua
xử lý. Với một thực trạng như vậy thử hỏi làm sao
những dòng kênh xanh không biến thành những dòng
kênh bị "ung thư".
Trong khu vực nội thành, những dòng kênh như Nhiêu
Lộc-Thị Nghè, kênh Đôi-kênh Tẻ, kênh Tàu Hủ, Tân
Hóa-Lò Gốm
bị ô nhiễm từ vài chục năm nay là chuyện
đã đành thì đến hiện nay ngay khu vực ngoại thành từ
Bình Chánh, Hóc Môn đến Củ Chi... những dòng kênh
vốn phục vụ cho việc tưới tiêu trước đây nay cũng
biến thành những dòng kênh mà người dân đã gọi là
kênh sủi bọt, kênh ngứa, kênh nín thở...
Theo Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Bình Chánh,
trong hệ thống 72 tuyến kênh trên địa bàn huyện đến
nay không còn bất cứ dòng kênh nào mà không bị ô
nhiễm nặng. Hậu quả này cũng dễ hiểu khi có đến hơn
1.000 cơ sở sản xuất trong vài năm qua hàng ngày đua
nhau xả thải xuống hệ thống kênh này.
Theo một kết quả kiểm tra mới đây của Phòng Tài
nguyên Môi trường huyện Bình Chánh, chỉ có vẻn vẹn
22 trong số gần 1.000 cơ sở sản xuất có trang bị hệ
thống xử lý nước thải. 70% chiều dài của các tuyến
kênh trên địa bàn thành phố bị ô nhiễm nặng, trong
đó, tuyến kênh An Hạ-Thầy Cai được xếp vào nhóm ô
nhiễm gia tăng nhanh nhất, chủ yếu là hoá chất dệt
nhuộm, hóa chất phục vụ ngành caosu, kim loại nặng
và chất rắn lơ lửng...
Nước ô nhiễm của tuyến kênh này có lần đã làm chết
cá của một số hộ dân trên địa bàn 2 huyện Đức Hoà,
Đức Huệ tỉnh Long An. Một tuyến kênh khác cũng được
xếp vào loại điểm nóng là kênh Ba Bò của khu vực
giáp ranh tỉnh Bình Dương và quận Thủ Đức, TPHCM.
Theo phản ánh của người dân với Hội đồng Nhân dân
TPHCM, có những ngày nước kênh thay đổi sắc thái đến
3 lần: Sáng đỏ (hoá chất dệt nhuộm) trưa có màu đen
và hôi, vào buổi chiều thì sủi bọt. Nhiều khi bọt
sủi nhiều đến mức tràn lên bờ...
10 triệu người chung sống
Ô nhiễm không chỉ là chuyện của các dòng kênh mà
ngay cả lưu vực sông Đồng Nai, trong đó có sông Sài
Gòn nguồn cấp nước sinh hoạt cho hơn 10 triệu dân
của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam cũng đang bị
đầu độc. Lưu vực sông Đồng Nai chảy qua 11 tỉnh
thành: Đak Nông, Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Ninh,
Đồng Nai, Bình Dương, Lâm Đồng, TPHCM, Long An và Bà
Rịa-Vũng Tàu và Bình Phước.
Hoạt động công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, phát
triển đô thị... được các nhà khoa học xem là nguyên
nhân chính gây ô nhiễm cho lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai nói chung và sông Sài Gòn nói riêng.
Theo một công trình nghiên cứu của kỹ sư Võ Thị Ngọc
Hạnh - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh
Bình Dương - thì chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh
Bình Dương đã có 11 KCN xả nước thải vào lưu vực
sông Sài Gòn, khối lượng nước thải mỗi khu ít nhất
là 1.200m3/ngày và nhiều nhất là 5.600m3 nước
thải/ngày.
Ngoài ra, các cơ sở sản xuất nằm ngoài các KCN cũng
thải vào lưu vực sông Sài Gòn 45.000m3/ngày. Trong
đó các ngành độc hải như sản xuất giấy thải ra
7.700m3; dệt nhuộm 4.200m3 và chế biến mủ cao su
9.600m3/ngày. Riêng đối với hoạt động chăn nuôi mỗi
ngày thải ra hơn 24.500m3 nước thải...
Còn đối với TPHCM, số liệu về khối lượng nước thải
công nghiệp thải vào lưu vực sông Sài Gòn không được
công bố nhưng con số thực tế có thể là
250.000m3/ngày đêm. Còn theo số liệu của Bộ Tài
nguyên Môi trường trong lưu vực hệ thống sông Đồng
Nai có gần 500 làng nghề, 9.000 cơ sở sản xuất,
1.633 cơ sở y tế.... xả nước thải vào lưu vực, trong
đó hầu hết là nước thải chưa qua xử lý.
Thực trạng ô nhiễm của lưu vực hệ thống sông Đồng
Nai đã được các nhà khoa học báo động từ lâu thế
nhưng chính quyền các tỉnh hầu như không có phản ứng
gì trước thực trạng này. Các tỉnh thành trong khu
vực trọng điểm kinh tế phía Nam từ 10 năm nay đã
chạy đua thu hút đầu tư, chạy đua phát triển công
nghiệp nên xem nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường.
Đua nhau đưa ra các điều kiện dễ dãi nhất để lôi kéo
các nhà đầu tư, trong đó có các tiêu chuẩn về môi
trường. Hậu quả, nước thải công nghiệp chưa qua xử
lý hoặc xử lý chưa đạt chuẩn cho phép vô tư xả thẳng
vào nguồn nước sông trong hệ thống sông Đồng Nai.
Thực tế này giải thích vì sao, lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng, đe doạ
nguồn nước sinh hoạt của hơn 10 triệu dân.
Đặc biệt là trong thời gian gần đây chất lượng nước
thô cung cấp cho các nhà máy nước của TPHCM bị giảm
sút nghiêm trọng. TPHCM đã phải chỉ đạo cho các cơ
quan chức năng lập một đề án để bảo vệ nguồn nước
sông Sài Gòn. Trong khi TPHCM lo sợ nguồn cấp nước
sinh hoạt chính bị ô nhiễm thì phía thượng nguồn của
lưu vực trên sông La Ngà, hồ Trị An, hồ Dầu Tiếng...
người ta vẫn cứ vô tư nuôi cá bằng phân gà, phân
heo.
Sông Thị Vải (Đồng Nai) một nhánh của toàn lưu vực
tiếp tục là dòng sông chết bởi hoá chất của Nhà máy
Vedan.
TPHCM: Ô nhiễm toàn diện
Theo kết quả quan trắc của Chi cục Bảo vệ môi trường
TPHCM, nồng độ bụi trong không khí thành phố này đã
có sự gia tăng vượt bậc: năm 1999 là 0,53mg/m3 đến
năm 2006 đã tăng lên 0,63mg/m3 không khí. Các chỉ số
khác như benzene, chì trong không khí tăng từ 3 đến
8 lần từ năm 2000 đến 2006. Về nước thải của các khu
chế xuất, khu công nghiệp, trong 45 mẫu nước thải
được Chi cục Bảo vệ môi trường lấy về kiểm tra chỉ
có 1 mẫu đạt yêu cầu, 44 mẫu còn lại chứa nhiều chất
gây ô nhiễm vượt chuẩn cho phép lên đến cả trăm lần,
thậm chí là vài trăm lần.
Theo LĐ
http://tintuc.timnhanh.com/xa_hoi/20080824/35A81486/
2- Những dòng sông chết ở Việt Nam
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2008-09-24
Sông Thị Vải chảy qua Saigon, Đồng Nai và Bà rịa
Vũng Tàu trở thành dòng sông chết, vụ Công ty Vedan
xả nước thải công nghiệp chưa qua xử lý ra sông, là
tiếng chuông báo động về tình trạng phát triển công
nghiệp bằng mọi giá ở VN.
Đời sống vùng sông nước
Ô nhiễm nghiêm trọng đến mức báo động
Giai đoạn VN tăng trưởng kinh tế đều đặn gắn liền
với thu hút đầu tư nước ngoài, nỗ lực phát triển
công nghiệp ồ ạt. Chưa đầy 20 năm, mà tình trạng ô
nhiễm nước thải công nghiệp chưa qua xử lý đã biến
nhiều con sông trên toàn quốc trở thành những dòng
sông chết. Ở miền Bắc lưu vực các sông Cầu, Nhuệ Đáy
và ở miền Nam lưu vực hệ thống sông Saigon-Đồng Nai
bao gồm 12 tỉnh thành đã bị ô nhiễm nghiêm trọng đến
mức báo động.
Chưa đầy 20 năm, mà tình trạng ô nhiễm nước thải
công nghiệp chưa qua xử lý đã biến nhiều con sông
trên toàn quốc trở thành những dòng sông chết.
TS Nguyễn Trung Việt, chuyên gia môi trường ở
TP.HCM, nhắc tới tình trạng của các quốc gia khác
vào thời kỳ đẩy mạnh phát triển kinh tế, tương tự
như VN trong giai đoạn vừa qua:
“ Phát triển kinh tế bao giờ chẳng đi đôi với ô
nhiễm, thế nhưng tất cả các nước trên thế giới kể cả
Singapore, Mỹ Nhật, Hà Lan, Đức, Anh, Pháp đầu tiên
họ phát triển công nghiệp thì đều gây ô nhiễm dữ
dội. Sau đấy khi phát triển kinh tế ở mức độ nào đấy
thì họ mới quay trở lại xử lý về mặt môi trường. Thế
vì vậy việc gây ô nhiễm, lợi nhuận là một chuyện
thôi. Cái thứ hai là do hệ thống kiểm soát hệ thống
quản lý nhà nước vẫn chưa được chặt chẽ, mà cũng
phải có thời gian người ta mới có đủ cả về nhân lực,
cơ sở vật chất người ta làm mới được. Hơn nữa luật
lệ của mình … nhiều khi đi vào kiểm tra nhà máy đâu
dễ gì, phải báo trước, phải xin quyết định cấp trên,
thành ra những vụ việc xảy ra rất nhanh mình không
có cách gì giải quyết được. Phải mất một thời gian,
thì hệ thống pháp luật pháp qui rồi cơ sở vật chất
rồi con người mới đủ để cho có thể xử lý vấn đề môi
trường chặt chẽ như các nước phát triển.”
Uỷ Ban Bảo Vệ môi trường
Cuối tháng 12/2007, chính phủ quyết định thành lập
lần lượt nhiều uỷ ban bảo vệ lưu vực sông Cầu, sông
Đáy và Sông Nhuệ ở miền Bắc và lưu vực sông Đồng Nai
ở miền đông Nam Bộ. gần 10 tháng qua theo tin ghi
nhận thì chưa có sự chuyển động gì về việc thành lập
các cơ cấu này, đặc biệt là Uỷ Ban Bảo Vệ môi trường
lưu vực sông Đồng Nai. Một số chuyên gia cho rằng
tình trạng lạm phát đã khiến chính phủ cắt giảm chi
tiêu công, trong đó có những dự án lớn lao về bảo vệ
môi trường lưu vực sông Đồng Nai.
Thực tế về vấn đề này chưa được công bố, nhưng tờ
SGGP Online ngày 21/9 trích lời GSTS Lê Huy Bá, Viện
trưởng Viện Khoa Học Công Nghệ và Quản Lý Môi Trường
ở TP.HCM nhận xét rằng Bộ Tài Nguyên Môi Trường có
họp bàn với các địa phương chuẩn bị cho sự ra đời
của Uỷ Ban Bảo Vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai,
tuy nhiên cho tới nay chưa có sự chuyển động nào.
Bộ Tài Nguyên Môi Trường có họp bàn với các địa
phương chuẩn bị cho sự ra đời của Uỷ Ban Bảo Vệ môi
trường lưu vực sông Đồng Nai, tuy nhiên cho tới nay
chưa có sự chuyển động nào.
GSTS Lê Huy Bá
Theo đà phát triển, hiện nay trong lưu vực sông Đồng
Nai chảy qua 11 tỉnh thành miền Đông Nam Bộ có tới
42 khu công nghiệp, khu chế xuất với hàng ngàn nhà
máy phần lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải công
nghiệp, hoặc có một số nơi có hệ thống này thì lại
chưa đạt chuẩn. Đó là chưa kể những trường hợp như
các nhà máy của công ty Vedan, có hệ thống xử lý
nước thải nhưng không sử dụng mà lại bố trí hệ thống
ngầm dấu kín để thải trực tiếp nước thải thô xuống
đáy sông.
Cái giá phả trả khi coi nhẹ việc bảo vệ môi trường:
GSTS Lâm Minh Triết thuộc Đại Học Quốc Gia TPHCM,
một nhà nghiên cứu nhiều kinh nghiệm về môi trường
và tài nguyên đã nhận định với chúng tôi về cái giá
phả trả cho những quốc gia coi nhẹ việc bảo vệ môi
trường:
“ Đã cảnh báo từ lâu việc ô nhiễm môi trường sẽ dẫn
đến như các nước khác, là ô nhiễm môi trường mình
khắc phục nó tốn kém rất nhiều lần so với cái mình
đầu tư hiện tại. Theo tôi, trên thực tế các xí
nghiệp công nghiệp họ chạy theo lợi nhuận nhiều hơn
việc quan tâm tới vấn đề môi trường.”
Theo GSTS Lê Huy Bá phát biểu trên báo chí VN, vùng
hạ lưu sông Đồng Nai đã bị ô nhiễm đến mức báo động,
nguồn nước không thể phục vụ sinh hoạt cho người
dân, ngay cả việc tưới tiêu nông nghiệp cũng bất khả
thực hiện. Mức độ ô nhiễm trong toàn lưu vực lại
đang tăng nhanh từ 5 năm gần đây. Theo số liệu thống
kê, trung bình mỗi ngày hệ thống sông Đồng Nai tiếp
nhận khoảng hơn 112 ngàn mét khối nước thải công
nghiệp, trong đó bao gồm hàng chục tấn hoá chất độc
hại vượt quá mức cho phép.
Theo tài liệu ngành Tài nguyên Môi Trường, lượng
nước thải sinh hoạt của các thành thị và khu vực dân
cư đổ xúông hệ thống sông Đồng Nai lên tới hơn
1.700.000 mét khối mỗi ngày, trong đó chứa đựng hàng
ngàn tấn cặn bã, vi trùng gây các bệnh nguy hiểm.
Theo tài liệu ngành Tài nguyên Môi Trường
Đối với vấn đề bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống
sông Đồng Nai
Trước khi quá muộn, GSTS Lâm Minh Triết phân tích:
“ Nhận thức được là không thể khác được, không thể
tiếp tục không quan tới phát triển bền vững và việc
bảo vệ môi trường trong lưu vực. Tất nhiên bài toán
rất khó và nhiệm vụ cũng không đơn giản như các nước
khác cũng vậy. Nhưng một dòng sông lớn như thế liên
quan nhiều địa phương thì rõ ràng là phải có nỗ lực,
có kế hoạch cụ thể, hành động cụ thể chỉ đạo cụ thể
và dành những kinh phí thích hợp để thực hiện.”
Lưu vực hệ thống sông Saigon-Đồng Nai nói chung rộng
hơn 43 ngàn km2, dân số khoảng 20 triệu người, bao
gồm 12 tỉnh thành kể cả TP.HCM . Toàn khu vực có gần
60 khu công nghiệp khu chế xuất và còn đang phát
triển thêm.
Sự kiện công ty bột ngọt Vedan ở Long Thành Đồng Nai
và tình trạng sông Thị Vải đang chết dần, được mô tả
là tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng về vấn đề bảo vệ
môi trường các lưu vực sông ở VN.
http://www.rfa.org/
3- Việt Trì: Đừng để như VEDAN mới xử lý
16:30' 13/10/2008 (GMT+7)
- Thành lập được hơn 10 năm nhưng đến nay khu công nghiệp (KCN) Thụy Vân
(TP.Việt Trì, Phú Thọ) vẫn chưa có khu xử lý nước thải. Toàn bộ nước thải của
hơn 20 nhà máy thải trực tiếp ra hồ chứa tạm do Tổng Công ty Sông Hồng thiết kế
từ ngày KCN hình thành. Nước thải ở hồ chứa tạm này dẫn qua đường ống và chảy
xuống cánh đồng, ao hồ quanh đó, đặc biệt là 4 xóm: Vĩnh Phú, Phú Hậu, Phú
Thịnh, Nội gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Vỡ hồ chứa nước thải - nỗi kinh hoàng của người dân
Chắc hẳn người dân xã Thụy Vân không ai là người không nhớ sự kiện kinh hoàng
diễn ra vào ngày 16/10 cách đây 7 năm. Hơn 3000m3 nước thải KCN Thụy Vân từ độ
cao 3m so với mặt ruộng đã băng qua một con đập đắp tạm, ồ ạt tràn ra 10ha đầm,
tràn tiếp vào 100ha các chân ruộng đang gieo cấy vụ chiêm xuân của xã Thụy Vân.
Sự cố trên đã được Sở Khoa học Công nghệ Môi trường, Ban quản lý KCN Phú Thọ,
UBND TP. Việt Trì và UBND xã Thụy Vân phối hợp kiểm tra mức độ ô nhiễm. Nước ở
đầm Bỗng do nước thải công nghiệp tràn vào vượt tiêu chuẩn cho phép ở mức B tiêu
chuẩn mặt nước mặt. Cụ thể là COD vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,65 - 2,29 lần.
Coliform vượt tiêu chuẩn cho phép từ 9 - 10 lần. Giếng nước của các hộ dân xung
quang đầm Bỗng trong phạm vi 10m trở lại bị ô nhiễm nặng, có màu xanh đen và mùi
hôi không thể sử dụng được, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sức khỏe của nhân dân.

Hồ chứa nước thải của KCN Thụy Vân.
Sự cố xảy ra buộc UBND TP. Việt Trì, Ban quản lý KCN Thuỵ Vân phải tính toán đến
việc đền bù cho các hộ dân bị thiệt hại về nuôi trồng thuỷ sản, diện tích lúa và
những người dân sống quanh đó sử dụng nước sinh hoạt. Thực tế của việc đền bù
này chẳng thấm vào đâu so với những gì người dân phải chịu.
Ông Vũ Văn Kiên, đại diện cho 5 hộ dân nuôi cá ở đầm Bỗng, nói: “Vỡ hồ chứa nước
thải làm cho nước ở đầm Bỗng đen ngòm. Cá của chúng tôi chết hàng loạt, vớt lên
cân được 6 tấn, nhìn những con cá trắm quá xót xa, bán rẻ chẳng ai mua đành đem
chôn. Sau đó, họ có đến đền bù chúng tôi nhưng chẳng đáng bao nhiêu”.
Một biện pháp được đưa ra nhằm tránh tình trạng trên xảy ra một lần nữa là xây
dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung toàn KCN đảm bảo tiêu chuẩn cho phép
trước khi thải ra môi trường.
7 năm trôi qua - người dân vẫn chịu ô nhiễm
Đã 7 năm từ khi người dân chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng đó, nhưng đến nay,
nhà máy xử lý nước thải vẫn chưa được đưa và sử dụng. Toàn bộ nước thải của hơn
20 nhà máy trong KCN không qua xử lý chảy âm ỉ từng ngày xuống cánh đồng làng,
ngấm vào đất, vào giếng nước ăn của người dân mà dân ở đây chủ yếu sử dụng nước
giếng để sinh hoạt.

Cống nước từ hồ chứa nước thải chảy xuống ruộng, ngấm vào ao hồ, giếng nước của
người dân.
Cô Nguyễn Thị Hợi, đội 1, Vĩnh Phú, Thụy Vân cho biết. “Trước đây, khi chưa có
KCN về làng thì nước giếng là một nguồn nước được lọc qua một lớp đá ong nên
trong suốt, người dân quanh vùng đến xin nước uống còn tấm tắc khen rằng “Nước
uống như Lavie”. Giờ đây, họ không còn dám uống trực tiếp nữa bởi nó quá ô
nhiễm”.
Hai tháng trước, Sở Tài nguyên Môi trường cũng đã về kiểm tra, xét nghiệm nước
giếng của người dân ven KCN và đều có kết luận là lượng kiềm vượt quá quy định.
Sở Tài nguyên Môi trường đã bán cho người dân với giá 12.000 một gói Super PAC
dùng làm lắng tụ nhanh các chất bẩn trong giếng nước sinh hoạt. Nhưng chỉ một
gói Super Pac có làm cho người dân dùng nước sinh hoạt được an toàn, không bị ô
nhiễm, liệu những chất độc hại ở đáy giếng có hết được không? Khó có thể khẳng
định được.
Lúa của người dân nơi đây quanh năm không phải cầy bừa, phân gio, thậm chí cấy
thưa đến 60 phân mà không có hi vọng được thu hoạch.
Hơn 90% số chị em phụ nữ trong xã mắc bệnh viêm nhiễm, đó là số liệu của cô Bình
- phó trạm y tế xã đưa ra. Năm 2007, số lượng người mắc bệnh tăng vọt hơn 100
người so với năm 2006. Nguyên nhân của sự tăng vọt số chị em trong xã bị bệnh
một phần do phải lội nước ô nhiễm ngập đến hông người khi làm đồng. Ngoài ra còn
một số bệnh khác cũng do sử dụng nước sinh hoạt.
Nhân dân xã Thụy Vân, đặc biệt là 4 xóm : Vĩnh Phú, Phú Hậu, Phú Thịnh và xóm
Nội cùng một lúc chịu 3 nguồn ô nhiễm, đó là ô nhiễm nguồn không khí (Đã 2 vụ
rồi cây trái ở đây không được thu hoạch do bụi làm cho không thụ phấn được) và
nguồn rác thải từ KCN được đưa ra đầu làng chất ở đó và đốt.

Giếng nước ăn của người dân bị ô nhiễm.
Quê đồi xưa kia vốn yên tĩnh, người dân sống trong cảnh yên bình, giờ đây KCN về
làng đã làm thay đổi 1 bộ phận dân cư lớn. Ô nhiễm nguồn nước, không khí đã làm
ảnh hưởng đến tất cả các mặt kinh tế, sinh hoạt của người dân.
Tỉnh Phú Thọ cũng đã có dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải cho KCN Thụy Vân
nhưng đã 6 năm rồi mà vẫn chưa được đưa vào sử dụng, hiện nay chỉ có nhà điều
hành và đường cống để không. Nhà máy xử lý nước thải đã xây dựng từ khi có KCN
nhưng chưa một lần được đưa vào sử dụng vì sai thiết kế.
Các nhà máy trong KCN Thuỵ Vân tiếp tục được mở rộng và như vậy những người dân
nơi đây sẽ tiếp tục chịu cảnh ô nhiễm. Sẽ còn nguy hiểm hơn nếu nhà máy xử lý
nước thải không được đưa vào sử dụng và sử dụng không đúng quy trình. Chúng ta
hãy thẳng thắn nhìn nhận vấn đề khi còn chưa quá muộn, đừng để dẫn đến hiện
tượng như Vedan thì mới bắt tay vào cuộc.
• Lại Hoa
http://www.baomoi.com/Home/XaHoi/2008/10/2068690.epi?refer=http%3A%2F%2Fvietnamnet.vn%2Fbandocviet%2F2008%2F10%2F808245
4- Tình trạng ô nhiễm trên những dòng sông ở Việt
Nam
Góp ý của Mai Thanh Truyết , Kiều bào Mỹ
Sau gần 20 năm mở cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64
khu chế xuất và khu công nghiệp, cộng thêm hàng trăm
ngàn cơ sở hóa chất và biến chế trên toàn quốc. Vấn
đề chất thải là một nan đề của phát triển đối với
những quốc gia còn đang phát triển, và chất thải
lỏng trong trường hợp Việt Nam đã trở thành một vấn
nạn lớn cho quốc gia hiện tại vì chúng đã được thải
hồi thẳng vào các dòng sông mà không qua xử lý. Qua
thời gian, nguy cơ ô nhiễm ngày càng tăng dần, và
cho đến hôm nay, có thể nói rằng tình trạng ô nhiễm
trên những dòng sông ở Việt Nam đã tăng cường độ
kinh khủng và không còn phương cách nào cứu chữa
được nữa.
Qua báo chí và truyền thanh ở VN từ hơn hai năm qua,
tin tức ô nhiễm nguồn nước ở hầu hết sông ngòi VN,
đặc biệt ở những nơi có phát triển trọng điểm. Nhiều
dòng sông trước kia là nơi giặt giũ tắm rữa, và nước
sông được xử dụng như nước sinh hoạt gia đình. Nay
tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Người dân ở nhiều nơi
không thể dùng những nguồn nước sông nầy nữa.
Những nơi được đề cập đến có thể được chia ra từng
khu vực khác nhau từ Bắc chí Nam tùy theo sự phát
triển của từng nơi một. Đó là :
- Lưu vực sông Cầu và các phụ lưu qua các tỉnh Bắc
Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và
Hải Dương.
- Lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy chảy qua các tỉnh Hòa
Bình, TP Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, và Ninh
Bình.
- Lưu vực sông Đồng Nai, sông Sài Gòn gồm các tỉnh
Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước, Bình Dương,
Tây Ninh, Đồng Nai (Biên Hòa), TP HCM, Bà Rịa-Vũng
Tàu, Ninh Thuận, và Bình Thuận.
- Lưu vực Tiền Giang và Hậu Giang gồm các tỉnh thuộc
ĐBSCL.
Lưu vực sông Cầu
Đây không phải là nguy cơ ô nhiễm mà là một lưu vực
đã bị ô nhiễm hoàn toàn. Dân số sống trong lưu vực
nầy chiếm khoảng 7 triệu trên một diện tích độ 10
ngàn Km2. Trong lưu vực nầy, ngoài khu sản xuất công
nghiệp lớn nhất Thái Nguyên, qua việc khai thác mõ
và hóa chất, còn có trên dưới 800 cơ sở sản xuất
tiểu thủ công nghiệp và quy mô công nghiệp nhỏ như
các làng nghề tập trung. Lượng chất thải lỏng thải
hồi vào lưu vực sông Cầu ước tính khoảng 40 triệu
m3/năm. Riêng khu vực Thái Nguyên thải hồi khoảng 24
triệu m3 trong đó có nhiều kim loại độc hại như
Selenium, Mangan, Chì, Thiết, Thủy Ngân và các hợp
chất hữu cơ từ các nhà máy sản xuất hóa chất bảo vệ
thực vật như thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu rầy, trừ
nấm mốc v.v....
Tại tỉnh Bắc Ninh, có trên 60 làng nghề đã có từ lâu
đời. Nơi đây cũng còn có các ngành chế biến lâm sản
và kỹ nghệ giấy và tái sinh giấy. Các kỹ nghệ nầy đã
phát thải nhiều hóa chất hữu cơ độc hại trong đó các
chất tẩy trắng chứa chlor là một nguy cơ ô nhiễm cao
nhất. Vì trong công đoạn nầy phát sinh ra dioxin,
mầm móng của bịnh ung thư. Thêm nữa, trong các phụ
lưu của sông Cầu, hầu hết những thông số phân tích
đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn 50 lần
như nhu cầu oxy hóa học (COD), lượng oxy hòa tan
(DO), tổng cặn lơ lững (TSS), nitrite (NO2).
Với những thông số ghi nhận tên đặc biệt là DO, một
thông số chỉ lượng oxy hòa tan rất thấp, nhiều khi
dưới 1,0 đơn vị, có nghĩa là trong lưu vực sông Cầu
lượng tôm cá hầu như không còn hiện diện nữa.
Lưu vực sông Nhuệ
Dân số trong lưu vực nầy khoảng 10 triệu trên một
diện tích 7.700 Km2. Đây là một vùng có mật độ dân
số cao trên 1.000 người/Km2 và cũng là một trung tâm
kinh tế quan trọng. Do đó ngoài nước thải công
nghiệp, cần phải kể thêm nước thải sinh hoạt gia cư,
tất cả đều đổ thẳng ra sông hồ. Lượng nước thải sinh
hoạt được ước tính là 140 triệu m3 theo thống kê
2004. Còn các nguồn nước thải của trên 120 cơ sở sản
xuất công nghiệp ở vùng nầy trừ Hà Nội ước tính
khoảng 120 triệu m3/năm. Riêng tại Hà Nội, có 400 xí
nghiệp và khoảng 11 ngàn cơ sở sản xuất tiểu thủ
công nghiệp thải hồi trung bình 20 triệu m 3/năm. Hà
Tây là nơi trọng điểm của làng nghề chiếm 120 làng
trên tổng số 286 làng nghề trong khu vực.
Hai hạ lưu có ô nhiễm trầm trọng nhất là sông Nhuệ
và sông Tô Lịch với hàm lượng DO hầu như triệt tiêu,
nghĩa là không còn điều kiện để cho tôm cá sống
được, và vào mùa khô nhiều đoạn sông trên hai sông
nầy chỉ là những bãi bùn nằm trơ cùng trời đất.
Lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài Gòn
Lưu vực nầy chẳng những là một vùng đông dân cư như
Hà Nội, với diện tích 14.500 Km2 và dân số khoảng
17,5 triệu, và cũng là một vùng tập trung phát triển
công nghiệp lớn nhất và cũng là một vùng được đô thị
hóa nhanh nhất nước. Hàng năm sông ngòi trong lưu
vực nầy tiếp nhận khoảng 40 triệu m3 nước thải công
nghiệp, không kể một số lượng không nhỏ của trên 30
ngàn cơ sở sản xuất hóa chất rải rác trong Thành Phố
HCM. Nước thải sinh hoạt ước tính khoảng 360 triệu
m3. Ngoài những chất thải công nghiệp như hợp chất
hữu cơ, kim loại độc hại như: đồng, chì, sắt, kẽm,
thủy ngân, cadmium, mangan, các loại thuốc bảo vệ
thực vật. Nơi đây còn xảy ra hiện tượng nước sông bị
acid hóa như đoạn sông từ cầu Bình Long đến Bến
Than, nhiều khi độ pH xuống đến 4,0 (độ pH trung hòa
là 7,0), và trọng điểm là sông Rạch Tra, nơi tất cả
nước rỉ từ các bãi rác thành phố và hệ thống nhà máy
dệt nhuộm ở khu Tham Lương đổ vào.
Lưu vực nầy hiện đang bị khai thác quá tải, nước
sông hoàn toàn bị ô nhiễm và hệ sinh thái của vùng
nầy bị tàn phá kinh khủng, và đây cũng là một yếu tố
sống còn cho sự phát triển cho cả nước, chiếm 30%
tổng sản lượng quốc dân. Vào tháng 12/2005, Bộ Tài
Nguyên & Môi Trường đã tổ chức hội thảo “Bảo vệ môi
trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai” đã nói lên
tính cách quan trọng của vấn đề.
Kết luận được ghi nhận trong hội thảo nầy là có 4
khu vực bị ô nhiễm trầm trọng. Đó là: 1 – Đoạn sông
Đồng Nai từ cầu Hòa An đến cầu Đồng Nai, nơi cung
cấp nguồn nước chính cho cư dân Sài Gòn, 2 - Đoạn từ
Bình Phước đến Tân Thuận, địa phận của trên 10 khu
chế xuất, 3 - Đoạn sông Thị Vải từ nhà máy hóa chất
và bột ngọt Vedan của Đài Loan đến cảng Phú Mỹ, 4 -
Và nước sông Vàm Cỏ Đông. Riêng sông Vàm Cỏ Đông,
nước sông nầy đang bị acid hóa nặng. Công ty Vedan
sau nhiều lần được Sở Môi Trường Thành Phố đề nghị
đóng cửa từ năm 1997, hiện nay vẫn là một đề tài
nhức nhối cho Bộ Tài Nguyên và Môi Trường . Theo chỉ
thị của ông Mai Ái Trực, Bộ Trưởng, tại đây cần phải
có chuyên viên túc trực hàng ngày để theo dõi tình
trạng ô nhiễm ; và trong năm 2006, nếu công ty không
giải quyết các vấn đề ô nhiễm sẽ được chế tài bằng
kỹ thuật và sẽ được đệ trình đóng cửa vĩnh viễn.
Hiện nay, lưu vực sông Đồng Nai có 39 khu chế xuất,
khu công nghiệp; và số lượng nầy sẽ tăng lên 74 đến
năm 2010 theo kế hoạch đã soạn thảo xong. Do đó tình
trạng ô nhiễm trong những năm sắp đến sẽ trở nên câu
chuyện hàng ngày của lưu vực nầy.
Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang
Đây là một vùng hết sức đặc biệt và cũng là một lưu
vực lớn nhất và đông dân nhất với diện tích 39 ngàn
Km2 và gần 30 triệu cư dân.. Phát triển kinh tế nơi
đây đặt trọng tâm là nông nghiệp và chăn nuôi thủy
sản. Vì đây không phải là một trọng điểm công nghiệp
cho nên những vấn nạn môi trường không giống như
tình trạng của 3 lưu vực vừa kể trên. Nhưng việc
khai thác nông nghiệp và thủy sản đã trở thành một
vấn đề cần phải lưu tâm trong hiện tại. Việc ô nhiễm
hóa chất do dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực
vật là kết quả của việc khai thác tối đa nguồn đất
cho nông nghiệp. Đã có nhiều chỉ dấu cho thấy các
hóa chất độc hại như DDT, Nitrate, hóa chất BVTV
thuộc nhóm organo-phosphate, nguyên nhân của những
mầm bịnh ung thư đã hiện diện trong nước. Thêm nữa,
viễn ảnh nguồn nước ở lưu vực nầy bị ô nhiễm arsenic
do việc đào trên 300 ngàn giếng để dùng cho sinh
hoạt và tưới tiêu cũng sẽ là một quốc nạn trong
tương lai không xa. Thêm nữa, việc khai thác chăn
nuôi thủy sản trên sông, ngoài việc làm cản trở dòng
chảy của sông, việc di chuyển trên sông sẽ khó khăn
thêm, mà còn là một vấn nạn môi trường không thể
tránh khỏi. Từ thượng nguồn Châu Đốc, An Giang, cho
đến tận Mỹ Tho, cá bè trong mùa cá vừa qua bị chết
hàng loạt do nguồn nước ô nhiễm từ thượng nguồn do
cá chết lây lan xuống hạ lưu. Kết quả là trên 40%
lượng tôm cá bị thất thoát trong mùa vừa qua (VN
trong gian đoạn nầy phải nhập cảng tôm sú và cá basa
của Trung Quốc và Mã Lai để thanh toán hợp đồng còn
đang tồn động với các nước khác) .
Ngoài ra, do việc tận dụng nguồn nước cho tưới tiêu,
việc khai mở đê điều không hợp lý đã khiến cho ĐBSCL
phải đối mặt với vấn đề ngập mặn do nạn hạn hán kéo
dài trong khi hệ sinh thái có nguy cơ bị hủy diệt do
ô nhiễm. Năm 2005 vừa qua, nước mặn đã vào sâu trên
120 Km trong đất liền làm tăng khả năng bị hoang hóa
của đất trong vùng nầy.
Đề nghị góp ý :
Phát triển kinh tế không đi đôi với việc bảo vệ môi
trường, kết quả tất nhiên là tình trạng môi trường
ngày càng xuống cấp và cường độ ô nhiễm ngày càng
tăng thêm mà thôi. Tình trạng cho đến ngày hôm nay
có thể nói là đã đến giai đoạn gần như bế tắc. Chính
ông Bộ Trưởng Tài Nguyên và Môi Trường cũng đã kêu
gọi địa phương cứu lấy các con sông trước khi quá
muộn, đừng để như trường hợp của sông Đáy và sông Tô
Lịch. Tương lai là những dòng sông VN sẽ trở nên
những dòng sông chết cũng như việc phát triển sẽ bị
khựng lại vì môi trường không thể chấp nhận thêm
nguồn nước thải thêm nữa. Chúng tôi thiết nghĩ VN
không còn nhiều thời gian để giải quyết vấn đề nếu
không nói là đã muộn rồi. Những việc cấp bách cần
làm để có thể cứu vãn tình hình được đề nghị như sau
:
- Cần phải tái phối trí kế hoạch xây dựng các khu
công nghiệp, khu chế xuất trên toàn diện cả nước để
tránh bớt áp lực của những khu vực trọng điểm .
- Trong một khu công nghiệp cần phải điều phối để
cho những cơ sở sản xuất có thể liên hợp với nhau
như thành phẩm hay phế thải của một cơ sở sẽ là
nguyên liệu của một cơ sở khác, hay ngược lại. Đây
mới chính là suy nghĩ đúng đắn của việc thành hình
một khu công nghiệp .
Làm được hai việc trên, mới hy vọng có thể tháo gở
được một phần nào tình trạng ô nhiễm của những dòng
sông ở VN hiện tại .
Mai Thanh Truyết
http://www.duongpho.com/location/index.php?option=com_content&task=view&id=232&Itemid=68
5- Việt Nam sẽ có những dòng sông “chết”
Thứ sáu, 13 Tháng tư 2007, 06:41 GMT+7
Sông Hồng mùa cạn nước.
Đó là lời cảnh báo của các nhà khoa học trong lễ
công bố Báo cáo môi trường quốc gia năm 2006 vào
chiều 12/4. Môi trường nước 3 lưu vực sông Cầu,
Nhuệ, Đáy và hệ thống sông Đồng Nai bị ô nhiễm
nghiêm trọng do nước thải từ công nghiệp, làng nghề,
sinh hoạt, y tế...
Nhiều chỉ số ô nhiễm cao hơn tiêu chuẩn cho phép tới
7-8 lần. Cá biệt, sông Đồng Nai có chất rắn lơ lửng
trong nước vượt đến 9 lần, có chỉ số ô nhiễm vượt
tới 300-400 lần hay hàng nghìn đến hàng chục nghìn
lần mức cho phép.
Sông Cầu đang bị ô nhiễm cục bộ, nước chứa các hợp
chất hữu cơ, dầu mỡ; có đoạn nước nhiều váng dầu.
Lưu vực sông này mỗi ngày nhận 16.000 m3 nước thải
từ khu gang thép Thái Nguyên. Các cơ sở chế biến
thực phẩm xả lượng nước thải là hơn 2.000 m3/ngày
làm cho nguồn nước mặt bốc mùi hôi thối. Mỗi năm,
các tỉnh trong lưu vực sử dụng khoảng 500.000 tấn
phân bón, 4.000 tấn thuốc trừ sâu. Ước tính lượng dư
thừa đổ vào lưu vực 33%.
Tại hệ thống sông Đồng Nai,các KCN ở TP.HCM thải
khoảng 30.000 m3 nước thải/ngày xuống sông Đồng Nai,
trong đó chỉ 20% lượng nước được xử lý nhưng tỷ lệ
nước thải xử lý đạt tiêu chuẩn còn thấp hơn nhiều.
Mỗingàylưu vực sông tiếp nhận 480.000 m3 nước thải
công nghiệp, 992.000 m3 nước thải sinh hoạt. Hoạt
động khai thác cát làm rạn nứt, sụt lở đất hai bờ
sông. Ô nhiễm nặng nhất là sông Thị Vải với hơn 10
km sông “chết” mà cácloàisinh vật không còn khả năng
sinh sống.
Lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy ô nhiễm do nước thải
sinh hoạt cao nhất, trong đó Hà Nội chiếm 54 % lượng
nước thải toàn lưu vực. Mỗi ngày, sông nhận hơn
10.000 m3 nước thải từ hơn 1.400 cơ sở y tế. Nước và
chất thải từ ngành công nghiệp là yếu tố quan trọng
gây suy giảm chất lượng nước mặt sông. Hà Nội chiếm
30% lượng nước thải công nghiệp với hơn 100 nghìn
m3/ngày. Đặc biệt nước thải từ sản xuất dệt nhuộm
chứa nhiều hoá chất như thuốc tẩy, xút, phèn, nhựa
thông, phẩm màu... gây hại cho môi trường. Nước thải
từ các làng nghề, chăn nuôi, trồng trọt cũng là yếu
tố quan trọng góp phần gây ô nhiễm. Tính riêng Hà
Tây hiện có 219 làng nghề nhưng chỉ có duy nhất một
làng xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung.
Tình trạng ô nhiễm các sông ảnh hưởng trực tiếp tới
sinh hoạt, sản xuất. Các số liệu cho thấy những nơi
có dòng chảy ô nhiễm đi qua tỷ lệ mắc các bệnh liên
quan tới chất lượng nước tương đối cao như bệnh
đường ruột, phụ khoa, da liễu thậm chí gây ra bệnh
ung thư. Dự báo đến năm 2010, lượng nước thải đổ vào
các sông sẽ tăng 1,5-1,7 lần so với hiện nay. “Nếu
chúng ta không có biện pháp xử lý kịp thời sẽ có
thêm nhiều dòng sông “chết” – các nhà khoa học cảnh
báo.
Ánh Hồng
Việt Báo
http://vietbao.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=65088775&pop=1&page=0
6- Đừng buộc những dòng sông phải “thay lòng đổi dạ”
Thứ ba, 30/9/2008, 07:00 GMT+7
Khi những dòng sông đang dần “thay lòng đổi dạ”, khi
các cuộc “tiếm ngôi”, “soán quyền” bá vương thống
lĩnh những dòng chảy ngày càng phát lộ, công khai và
đầy thách thức, khi ấy cũng là lúc những dòng sông
nguyên sơ, trong mát biến mất khỏi cuộc sống thực
tại, chỉ còn có thể hiện hữu trong kí ức!
Vẫn tự hào là đất nước của những dòng sông, đất nước
có một nền văn hóa gắn bó sâu đậm với sông nước, thế
nhưng đất Việt dường như đang để tuột khỏi tay mình
những dòng sông trong xanh?
Xả nước thải không qua xử lí ra sông
Đã bao đời nay, cuộc sống của người dân Việt gắn
chặt với sông, suối, kênh, rạch. Ở đó, có vui, buồn,
có sự mất mát, chia li song cũng đầy ắp sự đoàn tụ,
sum vầy. Ở đó, những chàng trai, cô gái Việt đã sinh
ra, lớn lên và thực sự trưởng thành cùng dòng nước
ngọt, nhẹ, êm ả trong suốt tuổi thơ của mình. Cũng
nhờ đó mà những cánh đồng lúa, những ruộng ngô đã
nảy mầm, đơm bông, trổ bắp! Những dòng sông gắn chặt
định mệnh của mình với số phận của con người như một
cuộc kết duyên kiếm tìm ấm êm, hạnh phúc! Song, có
lẽ chúng cũng không bao giờ có thể ngờ mình sẽ trở
thành kẻ bị phụ tình, bị bội bạc và hủy diệt bởi
chính những người mà chúng đã mang cả tâm hồn, sinh
mệnh để gắn bó!
Từ cái chết của sông Lữ, sông Nhuệ,… rồi mới gần đây
nhất là sông Thị Vải, tôi hiểu những dòng sông đã
thực sự bị bạc tình! Và chúng dường như đã khóc thật
nhiều cho cái chết của mình song giọt nước mắt của
chúng bị gạt đi quá nhanh, quá phũ phàng bởi hai
tiếng lợi nhuận!
Nỗi đau của những dòng sông phải “thay lòng đổi dạ”
Cái sắc màu xanh lam trầm của rêu, của tảo, của
những sinh vật phù du, cái sắc xanh lẫn nâu vàng của
những bụi cỏ ven bờ, hay cái bóng nước lấp loáng
dưới ánh sáng trắng của mặt trời, cái mờ ảo đầy thơ
mộng, huyền bí trong những đêm trăng của các dòng
sông giờ đây đều đang bị “rũ bỏ” không thương tiếc
bởi chính con người.
Sông thay lòng, sông đổi dạ. Sông không còn muốn
dung chứa những cái đã quá ư là xưa cũ, những cảnh
vật đã quá ư là quen thuộc trong tâm trí của mỗi con
người? Sông không muốn trở thành người lạc hậu, kẻ
chậm tiến? Sông muốn “làm mới” mình cho hợp hơn, kịp
hơn với cuộc sống hiện đại này? Có phải vì đó mà
sông đã “từ chối” sắc xanh, vị trong của làn nước,
của bóng cây ngọn cỏ quen thuộc mà tìm về với bùn
tù, nước đọng, với sắc đen u ám và mùi hương quá ư
đậm đặc? Quả thật, những dòng sông của nước Việt từ
Bắc, Trung, Nam đều đang quặn mình mà biến đổi!
Những dòng nước đen ngòm, hôi tanh nồng nặc, lập lờ,
lững đững không trôi cũng chẳng chảy cứ dần một xuất
hiện nhiều hơn, thay chỗ cho những dòng sông xanh.
Chúng lặng lẽ nhưng ngày càng nhanh hơn trong sự
xuất hiện của mình để rồi âm thầm tồn tại trong dạng
thức mới với tất cả những đổi thay đến đau lòng ấy.
Những sông Lừ, sông Sét, sông Tô Lịch, sông Kim
Ngưu, sông Cầu Bây, sông Nhuệ, sông Đáy… và cả dòng
sông mẹ (sông Hồng) của đồng bằng Bắc Bộ, sông Trà
Khúc, sông Bồng Miêu, kênh Bầu Lăng,… của dải đất
miền Trung, sông Tiền, sông Hậu, suối Linh, suối
Săng Máu, sông Thị Vải,… cùng hệ thống kênh rạch
chằng chịt của đất rừng phương Nam đều đã, đang và
sẽ nhanh chóng bị buộc phải thay lòng đổi dạ.
Sông Tô Lịch – nước đen dòng, rác ngự bờ
Những khu công nghiệp, khu chế xuất – vốn được xem
là mảnh đất hứa, là cơ hội mới cho sự phát triển,
hội nhập của đất nước với thế giới, là phương thức
hữu hiệu để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân
giờ trở thành “sát thủ” số một của những dòng sông,
khiến những dòng sông phải oằn mình mà sống chung
với rác, với nước thải, với sự ô nhiễm hạng nặng.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất, các nhà máy, các
cơ sở kinh doanh,… tất cả cứ “vô tư”, “hồn nhiên” đổ
tất cả những gì là cặn bã của mình vào lòng sông.
Chúng cứ như những đứa trẻ chưa lớn, chưa thể ý thức
được về cái mình đang đem đến cho những dòng sông.
Hàng ngàn con số, hàng sự “hồn nhiên” có chủ đích
của các nhà doanh nghiệp khiến chúng ta phải ngỡ
ngàng khi được biết đến nó. Những mức chất thải cao
gấp hàng nghìn lần cho phép được đổ thẳng ra lòng
sông mà không qua bất cứ một quá trình xử lí nào:
hầu hết nước thải của các nhà máy sản xuất ở 100 khu
công nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long đều được
tuồn thẳng ra các kênh rạch rồi đổ về sông Hậu hay
như việc mỗi năm ở các cụm công nghiệp thuộc đồng
bằng sông Cửu Long có gần 50 triệu m3 nước thải công
nghiệp được thải trực tiếp ra môi trường. Và còn
nhiều nhiều con số nữa khi được phanh phui ra mới
hiểu thấy được tình trạng đáng báo động của việc xả
thái ra môi trường một cách quá tự do và vô trách
nhiệm của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất.
Những thông số ô nhiễm hữu cơ (COD, BOD¬¬¬5) tại các
dòng sông cạnh khu công nghiệp luôn đạt ở mức “đỉnh
sàn” trong khi hàm lượng coliform (ô nhiễm vi sinh)
thì cao ngất ngưởng. Với tất cả những sự “ưu ái”,
“đầu tư” một cách kỹ lưỡng, có kế hoạch đó của các
doanh nghiệp đã “giúp” các dòng sông không còn là
một môi trường sống lí tưởng cho các loài động thực
vật, là một phần quan trọng trong chuỗi tự nhiên
giúp cân bằng hệ sinh thái môi trường, cũng không
còn có thể mang đến những giá trị vật chất hay tinh
thần cho người dân. Chúng trở thành những dòng nước
thải, những cái cống lộ thiên hạng lớn vẫn đang được
ưu ái gọi bằng hai tiếng “dòng sông” với tất cả
những đặc điểm đặc trưng nhất của những “dòng kênh
đen” từ màu sắc cho đến “hương vị”. Cũng chính bởi
sự thay lòng của các con sông mà những cuộc thay
ngôi đổi chủ đã, đang diễn ra ngày càng nhanh, mạnh
hơn. Nước thay màu, đổi sắc, thay hương, đổi vị nên
chủ nhân của những dòng sông cũng dần biến mất,
nhường chỗ cho những vị vua mới.
Hình ảnh của những con sông rác – con sông chết có
lẽ không còn quá xa lạ với người Việt Nam! Rác tiếm
ngôi của tôm, cua, cá, của cả một hệ sinh vật phù du
sông nước để độc chiếm dòng sông cho riêng mình! Rác
chễm chệ, vênh vang và hãnh diện trong địa phận bất
khả xâm của mình. Rác cứ vậy, lập lờ trôi, lập lờ du
ngoạn, lập lờ chiếm dụng những địa phận mới. Khi
những dòng sông trở thành dòng nước chết, mọi sinh
vật không còn có thể sinh tồn trong một hệ môi
trường vô cùng ô nhiễm như vậy thì sự lên ngôi của
rác cũng là điều đương nhiên, có tính tất yếu trong
chuỗi quy luật của sự sinh tồn. Sông chết trở thành
nơi dung chứa rác thải của mọi hoạt động sinh hoạt,
sản xuất trong đời sống của con người. Rác thải từ
hộ gia đình, từ các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, từ các
khu công nghiệp, các khu chế xuất cũng từ đó mà tìm
ra sông! Những dòng sông không trôi nhanh chóng trở
thành những vùng nước đọng, tù, lầy với đủ sự uế bẩn
của nó! Vậy là những dòng sông từ chỗ buộc phải
“thay lòng đổi dạ” tiến dần đến chỗ biến mất!
Sông chết – văn hóa sông chết!
Trên thực tế, một bộ phận không nhỏ người dân Việt
Nam sống bên cạnh những dòng sông, gắn bó với nó cả
về giá trị vật chất cũng như giá trị văn hóa tinh
thần. Dòng sông cung cấp cho con người những nguồn
lợi thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày, là nơi diễn
ra các hoạt động sinh hoạt đời thường của họ. Đó
cũng là những huyết mạch quan trọng tạo nguồn phù sa
cho những cánh đồng màu mỡ, giúp những cánh đồng có
thể đảm nhận một cách tốt nhất nhiệm vụ cung cấp
lương – thực phẩm cho cuộc cống. Đồng thời, văn hóa
sông nước là một thành tố quan trọng trong tổng thể
nền văn hóa dân tộc, có một sức ảnh hưởng rất lớn
đối với đời sống tâm linh người dân Việt. Bởi vậy,
khi những dòng sông biến mất, khi những dòng nước bị
đổi màu, mất đi sức sống ngàn đời nay của nó thì nó
cũng đồng thời để lại những khoảng trống lớn trong
cuộc sống của người dân.
Xóm chài trên sông Hồng
Nguồn lợi từ sông suối, kênh rạch không còn, đó là
cái mất đầu tiên - cái mất mát về mặt giá trị vật
chất. Cuộc sống của không ít bộ phận dân cư Việt vốn
phụ thuộc vào những nguồn lợi thu được từ dòng sông
(đánh bắt, khai thác các loài thủy sản, các loài
thủy sinh; khai thác các loại cắt, quặng) bị ảnh
hưởng một cách nghiêm trọng khi những dòng sông bị ô
nhiễm. Có những ngôi làng mà ở đó người dân quanh
năm suốt tháng trong cuộc đời của mình sống dựa vào
dòng sông với những nguồn lợi mà dòng sông đem lại
như làng chài sông Hồng, làng Choán ven sông Chu,
Thanh Hóa…Vốn gắn bó với những dòng sông, quanh năm
dựa vào những nguồn lợi từ đó mà trang trải cuộc
sống gia đình, tạo dựng tương lai cho các thế hệ con
cái giờ họ phải tìm đến những cách thức sống mới,
trong đó bao gồm cả những cách thức đầy vất vả, khó
khăn rồi sai trái. Các hoạt động kinh tế trên những
dòng sông cũng không còn có thể tiếp tục với những
nguồn lợi lớn nữa. Một loạt các hoạt động nuôi thủy
sản trên sông của người dân… đã bị thất bại bởi sự ô
nhiễm quá cao của môi trường nước.
Bên cạnh sự biến mất của những giá trị vật chất thì
có lẽ cần phải nhắc nhiều hơn đến sự mất mát về giá
trị văn hóa tinh thần của những dòng sông với cuộc
sống con người. Đời sống văn hóa sông nước vốn vẫn
được xem là hết sức phong phú, đa dạng, đặc sắc của
người Việt Nam với các lễ hội trên các dòng sông.
Chúng ta biết đến chợ nổi Ngã Bảy như một nét văn
hóa sông nước đặc trung của vùng đất Hậu Giang, biết
đến những nét văn hóa đặc sắc của người dân Phú Yên
qua lễ hội sông nước Tam Giang hay những tích xưa
được lưu giữ truyền tụng trong lễ rước nước trên
sông Hồng của người dân Hưng Yên,…Rồi còn đó tục
thời các vị thần sông nước tại các ngôi đền, miếu
trên khắp đất nước Việt Nam. Tất cả đều lưu giữ
trong đó những nét văn hóa đặc sắc, đậm đà tính dân
tộc. Thế nhưng, các hoạt động văn hóa sôi nổi, nhiều
ý nghĩa trên sông nước này sẽ không còn cơ hội được
tiếp tục và duy trì theo thời gian trên những dòng
sông chết. Bạn có thể tưởng tượng rằng một ngày nào
đó, bạn sẽ không còn có thể tham gia vào những lễ
rước Chử Đồng Tử, hội đua thuyền, đua ghe trên khắp
những con sống của cả nước,… mà chỉ còn có thể tìm
hiểu nó qua những điều được ghi lại trong những cuốn
sách? Sự biến mất của những hoạt động văn hóa trong
đó bao chứa những nền tảng tinh thần quan trọng cho
sự trưởng thành của những tâm hồn Việt thực sự là
một sự tổn thất lo lớn nhất đối với đời sống của mỗi
cá nhân nói riêng và nền văn hóa đất nước nói chung.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải nói đến sự ảnh
hưởng tới môi trường tự nhiên nói chung, môi trường
sống con người nói riêng của những dòng sông bị ô
nhiễm. Nó chính là những vách ngăn lớn cho sự phát
triển một cách hoàn thiện của đời sống người dân sau
này. Những dòng nước vốn chiếm giữ vai trò quan
trọng, có ý nghĩa quyết định rất lớn đến sự tồn tại
của tự nhiên và của người con người khi bị thay đổi
sẽ kéo theo nó rất nhiều những biến động theo hướng
bị hủy hoại. Bệnh dịch lan tràn, sức khỏe con người
bị đe dọa. Những nguy cơ đó đều là những điều có thể
xảy ra ngay vào lúc này. Và quan trọng hơn cả, đáng
lo ngại hơn nữa là tất cả những hậu quả nghiêm trọng
nhất đó của nó đều đổ xuống đầu của những người dân,
đặc biệt là người dân nghèo sống bám trụ lay lắt bên
bờ sông.
7- Báo động đỏ về những dòng sông đang hấp hối
07:39' 13/04/2007 (GMT+7)
Theo một báo cáo của Bộ Tài nguyên - môi trường công
bố hôm qua 12/4 tại một cuộc hội thảo, ô nhiễm môi
trường tập trung vào tình hình ở ba lưu vực sông
Cầu, Nhuệ - Đáy và hệ thống sông Đồng Nai.
Thái Nguyên điêu đứng với sông Cầu
Các tỉnh liên quan tới lưu vực sông Cầu gồm Bắc Kạn,
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải
Dương, Hà Nội. Mật độ dân số 427 người/km2 (cao hơn
hai lần mật độ trung bình cả nước), có 800 cơ sở sản
xuất công nghiệp, 200 làng nghề và 1.200 cơ sở y tế.
Trong các tỉnh có sông Cầu đi qua, Thái Nguyên bị ô
nhiễm rõ rệt, đặc biệt là đoạn sông chảy qua thành
phố. Nước sông đục, có màu đen nâu và bốc mùi. Hoạt
động sản xuất công nghiệp là thủ phạm chính. Nước
thải của Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đặt ngay trong
thành phố xả thẳng vào các nhánh nhỏ dẫn ra sông
Cầu, gồm các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng, độ
kiềm cao. Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên chảy
vào con sông này với lưu lượng khoảng 1,3 triệu
m3/năm và “ban tặng” cho dòng sông nhiều chất ô
nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và cyanure.
Ngoài sản xuất công nghiệp, các hoạt động nông
nghiệp cũng góp phần gây ô nhiễm nghiêm trọng. Lưu
vực sông Cầu tiếp nhận thêm ít nhất 180.000 tấn phân
hóa học và 1.500 tấn thuốc trừ sâu mỗi năm!
Nước thải sinh hoạt hại sông Nhuệ - Đáy
Rác ở chân cầu sông Tô Lịch (Hà Nội) - Ảnh tư liệu
Sông Nhuệ - Đáy liên quan đến Hà Nội, Hà Tây, Hà
Nam, Hòa Bình, Ninh Bình, Nam Định. Mật độ dân số
874 người/km2. Có trên 4.000 cơ sở sản xuất công
nghiệp, 458 làng nghề và 1.400 cơ sở y tế.
Với lưu vực sông Nhuệ - Đáy, báo cáo đưa ra khẳng
định: các sông nội thành Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm
trọng khi mọi thông số đo được đều vượt nhiều lần
tiêu chuẩn cho phép. Các con sông khác thuộc lưu vực
này như sông Châu Giang, sông Tích, sông Hoàng Long,
sông Đào đều bị ô nhiễm. Đặc trưng ô nhiễm của lưu
vực sông này là nước thải sinh hoạt đóng góp tỉ lệ
lớn nhất, trong đó thành phố Hà Nội đóng góp 54%
lượng nước thải sinh hoạt toàn lưu vực.
Công nghiệp & nuôi trồng thủy sản “giết” sông Đồng
Nai
Hệ thống sông Đồng Nai ảnh hưởng đến Đắc Nông, Lâm
Đồng, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận,
Tây Ninh, Bình Dương, TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Long An. Mật độ dân số 269 người/km2. Có hơn 9.000
cơ sở sản xuất công nghiệp, 491 làng nghề và 1.633
cơ sở y tế.
Do trải rộng trên nhiều tỉnh, hệ thống sông Đồng Nai
chịu tác động cùng lúc từ nhiều nguồn nên phần hạ
lưu của nhiều sông trong lưu vực đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng, thậm chí có đoạn trở thành sông chết.
Nước sông Đồng Nai, đoạn từ Nhà máy nước Thiện Tân
đến Long Đại có hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn cho
phép. Hệ thống sông Sài Gòn chủ yếu bị ô nhiễm chất
hữu cơ với dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng ở một số
nơi. Chất lượng nước của các con sông khác như sông
Bé, Đa Nhim - Đa Dung, Vàm Cỏ, nước ở các ao hồ,
kênh rạch trên lưu vực... đều bị ô nhiễm nặng.
Nghiêm trọng nhất là sông Thị Vải đã có đoạn bị chết
kéo dài từ sau khu vực hợp lưu suối Cả - Đồng Nai
đến Khu công nghiệp Mỹ Xuân. Tác nhân chính gây ô
nhiễm nước trong lưu vực là nước thải từ các cơ sở
sản xuất công nghiệp và các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Phần lớn đều xả trực tiếp vào nguồn nước. Một
đặc trưng khác về tác nhân ô nhiễm là hoạt động nuôi
trồng thủy sản trong lưu vực.
(Theo TTXVN, Tuổi Trẻ)
http://www.vnn.vn/khoahoc/2007/04/684226/
8- Những dòng sông thoát nước của Hà Nội: Bao giờ hết ô
nhiễm?
(Hà Nội ngày nay, số 106, tháng 2/2003, tr. 23+24)
Hiện nay, những dòng sông thoát nước của Hà Nội gồm:
sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Sét và sông Lừ với
tổng chiều dài 36,8 km. Kết quả khảo sát của Sở Khoa
học, Công nghệ và Môi trường thành phố Hà Nội cho
thấy 4 con sông này đang bị ô nhiễm trầm trọng (chỉ
số về ô nhiễm các chất hữu cơ như COD, BOD, SS đã
vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần). Với chức
năng thoát cả nước mưa và nước thải nên mức độ ô
nhiễm của các dòng sông sẽ tác động rất xấu đến môi
trường, gây ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ của
cộng đồng dân cư trong thành phố.
Những dòng sông thoát nước của Hà Nội khởi nguyên từ
xa xưa vốn là những nhánh nhỏ của sông Hồng. Sau khi
ổn định dòng chảy, sông Hồng cắt thành phố Hà Nội ra
2 miền tả ngạn và hữu ngạn. Bên tả ngạn hình thành
những con sông nhánh phía Bắc như sông Đuống và một
số sông khác làm nhiệm vụ tưới tiêu cho các huyện
phía Bắc sông Hồng. Phía nam sông Hồng có các nhánh
được hình thành từ đầu là những con sông mà tàu
thuyền có thể qua lại được bao gồm: sông Tô Lịch
(dài 13,5 km đi từ cống Bưởi đến đập Thanh Liệt);
sông Sét (dài 6,7 km đi từ cống Nam Khang đến Yên
Sở); sông Kim Ngưu (dài 10,8 km đi từ cống Lò Đúc
đến cuối Cầu Bươu) và sông Lừ (dài 5,8 km đi từ hồ
Nam Đồng đến cầu Dâu).
Qua nhiều thế kỷ bể dâu với nhiều biến động về địa
lý và xã hội, những dòng sông thơ mộng và nổi tiếng
trước đây (sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Sét,
sông Lừ) đến nay chỉ còn làm nhiệm vụ thoát nước cho
thành phố Hà Nội rồi từ đó bị ô nhiễm nặng nề.
Chưa cần xem xét kết quả mà Sở Khoa học, Công nghệ
và Môi trường thành phố Hà Nội thu được sau khi tiến
hành khảo sát, chỉ cần nhìn vào thực tế, cũng thấy
được mức độ ô nhiễm của các dòng sông thoát nước của
Hà Nội: nước đen sền sệt, rác rưởi bẩn thỉu nổi lềnh
bềnh, thường xuyên bốc mùi hôi thối khó chịu, nhất
là vào những ngày hè nóng nực... Thực tế là như vậy,
nhưng chúng ta sẽ còn phải giật mình lo ngại hơn nếu
đọc những con số mà Sở Khoa học, Công nghệ và Môi
trường Hà Nội cung cấp. Tại sông Sét và sông Lừ, chỉ
số về ô nhiễm BOD đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ
6 – 8 lần. Còn sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu là 10 –
12 lần. Hàm lượng COD, SS ở sông Tô Lịch, sông Kim
Ngưu, sông Sét, sông Lừ cũng đã vượt qua ngưỡng ô
nhiễm nặng tới hàng chục lần. Tuy nhiên, điều đáng
lo ngại nhất là: kết quả khảo sát cho thấy phần lớn
chức năng lọc sạch tự nhiên ở các dòng sông thoát
nước này đã không còn. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn
tới sự tồn tại của các dòng sông.
Theo Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành phố
Hà Nội thì nguyên nhân chính gây ô nhiễm các dòng
sông thoát nước là do nguồn nước sinh hoạt, nước
thải công nghiệp, nước thải bệnh viện đại bộ phận
chưa được xử lý chảy ra các dòng sông. Những đoạn
sông tiếp cận với khu công nghiệp thì bị ô nhiễm các
hoá chất và các kim loại nặng. Những khúc sông tiếp
cận với các bệnh viện thì bị ô nhiễm bởi các nước
thải mang mầm bệnh nguy hiểm. Những nguồn ô nhiễm
trên đây đã làm cho các hệ sinh thái dưới nước của
những dòng sông bị nghèo đi, làm ô nhiễm các nguồn
nước mặt ao, mặt hồ về các mùa mưa khi nước sông
tràn vào. Nó cũng làm bẩn các tầng nước ngầm và các
nguồn nước sạch bị dò rỉ, khiến mức độ tích luỹ sự
nhiễm bẩn, lại càng cao, gây khó khăn cho các sinh
vật sống dưới dòng sông đó. Ngược lại, các loài sinh
vật có hại như muỗi, ruồi lại có điều kiện phát
triển mạnh gây ra những tác hại cho môi trường sống
của cộng đồng dân cư sống cạnh những dòng sông này.
Ngoài nguyên nhân chính nói trên, cũng còn phải kể
tới một nguyên nhân khác nữa đã đóng góp không nhỏ
vào quá trình gây ô nhiễm, là: tốc độ phát triển dân
số, tốc độ đô thị hoá nhanh chóng ở Hà Nội đã dẫn
tới tình trạng lấn chiếm 2 bên bờ những dòng sông
này của cộng đồng dân cư sống bên mép sông, làm cho
dòng sông hẹp lại gây ra những “nút cổ chai” khiến
dòng chảy khó thoát. Theo Sở Khoa học, Công nghệ và
Môi trường thành phố Hà Nội, trước đây các dòng sông
có bề ngang rộng từ 50m đến 300 m nhưng hiện nay
nhiều đoạn sông bề ngang chỉ còn từ 5 m đến 10 m như
ở tuyến cống Lò Đúc, Cầu Dền... Thêm vào đó là mức
độ bồi lắng ngày càng lớn bởi các chất thải bẩn và
bụi đất trên các phố phường Hà Nội sau những trận
mưa trút xuống làm cho đáy sông cạn dần... mặc dù
công ty thoát nước Hà Nội đã có một đội quân khá
đông đảo chuyên môn làm nhiệm vụ nạo vét bùn và khai
thông những đoạn sông bị tắc nghẽn... nhưng cũng
không thể giải quyết hết những gì gây chướng ngại
cho dòng chảy của dòng sông. Chính vì vậy, nước vốn
đã bẩn lại không chảy được đã tích tụ lại làm cho
những dòng sông này đã ô nhiễm lại càng ô nhiễm hơn.
Ông Đặng Dương Bình - Trưởng phòng quản lý môi
trường - Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành
phố Hà Nội cho biết: Vấn đề ô nhiễm các dòng sông
thoát nước đã đặt ra một thử thách khó khăn đối với
thủ đô Hà Nội là làm sao giảm bớt, rồi chấm dứt sự ô
nhiễm cho những dòng sông này. Bởi nếu cứ đến tình
trạng các dòng sông thoát nước bị ô nhiễm kéo dài
thì sẽ gây ảnh hưởng rất xấu tới sức khoẻ của người
dân sống xung quanh, cũng như sự tồn tại của các
dòng sông. Mặc dù hiện nay, thực hiện các dự án
thoát nước của Hà Nội, sông Kim Ngưu, sông Tô Lịch,
sông Sét, sông Lừ đã được nạo vét và xây kè 2 bên bờ
sông làm cho dòng chảy thanh thoát hơn. Việc phủ
xanh 2 bên bờ những dòng sông thoát nước và chống
lần chiếm 2 bên bờ sông đã được tiến hành. Công tác
tuyên truyền giáo dục vận động nhân dân không ném
rác thải xuống các sông mương thoát nước được đẩy
mạnh... Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm ở các dòng sông
thoát nước chưa thực sự giảm.
Hà Nội đang cố gắng để trở thành một thành phố văn
minh – xanh - sạch - đẹp, hơn bao giờ hết vấn đề môi
trường đô thị phải được quan tâm. Hy vọng với những
chủ trương đúng đắn của UBND thành phố Hà Nội những
dòng sông thoát nước sẽ hết ô nhiễm trở lại sự trong
sạch vốn có.
Hoàng Văn Cường
http://www.nea.gov.vn/thongtinmt/noidung/hn_t2_03.htm
9- Những dòng sông chở nặng... ô nhiễm
Sông Sài Gòn nguồn cấp nước cho hơn 10 triệu dân vẫn
không thoát khỏi ô nhiễm.
Ngày 14.8 vừa qua, Ban Kinh tế Ngân sách và Thường
trực HĐND TPHCM đã tổ chức buổi tham vấn ý kiến của
nhân dân về vấn đề môi trường; các quan chức hữu
quan đã hứa giải quyết một số vấn đề môi trường theo
ý kiến người dân.
Có thể nói, cho đến giờ, các lãnh đạo thành phố ở ta
chưa có thông lệ "lắng nghe dân nói" về các vấn đề
môi trường như vậy.
Dự kiến đầu tháng 9 này, HĐND TPHCM sẽ phối hợp với
UBNDTP, tổ chức một hội nghị chuyên đề về vấn đề môi
trường. Thành phố lớn nhất, đông dân nhất nước này
cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm toàn
diện và cũng ở mức báo động nhất nước.
Ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn TPHCM hiện nay được
đánh giá là nghiêm trọng nhất. Các dòng kênh trong
nội thành bị ô nhiễm đã đành, các dòng sông lớn cung
cấp nước sinh hoạt cho hàng chục triệu con người
cũng không thoát khỏi số phận tương tự.
Nguồn nước bị "ung thư"
Theo những số liệu mới nhất, hệ thống kênh rạch của
thành phố mỗi ngày bị đầu độc bởi sơ sơ có... 40 tấn
rác thải các loại và 70.000m3 nước thải công nghiệp
(vài năm trước số liệu này là 200.000m3)
chưa qua
xử lý. Với một thực trạng như vậy thử hỏi làm sao
những dòng kênh xanh không biến thành những dòng
kênh bị "ung thư".
Trong khu vực nội thành, những dòng kênh như Nhiêu
Lộc-Thị Nghè, kênh Đôi-kênh Tẻ, kênh Tàu Hủ, Tân
Hóa-Lò Gốm
bị ô nhiễm từ vài chục năm nay là chuyện
đã đành thì đến hiện nay ngay khu vực ngoại thành từ
Bình Chánh, Hóc Môn đến Củ Chi... những dòng kênh
vốn phục vụ cho việc tưới tiêu trước đây nay cũng
biến thành những dòng kênh mà người dân đã gọi là
kênh sủi bọt, kênh ngứa, kênh nín thở...
Theo Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Bình Chánh,
trong hệ thống 72 tuyến kênh trên địa bàn huyện đến
nay không còn bất cứ dòng kênh nào mà không bị ô
nhiễm nặng. Hậu quả này cũng dễ hiểu khi có đến hơn
1.000 cơ sở sản xuất trong vài năm qua hàng ngày đua
nhau xả thải xuống hệ thống kênh này.
Theo một kết quả kiểm tra mới đây của Phòng Tài
nguyên Môi trường huyện Bình Chánh, chỉ có vẻn vẹn
22 trong số gần 1.000 cơ sở sản xuất có trang bị hệ
thống xử lý nước thải. 70% chiều dài của các tuyến
kênh trên địa bàn thành phố bị ô nhiễm nặng, trong
đó, tuyến kênh An Hạ-Thầy Cai được xếp vào nhóm ô
nhiễm gia tăng nhanh nhất, chủ yếu là hoá chất dệt
nhuộm, hóa chất phục vụ ngành caosu, kim loại nặng
và chất rắn lơ lửng...
Nước ô nhiễm của tuyến kênh này có lần đã làm chết
cá của một số hộ dân trên địa bàn 2 huyện Đức Hoà,
Đức Huệ tỉnh Long An. Một tuyến kênh khác cũng được
xếp vào loại điểm nóng là kênh Ba Bò của khu vực
giáp ranh tỉnh Bình Dương và quận Thủ Đức, TPHCM.
Theo phản ánh của người dân với Hội đồng Nhân dân
TPHCM, có những ngày nước kênh thay đổi sắc thái đến
3 lần: Sáng đỏ (hoá chất dệt nhuộm) trưa có màu đen
và hôi, vào buổi chiều thì sủi bọt. Nhiều khi bọt
sủi nhiều đến mức tràn lên bờ...
10 triệu người chung sống
Ô nhiễm không chỉ là chuyện của các dòng kênh mà
ngay cả lưu vực sông Đồng Nai, trong đó có sông Sài
Gòn nguồn cấp nước sinh hoạt cho hơn 10 triệu dân
của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam cũng đang bị
đầu độc. Lưu vực sông Đồng Nai chảy qua 11 tỉnh
thành: Đak Nông, Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Ninh,
Đồng Nai, Bình Dương, Lâm Đồng, TPHCM, Long An và Bà
Rịa-Vũng Tàu và Bình Phước.
Hoạt động công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, phát
triển đô thị... được các nhà khoa học xem là nguyên
nhân chính gây ô nhiễm cho lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai nói chung và sông Sài Gòn nói riêng.
Theo một công trình nghiên cứu của kỹ sư Võ Thị Ngọc
Hạnh - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh
Bình Dương - thì chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh
Bình Dương đã có 11 KCN xả nước thải vào lưu vực
sông Sài Gòn, khối lượng nước thải mỗi khu ít nhất
là 1.200m3/ngày và nhiều nhất là 5.600m3 nước
thải/ngày.
Ngoài ra, các cơ sở sản xuất nằm ngoài các KCN cũng
thải vào lưu vực sông Sài Gòn 45.000m3/ngày. Trong
đó các ngành độc hải như sản xuất giấy thải ra
7.700m3; dệt nhuộm 4.200m3 và chế biến mủ cao su
9.600m3/ngày. Riêng đối với hoạt động chăn nuôi mỗi
ngày thải ra hơn 24.500m3 nước thải...
Còn đối với TPHCM, số liệu về khối lượng nước thải
công nghiệp thải vào lưu vực sông Sài Gòn không được
công bố nhưng con số thực tế có thể là
250.000m3/ngày đêm. Còn theo số liệu của Bộ Tài
nguyên Môi trường trong lưu vực hệ thống sông Đồng
Nai có gần 500 làng nghề, 9.000 cơ sở sản xuất,
1.633 cơ sở y tế.... xả nước thải vào lưu vực, trong
đó hầu hết là nước thải chưa qua xử lý.
Thực trạng ô nhiễm của lưu vực hệ thống sông Đồng
Nai đã được các nhà khoa học báo động từ lâu thế
nhưng chính quyền các tỉnh hầu như không có phản ứng
gì trước thực trạng này. Các tỉnh thành trong khu
vực trọng điểm kinh tế phía Nam từ 10 năm nay đã
chạy đua thu hút đầu tư, chạy đua phát triển công
nghiệp nên xem nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường.
Đua nhau đưa ra các điều kiện dễ dãi nhất để lôi kéo
các nhà đầu tư, trong đó có các tiêu chuẩn về môi
trường. Hậu quả, nước thải công nghiệp chưa qua xử
lý hoặc xử lý chưa đạt chuẩn cho phép vô tư xả thẳng
vào nguồn nước sông trong hệ thống sông Đồng Nai.
Thực tế này giải thích vì sao, lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng, đe doạ
nguồn nước sinh hoạt của hơn 10 triệu dân.
Đặc biệt là trong thời gian gần đây chất lượng nước
thô cung cấp cho các nhà máy nước của TPHCM bị giảm
sút nghiêm trọng. TPHCM đã phải chỉ đạo cho các cơ
quan chức năng lập một đề án để bảo vệ nguồn nước
sông Sài Gòn. Trong khi TPHCM lo sợ nguồn cấp nước
sinh hoạt chính bị ô nhiễm thì phía thượng nguồn của
lưu vực trên sông La Ngà, hồ Trị An, hồ Dầu Tiếng...
người ta vẫn cứ vô tư nuôi cá bằng phân gà, phân
heo.
Sông Thị Vải (Đồng Nai) một nhánh của toàn lưu vực
tiếp tục là dòng sông chết bởi hoá chất của Nhà máy
Vedan.
TPHCM: Ô nhiễm toàn diện
Theo kết quả quan trắc của Chi cục Bảo vệ môi trường
TPHCM, nồng độ bụi trong không khí thành phố này đã
có sự gia tăng vượt bậc: năm 1999 là 0,53mg/m3 đến
năm 2006 đã tăng lên 0,63mg/m3 không khí. Các chỉ số
khác như benzene, chì trong không khí tăng từ 3 đến
8 lần từ năm 2000 đến 2006. Về nước thải của các khu
chế xuất, khu công nghiệp, trong 45 mẫu nước thải
được Chi cục Bảo vệ môi trường lấy về kiểm tra chỉ
có 1 mẫu đạt yêu cầu, 44 mẫu còn lại chứa nhiều chất
gây ô nhiễm vượt chuẩn cho phép lên đến cả trăm lần,
thậm chí là vài trăm lần.
(Theo báo lao động)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=49&cate=1
10- Những con mương “đen” giữa lòng thành phố Cảng
Đã nhiều năm nay, hàng trăm hộ dân ở Khu dân cư Hà
Khê cùng các sinh viên của Trường Cao đẳng nghề miền
Bắc (phường Kênh Dương, quận Lê Chân, Hải Phòng)
phải chịu cảnh sống trong môi trường ô nhiễm trầm
trọng, bên cạnh mương nước đen kịt, bốc mùi hôi nồng
nặc, ruồi muỗi nhiều vô kể. Đáng chú ý hơn, người
dân đã nhiều lần lên tiếng, kiến nghị nhưng các cấp
chính quyền vẫn khoanh tay làm ngơ để bà con "sống
chung với ô nhiễm".
Con mương nổi ô nhiễm này rộng khoảng 4m, dài gần
300m, chạy dọc theo đường Thiên Lôi, phường Kênh
Dương (quận Lê Chân). Nó bắt đầu từ cống Thiên Lôi (
khu vực Trại Lẻ), chảy qua khu vực sinh sống của các
tổ dân phố 12,13,14 và đi vào khuôn viên của Trường
Cao đẳng nghề miền Bắc, sau đó đổ ra sông Lạch Tray
(cạnh bến xe liên tỉnh Cầu Rào). Đây là con mương
thoát nước thải sinh hoạt của quận Lê Chân và khu
vực Tây Nam thành phố Hải Phòng nên có mức độ ô
nhiễm rất nặng, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của
khoảng gần 500 gia đình và hơn 800 sinh viên của
trường cao đẳng nghề. Những người dân cho biết, mỗi
ngày, họ phải hứng chịu mùi hôi nồng nặc bốc lên từ
con mương khoảng gần 20 tiếng vì chỉ đến cuối ngày
khi thuỷ triều lên cao, nước từ ngoài sông mới tràn
vào và đẩy nước thải chảy ngược lại. Khi thủy triều
xuống, nước thải từ trung tâm thành phố lại ồ ạt
chảy ra. Đặc biệt, những ngày trời càng nắng, oi
bức, mùi hôi lại càng nồng nặc hơn. Những ngày trời
mưa, ẩm ướt, ruồi, muỗi nhiều vô kể. Do sống trong
môi trường ô nhiễm, nhiều người già, trẻ em bị viêm
phổi và mắc các bệnh liên quan đến đường hô hấp,
bệnh ngoài da, sốt do muỗi cắn...
Trước đây, đoạn mương chảy qua phường Kênh Dương đều
là mương nổi, nước chảy lộ thiên. Khoảng năm 2000,
chính quyền sở tại đã quy hoạch và đầu tư kinh phí
làm mương hộp để nước chảy ngầm nhằm hạn chế tình
trạng ô nhiễm. Tuy nhiên, người dân rất bức xúc vì
không hiểu sao thành phố chỉ làm mương hộp từ khu
vực trung tâm đến cống Thiên Lôi, đoạn còn lại vẫn
để nước chảy lộ thiên. Từ đó đến nay, người dân đã
nhiều lần lên tiếng, kiến nghị nhưng các cấp chính
quyền vẫn chưa có phản ứng gì và họ vẫn ngày ngày
sống trong ô nhiễm.
Tương tự, con mương Cống Đen chảy qua Cụm dân cư số
7, phường Nam Hải, quận Hải An cũng đang bị ô nhiễm,
ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Tuy chưa nguy
hiểm bằng con mương tại phường Kênh Dương nhưng do
một số người dân thiếu ý thức vứt rác thải sinh hoạt
xuống, tình trạng ô nhiễm cũng đang ở mức báo động.
(Theo Bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=47&cate=1
11- Bình Dương: Nước thải từ các KCN góp phần gây ô
nhiễm sông Đồng Nai?
Nước thải công nghiệp chảy ra sông
Những năm gần đây, các con suối ở vùng giáp ranh
giữa hai tỉnh: Đồng Nai và Bình Dương (bắt nguồn từ
tỉnh Bình Dương chảy qua các xã: Hóa An, Tân Hạnh,
Bửu Hòa, Tân Vạn - thuộc TP.Biên Hòa rồi chảy ra
sông Đồng Nai) đã trở nên ô nhiễm nghiêm trọng. Đây
cũng là một vấn đề bức xúc mà trong các cuộc tiếp
xúc cử tri, người dân hai xã: Hóa An và Tân Hạnh đã
nhiều lần phản ánh...
Suối Siệp là ranh giới giữa xã Tân Đông Hiệp B (tỉnh
Bình Dương) và xã Hóa An, TP.Biên Hòa. Theo ông Trần
Văn Ngọc, Chủ tịch UBND xã Hóa An, chỉ cách đây 5
năm, nước suối ở đây còn trong veo, vì con suối chảy
ra từ mạch Bà Đọt. Thế nhưng mấy năm gần đây, con
suối trở nên đen ngòm, hôi thối. Theo người dân sống
ven suối, vào buổi chiều hoặc tối nước thải chảy về
ồ ạt; có hôm bọt nổi trắng như xà bông. Đặc biệt,
khu vực càng gần cống nước thải đầu nguồn từ xã Tân
Đông Hiệp B mùi hôi càng bốc lên nồng nặc. Bà Phạm
Thị Châu, ở tổ 22, ấp Cầu Hang cho biết: "Có bữa dọn
cơm lên rồi mà gặp gió lùa mùi hôi thối từ suối bốc
lên làm cả nhà không ai nuốt nổi cơm".
Bên cạnh đó, hiện có khoảng 50 hộ dân có nhà ở ven
suối phải khổ sở vì sống chung với nguồn nước ô
nhiễm. Đa số các hộ dân ở đây chưa có nước máy sử
dụng. Họ phải dùng nước giếng đào hoặc giếng khoan.
Nhiều hôm trời mưa, nước suối tràn vào tận nhà dân
và vào cả giếng nước. Khu vực ven suối trở nên ẩm
thấp, hôi thối. Ông Trần Văn Ngọc, Chủ tịch UBND xã
Hóa An cho biết, trong các cuộc họp tiếp xúc cử tri,
người dân nơi đây đã nhiều lần phản ánh. Việc suối
Siệp bắt nguồn từ tỉnh Bình Dương chảy ra xã Hóa An,
Bửu Hòa, Tân Vạn rồi chảy ra sông Đồng Nai bị ô
nhiễm không chỉ ảnh hưởng đến dân cư ở các xã này,
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến dòng sông Đồng Nai.
Do đó, khi phát hiện được nguyên nhân gây ô nhiễm
nguồn nước, cần có hướng khắc phục, để hạn chế ô
nhiễm trên diện rộng.
Tương tự như xã Hóa An, các con suối và các con rạch
ở xã Tân Hạnh, 4-5 năm trở lại đây cũng đã bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Ông Nguyễn Văn Lập, cán bộ phụ
trách môi trường của xã cho biết, thời gian qua, xã
Tân Hạnh cũng đã đi khảo sát từ đầu nguồn của các
con suối, con rạch trên địa bàn. Theo đó, xã cũng
xác định, nguyên nhân gây ô nhiễm suối Cầu Bốn Trụ
là từ các nhà máy, lò mổ gia súc từ xã Tân Bình,
huyện Dĩ An (tỉnh Bình Dương). Bên cạnh đó, nước từ
rạch Ông Tiếp cũng bị ô nhiễm do nước thải từ các
cụm công nghiệp của xã An Phú (huyện Thuận An) và xã
Thái Hòa (huyện Tân Uyên) đổ về. Trước đây, bà con ở
ấp 1 còn ăn uống, tắm giặt trên rạch Ông Tiếp. Thế
nhưng đến nay, người dân không dám sử dụng nước này
vì khi nước tiếp xúc vào da sẽ nổi mẩn ngứa, khó
chịu.
Vừa qua, Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Đồng
Nai cũng đã tiến hành khảo sát tại một số khu vực mà
người dân phản ánh. Qua đó cho thấy, suối Siệp là
nguồn tiếp nhận nước thải từ KCN Tân Đông Hiệp B,
khu dân cư Tân Đông An, Trung tâm y tế huyện Dĩ An
và các hộ dân cư sống dọc theo suối bên tỉnh Bình
Dương. Các nguồn nước thải này chưa được xử lý triệt
để. Qua khảo sát cho thấy, phản ánh của người dân về
ô nhiễm môi trường là đúng. Sở TN&MT đã thu 3 mẫu
nước thải ở các khu vực này để phân tích, đánh giá
chất lượng. Được biết, vào ngày 2-7-2007, UBND tỉnh
Đồng Nai cũng đã có Văn bản đề nghị UBND tỉnh Bình
Dương chỉ đạo các ngành, các cấp có liên quan kiểm
tra và có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường từ KCN
Tân Đông Hiệp B thải ra suối Siệp. Tuy nhiên, đến
nay UBND tỉnh Đồng Nai chưa nhận được ý kiến phản
hồi từ tỉnh Bình Dương nhằm giải quyết vấn đề nêu
trên. Trong thời gian tới, sau khi có kết quả phân
tích mẫu nước thải, Sở TN&MT sẽ báo cáo UBND tỉnh để
đề nghị UBND tỉnh Bình Dương có biện pháp xử lý ô
nhiễm môi trường tại các khu vực nêu trên.
(Theo Bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam)
12- Xử lý ô nhiễm sông Thị Vải: Chỉ mới giải quyết phần
ngọn
Mọi giải pháp cứu sông Thị Vải là cần thiết, nhưng
nên xác định cái "gốc" là con người quản lý.
Cảng vụ Hàng hải Bà Rịa - Vũng Tàu (BRVT) vừa gửi
công văn tới tỉnh bạn Đồng Nai và bộ, ngành liên
quan đề xuất "cứu" sông Thị Vải bằng giải pháp đào
kênh mới khơi thông sông này. Trước đó, tỉnh Đồng
Nai cũng tính sẽ đề xuất phương án đào kênh.
Tuy nhiên, nếu con người vẫn vì đầu tư mà bất chấp
môi trường thì sẽ lại thêm những con sông mới "chết
chùm" theo sông Thị Vải...
Đào kênh, rửa... nước
Theo Cảng vụ Hàng hải Vũng Tàu (BRVT), vì sông Thị
Vải là sông cụt nên nước thải từ các KCN, hoạt động
của các cảng nằm dọc ven bờ, đổ xuống sông không
thoát được và chỉ dâng lên, hạ xuống theo thuỷ
triều. Như vậy, nếu đào kênh nối với sông Đồng Nai
sẽ giúp cho nước trên sông Thị Vải lưu thông và dần
dần thau rửa ô nhiễm của con sông này.
Cảng vụ Hàng hải Vũng Tàu cho rằng, cần đào một đoạn
kênh (chiều dài khoảng 14km đến 16km, bề rộng mặt
kênh 200 mét, bề rộng mặt đáy 180 mét và độ sâu
khoảng 10 mét đến 12 mét) nối từ thượng nguồn sông
Thị Vải tới cù lao Ông Cồn hoặc khu vực Long Tân,
Phú Hội trên sông Đồng Nai.
Kênh mới, không chỉ giải quyết ô nhiễm, mà còn tạo
thêm tuyến vận tải bằng đường thuỷ từ Vũng Tàu đi
TPHCM, Đồng Nai, góp phần giảm mật độ lưu thông trên
tuyến đường thuỷ còn lại và cả đường bộ. Trước đó,
sau khi dư luận lên tiếng bức xúc về việc tàu Nhật,
tàu Singapore "chê cảng" vì sợ nước sông Thị Vải ô
nhiễm gây hỏng vỏ tàu, ngày 21.8.2008, Phó Chủ tịch
UBND tỉnh Đồng Nai - ông Ao Văn Thinh - đã chủ trì
cuộc họp với các sở, ngành chức năng nhằm bàn các
giải pháp giảm thiểu triệt để ô nhiễm môi trường
sông Thị Vải.
Tại cuộc họp này, UBND tỉnh Đồng Nai cho hay, sẽ đề
xuất với bộ, ngành T.Ư đầu tư nạo vét, đào mới đoạn
kênh nối sông Thị Vải với sông Đồng Môn thông qua
kênh Bà Ký, tạo sự thông thương luồng lạch để làm
tăng khả năng "tự làm sạch" của sông Thị Vải, đồng
thời tạo thêm một tuyến vận tải thuỷ cho các KCN
trên địa bàn.
Chỉ giải quyết phần ngọn...
Theo các nhà khoa học, mặc dù các con sông đều có
khả năng tự làm sạch"; tuy nhiên nhìn từ sông Thị
Vải, khi mỗi ngày "uống" hàng chục ngàn mét khối
nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu
chuẩn thì khả năng này dường như đã bị triệt tiêu.
Trông chờ vào bàn tay con người thì không ít người
đã thất vọng. Bởi ngay mới đây, khi được DN phản ánh
về tình trạng vỏ tàu bị nước sông Thị Vải ăn mòn,
sức khoẻ công nhân bị ảnh hưởng, các cơ quan chức
năng thay vì đưa ra những lời giải thích thuyết phục
thì lại trả lời với điệp khúc cũ: "Chưa thể đánh giá
hết tác hại!", "phải chờ ý kiến của cấp trên".
Bởi vậy, đề xuất giải pháp "cứu" sông Thị Vải của 2
địa phương nêu trên khiến dư luận lo lắng, đặc biệt
ý kiến "mạnh dạn" của Cảng vụ Hàng hải Vũng Tàu: Dọc
trên tuyến kênh đào này có thể xây dựng thêm được
nhiều cảng và KCN ở 2 bên bờ. Bởi lẽ nếu tiếp tục
làm các KCN theo cung cách "hy sinh môi trường vì
lợi ích kinh tế" của 2 tỉnh có con sông "vàng" này
thì sẽ lại có thêm một "sông Thị Vải 2". Rốt cục
"tiền mất tật mang".
Nếu vẫn đào kênh mới, không xây thêm KCN, mà vẫn
không mạnh tay, để các nhà máy, KCN xả chất thải
không đảm bảo tiêu chuẩn, thì chẳng khác gì giúp
nguồn ô nhiễm từ sông Thị Vải lây lan sang các con
sông khác.
(Theo báo lao động)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=53&cate=1
13- Gây ô nhiễm vẫn ung dung hoạt động
Khói bụi do Công ty Viguato xả ra.
Công ty liên doanh sản xuất nông dược vi sinh
Viguato tuy hoạt động sản xuất "rầm rộ" nhưng vẫn
chưa có giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường,
chưa đăng ký sử dụng nguồn nước sông và chưa thực
hiện việc xử lý nước thải trong nhiều năm qua...
Công ty Viguato đóng trụ sở tại số 01 Nguyễn Văn
Quỳ, khu phố 1, phường Tân Thuận Đông, quận 7,
TP.HCM chuyên sản xuất thuốc trị bệnh khô vằn trên
lúa.
Theo người dân khu phố 1 phản ánh, 12 năm qua họ
phải sống chung với tiếng ồn và mùi hôi thối do Công
ty VIGUATO gây ra.
Liên tục trong các ngày đầu tháng 8, mỗi lần Công ty
Viguato xả khí là toàn bộ khu dân cư "ngập" trong
mùi hôi tanh nồng nặc. Vì quá bức xúc trước tình
trạng trên, cách đây 3 tháng, hàng chục hộ dân sống
ở các khu chung cư An Hòa 5, 6, 7 trên đường Trần
Trọng Cung, quận 7 cùng với người dân khu phố 1 đã
kéo đến Công ty Viguato yêu cầu dừng ngay sản xuất
vì môi trường bị công ty này làm ô nhiễm nặng nề.
Được biết, trong lần làm việc với đoàn kiểm tra do
chính quyền địa phương phối hợp với Sở Tài nguyên -
Môi trường TPHCM vừa qua thì phía Công ty Viguato
chưa xuất trình được giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn
môi trường, giấy tờ quan trắc về độ ồn, không khí...
Ngoài ra, mỗi ngày công ty này hút "trộm" cả ngàn
mét khối nước từ kênh để đưa vào chế biến, sau đó
lại xả nước thải ra kênh, gây ô nhiễm nguồn nước
trầm trọng.
Điều đáng nói là dù đã bị chính quyền địa phương
nhắc nhở và xử phạt hành chính nhưng đến nay phía
Công ty Viguato vẫn không chịu khắc phục tình trạng
trên.
Người dân mong rằng chính quyền địa phương cần có
biện pháp xử lý nghiêm khắc hơn nhằm bảo vệ sức khỏe
cho người dân nơi đây.
(Theo báo lao động)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=36&cate=1
14- Hà Nội: "Bội thực" vì nguồn chất thải
Hàng ngày, Hà Nội thải ra đến 2.800 tấn rác sinh
hoạt và khoảng 2.000 tấn chất thải công nghiệp khác.
Nhưng việc xử lý chất thải của các xí nghiệp môi
trường có vẻ chưa theo kịp thực tế.
Chất thải nguy hại mới thu gom được 70%
Theo Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội, tổng lượng
rác thải sinh hoạt đô thị của thành phố vào khoảng
2.800 tấn/ngày; ngoài ra chất thải công nghiệp, chất
thải xây dựng, chất thải y tế cũng là “vấn đề rất
lớn” với tổng khối lượng khoảng 2.000 tấn/ngày. Chất
thải rắn (CTR) sinh hoạt chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các loại: khoảng 60%; chất thải xây dựng chiếm
khoảng 1/4 và lượng chất thải phân bùn bể phốt là
5%.
Riêng chất thải công nghiệp chiếm 10% (trong đó bao
gồm luôn cả chất thải nguy hại) và hàng năm tăng
thêm từ 3-5% (như năm 2007, lượng phát sinh là 750
tấn/ngày). Nguồn phát thải loại này tập trung vào
một vài ngành như: chế biến thực phẩm, hóa chất và
cơ khí. Riêng 3 ngành này đã chiếm gần phân nửa tổng
lượng chất thải công nghiệp của thành phố.
Đối với nguồn thải từ các bệnh viện, hiện cả thành
phố có 91 bệnh viện và trung tâm y tế cấp quận,
huyện; ngoài ra còn 232 trạm y tế xã và cơ sở y tế
nhỏ. Tổng lượng rác y tế xấp xỉ khoảng 20 tấn/ngày;
tỷ lệ chất thải y tế nguy hại trong đó chiếm tỷ lệ
tương đối cao, chừng 5 tấn/ngày.
Hiện tại, công ty TNHH Nhà nước một thành viên Môi
trường đô thị (Urenco) chịu trách nhiệm thu gom và
vận chuyển phần lớn lượng chất thải sinh hoạt của
thành phố. Ngoài ra, còn có 5 xí nghiệp môi trường
đô thị chịu trách nhiệm thu gom tại khu vực các
huyện ngoại thành và các đơn vị tham gia thu gom vận
chuyển theo hình thức xã hội hóa như: Công ty cổ
phần Thăng Long; công ty cổ phần Tây Đô; Công ty cổ
phần Xanh; hợp tác xã Thành Công…
Tỷ lệ thu gom chất thải sinh hoạt ở các quận nội
thành đạt khoảng 95%, còn các huyện ngoại thành tỷ
lệ này chỉ đạt 60%; Lượng CTR công nghiệp được thu
gom đạt 85-90% và chất thải nguy hại mới chỉ đạt
khoảng 60-70%.
Chủ nguồn chất thải nguy hại ở đâu?
Theo Sở Giao thông Vận tải Hà Nội, địa bàn các quận,
huyện: Thanh Xuân, Cầu Giấy, Từ Liêm, Long Biên…là
“đặc biệt nghiêm trọng” trong việc đổ rác bừa bãi,
đổ trộm phế thải xây dựng gây ô nhiễm môi trường.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện toàn thành phố có
khoảng 410 điểm xây dựng có nguồn phế thải. Nguồn
đất thải, phế thải từ các công trường thải ra là rất
lớn; còn nhiều phương tiện vận chuyển vật liệu xây
dựng, đất phế thải thiếu che chắn làm rơi vãi ra
đường phố; đặc biệt còn có những tổ chức, cá nhân
thiếu trách nhiệm cố tình đổ bừa đất phế thải ra
lòng đường, vỉa hè, nơi công cộng. Tại bãi đổ Yên
Sở, lượng xe vào ra trung bình khoảng 150-200
xe/ngày với lượng phế thải lên đến 600m3/ngày đêm;
lượng xe vào đổ phế thải tại bãi Thanh Trì thậm chí
còn lớn hơn, khoảng từ 300-400 xe/ngày đêm.
Hàng loạt các hạn chế trong thu gom, vận chuyển CTR
sinh hoạt được chỉ ra: Mất vệ sinh cục bộ bởi phương
thức thu gom hiện nay hầu hết là gián tiếp, thông
qua các xe đẩy tay từ các khu vực dân cư, tập kết về
một điểm tự phát rồi chuyển lên ô tô chuyên dụng tại
các ngã tư, góc đường… Việc rác thải chưa được phân
loại tại nguồn cũng gây khó khăn cho việc vận
chuyển, xử lý.
Năng lực của các xí nghiệp môi trường đô thị về
thiết bị, phương tiện thu gom vẫn còn thiếu, tải
trọng nhỏ, cũ, hỏng…chưa theo kịp các yêu cầu thực
tế. Đối với khu vực ngoại thành diện tích rộng, dân
cư không tập trung, thành phần rác thải “phong phú
hơn” do hoạt động nông nghiệp: các loại bao bì phân
bón, vỏ hộp thuốc trừ sâu…khó thu gom, ý thức người
dân chưa cao và hệ thống vận chuyển bị hạn chế cả về
nhân lực lẫn phương tiện.
Trước đây, Hà Nội đã thực hiện theo thông tư 12 từ
Bộ Tài Nguyên Môi trường, chủ trương thắt chặt dần
công tác quản lý CTR nguy hại trên địa bàn từ chủ
nguồn thải cho đến các đơn vị hành nghề vận chuyển,
xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại. Tuy nhiên, cho
đến nay việc quản lý vẫn chưa cho thấy hiệu quả,
không kiểm soát hết các vấn đề về chất thải liên
quan.
Chỉ có khoảng 80 doanh nghiệp chịu đứng ra đăng ký
là chủ nguồn của chất thải nguy hại, chủ yếu là các
doanh nghiệp lớn. Do chi phí xử lý chất thải nguy
hại là tương đối cao (khoảng 6 triệu đồng/tấn), nên
một số doanh nghiệp tìm đến các cơ sở nhỏ, không đủ
năng lực xử lý nhưng chi phí rẻ hơn để vận chuyển
rác ra khỏi cơ sở mình. Vì thế, chất thải nguy hại
không được kiểm soát tận nơi xử lý cuối cùng; thậm
chí chúng còn bị tái chế tự phát gây ảnh hưởng tới
môi trường như tái chế nhựa, tái chưng cất dầu thải.
Đối với chất thải y tế, các bệnh viện và các trung
tâm y tế chưa tuân thủ nghiêm túc các hướng dẫn
chuyên ngành, dẫn đến chất thải y tế nguy hại (có
khả năng lây nhiễm) không được quản lý chặt, thậm
chí còn bị bán trôi nổi trên thị trường.
Ngay cả công tác xử lý, tiêu hủy, tái chế CTR hiện
cũng còn rất nhiều hạn chế- chủ yếu dựa vào việc
chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn (chất thải ở đây hầu
như không được phân loại). Còn riêng nhà máy chế
biến rác thải tại Cầu Diễn, mới chỉ đạt sản lượng
khoảng 7.000 tấn/năm, nghĩa là chỉ có khoảng 7%
lượng rác thải sinh hoạt được tái chế thành phân vi
sinh.
(Theo Bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=63&cate=1
15- Hạt nix trong mắt ai
Năm 2007, lãnh đạo tỉnh Khánh Hoà có chủ trương xin
rút vịnh Nha Trang khỏi danh sách danh thắng quốc
gia với lý do "Thực hiện Luật Di sản văn hoá thì ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế tỉnh nhà".
Dư luận cả nước đã lên tiếng "Vịnh Nha Trang không
phải tài sản riêng của Khánh Hoà".
Đầu năm 2008, lãnh đạo tỉnh Khánh Hoà đặt vấn đề san
lấp 360ha mặt nước biển thuộc vịnh Vân Phong, hy
sinh hệ thống cồn cát tự nhiên bảo vệ bờ biển từ
hàng nghìn năm nay, để cho phép Tập đoàn POSCO xây
dựng khu luyện cán thép, vốn là một mối nguy về ô
nhiễm môi trường không kém Hyundai Vinashin, ngay
chính nơi được đánh giá là báu vật thiên nhiên của
đất nước. Dư luận cả nước lại không đồng tình.
Những giá trị của Nha Trang - Khánh Hoà cũng là sở
hữu của cả nước, đồng thời còn là tình yêu khắp nơi
dành cho đất và người vốn giàu đẹp tự nghìn xưa này.
Nên không lạ gì những ngày này, thêm một cơn sóng
gió dư luận hướng về Khánh Hoà khi cảnh sát môi
trường bắt quả tang Hyundai Vinashin đổ trộm 60 tấn
chất thải độc hại, trong số hơn 700 tấn, chủ yếu là
hạt nix, ngay sát khu dân cư của thôn Phú Thọ 3, xã
Ninh Diêm, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà.
Dư luận phẫn nộ trước ứng xử coi thường luật pháp
Việt Nam, coi thường sinh mệnh người dân Việt Nam
của Hyundai Vinashin, thì đã rõ. Bên cạnh đó, và
quan trọng hơn, dư luận đặc biệt lo lắng cho thực
trạng quản lý nhà nước đối với các vụ việc, như vụ
hạt nix Hyundai Vinashin, đòi hỏi cái tầm, cái tâm
và cái uy để giải quyết sòng phẳng, hiệu quả. Là
những cái đang thiếu.
Chọn đối tác đầu tư có nguy cơ cao biến đất nước
mình thành bãi rác là không có tầm. Để dân sống chìm
trong bụi nix suốt 10 năm là không có tâm. Không xử
lý tội phạm môi trường theo đúng luật pháp đất nước
mình là không có uy.
Trên đất nước của các nhà đầu tư nước ngoài, một tàn
thuốc lá vứt xuống lề đường phải chịu phạt theo
luật. Không ai oán trách mà còn tự hào là văn minh.
Vậy 60 tấn chất thải độc hại đổ cạnh đình làng và
trường mẫu giáo, tính sao đây? Lại chỉ xử phạt hành
chính vài chục triệu VND như tỉnh Khánh Hoà đã làm
hồi năm 2007? Lại chỉ "yêu cầu Hyundai Vinashin
nghiêm túc nhìn nhận trách nhiệm" như Bộ Tài nguyên
- Môi trường đã yêu cầu trong phiên họp với Hyundai
Vinashin, cũng trong năm 2007?
Không thể chậm trễ đã đến lúc phải xử theo luật. Bởi
một khi luật pháp quốc gia được thay thế bởi sự nhân
nhượng mang tính cục bộ cũng là khi môi trường tham
nhũng có điều kiện và cơ hội tấn công những người
được giao trách nhiệm quản lý nhà nước. Và bởi hơn
700 tấn hạt nix thải từ Hyundai Vinashin không chỉ
nằm trên đất Khánh Hoà, mà đang nằm trong con mắt
xốn xang mỗi người dân Việt.
(Theo báo lao động)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=30&cate=1
16- Ô nhiễm môi trường nước thải ở “Bến Nộc” xã Tân Định
(Bến Cát): Ngành chức năng cần sớm vào cuộc
Hơn 3 năm qua, nhiều người dân ở quanh khu vực “Bến
Nộc” thuộc ấp 3, xã Tân Định (Bến Cát) bức xúc về
tình trạng ô nhiễm môi trường nước thải do nhà máy
giấy trên địa bàn gây ra.
Và từ lâu dòng nước ở Bến Nộc đã trở thành dòng nước
chết, không còn tôm cá sinh sống...
Theo phản ánh của người dân, trong những ngày cuối
tháng 7, chúng tôi đã có những buổi đi thực tế tại
khu vực Bến Nộc để ghi nhận tình trạng ô nhiễm nguồn
nước thải tại khu vực này. Quả thật đúng như những
gì mà người dân phản ánh, nguồn nước tại Bến Nộc giờ
đây đã bị ô nhiễm nặng nề bởi nước thải từ nhà máy
giấy “ Đ.T” trên địa bàn gây ra. Dòng nước trong
xanh tại bến ngày nào, giờ đây đã được bao phủ bởi
một lớp màn đen kịt, kèm với mùi hôi thối nồng nặc
cứ liên tục xông lên. Những lúc nước lớn là vậy, còn
lúc con nước ròng thì tình trạng ô nhiễm càng nặng
nề hơn, nhất là những lớp màn đen đóng thành cục
trông đến rợn người...
Dù đang tất bật với công việc mưu sinh trên đồng
nhưng khi thấy sự xuất hiện của phóng viên, một số
bà con quanh khu vực đã nhanh chóng tiếp cận chúng
tôi để bày tỏ những nỗi bức xúc mà từ bấy lâu nay
chưa được cấp thẩm quyền giải quyết. Bác Trần Văn
Lô, cho biết: “Trước đây nguồn nước ở Bến Nộc trong
xanh, tôm cá rất nhiều nhưng hơn 3 năm qua, kể từ
khi nhà máy giấy “Đ.T” đi vào hoạt động thì nơi đây
đã trở thành dòng nước chết, không còn tôm cá sinh
sống. Không những thế, cả một cánh đồng lân cận giờ
đây cũng không còn tôm cá do sự ô nhiễm nguồn nước
thải. Điều đáng nói là việc ô nhiễm nguồn nước đã
làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân, nhất là
bà con quanh khu vực Bến Nộc giờ đây không ai còn
nuôi cá được nữa... Từ lâu bà con cũng đã kiến nghị
chính quyền địa phương nhưng đến nay tình trạng ô
nhiễm vẫn chưa được khắc phục...”.
Cùng phản ánh với người dân về tình trạng ô nhiễm
tại Bến Nộc, trưởng ấp 3, xã Tân Định Nguyễn Quang
Thuận, bộc bạch: Hiện nay tình trạng nhà máy giấy
“Đ.T” trên địa bàn thải nước ra bến, rạch làm bà con
không còn canh tác, nuôi trồng thủy sản được nữa. Bà
con đã nhiều lần phản ánh nên phía Ban điều hành ấp
cũng đã xác minh và có báo cáo việc này lên UBND xã.
Và phía UBND xã cũng đã phối hợp với ấp tổ chức xác
minh tình trạng ô nhiễm và lập biên bản để báo cáo
về trên. Vì hiện nguồn nước ở Bến Nộc ô nhiễm ngày
càng nặng nề nên mong rằng ngành chức năng cần phải
nhanh chóng vào cuộc để bà con có điều kiện canh tác
và nuôi trồng thủy sản để cải thiện cuộc sống...
Qua quan sát của chúng tôi, Bến Nộc chỉ nằm cách
sông Thị Tính khoảng trên 100m và là bến dẫn lưu ra
Rạch Mới, sau đó đổ ra sông Thị Tính. Với thực tế ô
nhiễm tại Bến Nộc là một trong những nguyên nhân góp
phần làm nguồn nước ở dòng sông Thị Tính, đoạn chảy
ngang qua địa bàn xã Tân Định ngày càng ô nhiễm nặng
nề.
Tại khu vực Rạch Mới (cách Bến Nộc khoảng 1km),
thuộc ấp 3, xã Tân Định nơi mà trước kia có rất
nhiều hộ nuôi cá nhưng giờ đây gần như tất cả đều bỏ
nghề. Nguyên nhân chính cũng là do nguồn nước ô
nhiễm từ Bến Nộc chảy ra rạch. Tâm sự với chúng tôi,
ông Nguyễn Văn Ngọc, người dân duy nhất còn gắn bó
với nghề nuôi cá, cho biết: “Từ khi có nhà máy giấy
đi vào hoạt động trên địa bàn thì nguồn nước tại
Rạch Mới thường xuyên có bọt bèo... khiến cây cỏ còn
chết, huống chi là cá. Thời gian qua tôi gắn bó với
nghề nuôi cá để cải thiện cuộc sống nhưng cá cứ chết
lai rai riết, vì nguồn nước quá ngột ngạt bởi chất
thải công nghiệp. Cứ mỗi lúc nguồn nước bị ô nhiễm
nặng thì chỉ còn cách là tạt nước muối và vôi xuống
ao cá để giảm mức độ ô nhiễm, chứ không biết phải
làm sao... Hy vọng rằng ngành chức năng sớm có giải
pháp kiểm tra, xử lý những nhà máy tùy tiện xả nước
thải chưa qua xử lý ra môi trường”. Làm gì để khắc
phục tình trạng ô nhiễm trên? Câu trả lời xin dành
cho các cơ quan chức năng.
(Theo bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=34&cate=1
17- 115/154 khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước
thải
Theo kết quả điều tra của Bộ Công Thương, trong số
154 khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động trên toàn
quốc chỉ có 39 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập
trung (chiếm 25,3%), 27 KCN đang xây dựng và 27 khu
đã có kế hoạch xây dựng. Thông tin trên được đưa ra
tại Hội thảo môi trường ngành công nghiệp và thương
mại Việt Nam do Bộ Công Thương vừa tổ chức tại Hà
Nội.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú thừa nhận,
hoạt động bảo vệ môi trường ngành công nghiệp chưa
mang tính chiến lược, chuyên nghiệp, đồng bộ, đặc
biệt là chưa thống nhất với mục tiêu kiểm soát, ngăn
chặn và giảm thiểu phát sinh chất thải từ nguồn mà
mới chỉ mang tính giải pháp tình thế. Hệ thống quản
lý môi trường ngành còn manh mún, chưa có mạng lưới
quản lý thống nhất từ cấp bộ, sở Công Thương tới các
tập đoàn, tổng công ty, công ty và các đơn vị cấp
dưới. Phần lớn các doanh nghiệp đều chưa có phòng
ban chuyên trách về môi trường, cán bộ làm công tác
môi trường đều kiêm nhiệm với chuyên môn từ các lĩnh
vực khác.
Hơn nữa, theo Thứ trưởng, khuôn khổ pháp luật về bảo
vệ môi trường và tính cưỡng chế thực thi pháp luật
về bảo vệ môi trường của Việt Nam nói chung chưa đủ
mạnh, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ
quan có trách nhiệm về bảo vệ môi trường.
ThS. Hồ Trung Thanh - Viện Nghiên cứu Thương mại
cũng cho rằng, phát triển kinh tế và thương mại
trong điều kiện toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại
đang gây áp lực lớn đối với môi trường, tài nguyên
và sức khỏe con người. Nguy cơ ô nhiễm môi trường từ
việc nhập khẩu các thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu,
nguyên liệu phế thải, hàng hóa kém chất lượng không
đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Bên cạnh
đó, vấn đề mở rộng thương mại quốc tế của Việt Nam
đang gặp phải những trở ngại rất lớn trong khả năng
đáp ứng yêu cầu môi trường của các nước nhập khẩu.
Để giải quyết tình trạng này, Bộ Công Thương đang
nghiên cứu xây dựng để ban hành Quy chế bảo vệ môi
trường ngành công nghiệp. Trong đó có nội dung
khuyến khích các DN thành lập quỹ bảo vệ môi trường
chi cho các hoạt động ứng phó sự cố, khắc phục ô
nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường do rủi ro
hoặc thiên tai...
Đồng thời, Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú đề xuất, mỗi
doanh nghiệp phải thành lập ban chuyên trách về môi
trường và có định mức số lượng cán bộ chuyên môn có
năng lực về môi trường. Bộ Tài Chính xây dựng và ban
hành quy định tài chính về việc thành lập và hoạt
động của quỹ môi trường đối với doanh nghiệp.
(Theo Bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=22&cate=1
18- Nan giải bài toán ô nhiễm môi trường ở các khu
công nghiệp
Nước thải y tế tại Bệnh viện đa khoa Sơn La chưa qua
xử lý đã thải trực tiếp ra mương cánh đồng bản Cọ,
xã Chiềng An, thị xã Sơn La, gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng ở khu vực này
Hội nhập WTO là cơ hội để các địa phương thu hút đầu
tư trong và ngoài nước. Các khu công nghiệp, khu chế
xuất sẽ được thành lập nhiều hơn, mở rộng hơn để đón
được nhiều doanh nghiệp hơn. Tuy nhiên, vấn đề
“nóng” đang được quan tâm hiện nay tại các Khu công
nghiệp, khu chế xuất là tình trạng ô nhiễm môi
trường chưa được giải quyết triệt để.
Góp phần phát triển kinh tế đất nước
Tính đến cuối năm 2006, cả nước có 137 khu công
nghiệp (KCN) được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành
lập với tổng diện tích đất tự nhiên 29.063 ha. Trong
đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt
19.413 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên, 83
KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự
nhiên 18.359 ha và 54 KCN đang trong giai đoạn đền
bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng
diện tích đất tự nhiên 10.704 ha. Theo quy hoạch, từ
nay đến năm 2015, dự kiến cả nước sẽ thành lập thêm
115 KCN mới với tổng diện tích 26.443 ha và mở rộng
27 KCN với tổng diện tích 5.559 ha. Đến nay, thu hút
vốn nước ngoài vào KCN đã đạt hơn 20 tỷ USD và nếu
tính cả nguồn vốn trong nước hơn 10 tỷ USD, thì
riêng các KCN đã thu hút khoảng hơn 30 tỷ USD.
Theo TS. Trần Ngọc Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ quản lý
Khu công nghiệp và Khu chế xuất (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư), thành tựu nổi bật nhất của các KCN trong 15 năm
qua là đã hình thành được lực lượng công nghiệp mạnh
cho kinh tế đất nước. Năm 2006, tổng giá trị sản
xuất công nghiệp của các KCN ước đạt 17 tỷ USD, tốc
độ tăng trưởng trung bình từ 25-30%. Giá trị xuất
khẩu của các KCN năm 2005 là 5 tỷ USD, năm 2006 đạt
khoảng 8 tỷ USD và thương hiệu của các doanh nghiệp
trong KCN xuất hiện rất nhiều trên thị trường thế
giới, tạo ra một bộ mặt mới cho sản xuất công nghiệp
của Việt Nam.
Cùng với các KCN, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt
Nam như: cảng biển, đường xá… cũng phát triển theo.
Qua 15 năm, hạ tầng KCN cũng như những vùng xung
quanh KCN phát triển rất nhanh. Chúng ta cũng đã
hình thành được một đội ngũ công nhân có tác phong
công nghiệp và ý thức kỷ luật cao. Từ KCN, qua làm
việc với nước ngoài, đội ngũ lao động đã được cải
thiện rất nhiều, cả về tác phong công nghiệp, cũng
như kỹ năng làm việc và trình độ quản lý. KCN thực
sự là trường đào tạo tốt cho đội ngũ công nhân Việt
Nam.
Giải quyết ô nhiễm môi trường: Bài toán khó
Bên cạnh những mặt mạnh trên đây, việc quy hoạch KCN
còn bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Theo Cục môi
trường, những năm gần đây, các KCN tập trung phát
triển rất nhanh. Nếu như năm 2002, cả nước mới chỉ
có 80 KCN thì đến năm 2005 đã lên tới hơn 120 KCN và
đến cuối năm 2006 là 137 KCN. Các KCN được phân bố
chủ yếu ở các vùng Đông Nam bộ, đồng bằng sông Hồng
và ven biển miền Trung. Hầu hết các KCN được xây
dựng bám đường quốc lộ và nằm sát khu dân cư. Việc
"phố hóa" các đường quốc lộ này đã gây ách tắc giao
thông và ô nhiễm môi trường. Tại hầu hết các KCN,
tình trạng khói, bụi và nguồn nước thải chưa qua xử
lý được thải trực tiếp ra môi trường ngày càng trầm
trọng. Trong khi đó, nhận thức về bảo vệ môi trường
nói chung và môi trường trong các KCN nói riêng của
chính quyền địa phương chưa thực sự được coi trọng
chưa coi môi trường KCN là một nhiệm vụ quản lý nhà
nước, chưa đánh giá được đúng mức tầm quan trọng của
môi trường trong mối quan hệ bền vững giữa hoạt động
sản xuất và sinh hoạt trong KCN cũng như giữa KCN
với khu vực bên ngoài.
Mặt khác, ý thức bảo vệ môi trường của một số chủ
đầu tư xây dựng hạ tầng KCN và nhà đầu tư vào các
KCN còn rất hạn chế. Sự mâu thuẫn lợi ích – chi phí
khi xây dựng hệ thống xử lý chất thải cùng với việc
chưa có cơ chế hỗ trợ thỏa đáng từ phía Nhà nước đã
khiến cho các nhà đầu tư chậm triển khai việc xây
dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung cho KCN. Hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong KCN cũng
chưa hoàn chỉnh. Chưa hình thành hệ thống các quy
định thống nhất về công tác quản lý môi trường trong
KCN theo các loại hình ô nhiễm (rắn, lỏng, khí). Quy
định về thẩm định môi trường đối với các dự án trong
KCN còn chậm được đổi mới và chưa có chế tài mang
tính ràng buộc cao...
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, ô nhiễm môi
trường công nghiệp ngày càng gia tăng và đáng báo
động. Đến nay, có rất ít các chương trình, dự án
tiến hành giám sát ô nhiễm môi trường và thống kê
chất lượng chất thải tại các KCN một cách toàn diện.
Hầu hết những hỗ trợ từ phía Nhà nước chỉ tập trung
vào cải thiện môi trường đầu tư, chưa quan tâm đúng
mức đến hành lang pháp lý về quản lý môi trường tại
các KCN.
Cảnh sát môi trường… sẽ xử lý các điểm nóng
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nói chung
và tại các KCN nói riêng, dự kiến quý I-2007, Bộ Tài
nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Công an ra mắt
lực lượng cảnh sát môi trường (CSMT).
Theo Thứ trưởng Thường trực Bộ Tài nguyên và Môi
trường Phạm Khôi Nguyên, việc bố trí nhân sự, cách
thức triển khai lực lượng CSMT sẽ do Bộ Công an phụ
trách. Trước mắt, lực lượng này sẽ tham mưu giúp Bộ
Công an trong việc tổ chức phối hợp thực hiện nhiệm
vụ quản lý Nhà nước về BVMT giám sát, thực thi, xử
lý hành chính các hành vi vi phạm pháp luật BVMT của
các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các cá nhân có
hành vi vi phạm có tính chất phức tạp, đã bị xử phạt
hành chính mà vẫn tiếp tục vi phạm chủ trì hoặc phối
hợp kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm pháp
luật về nhập khẩu phế liệu, xử lý chất thải đối với
các doanh nghiệp, tổ chức gây ô nhiễm môi trường
điều tra, kiểm tra, khởi tố những tội phạm môi
trường cưỡng chế thi hành pháp luật về môi trường.
Đặc biệt, lực lượng này có quyền kiểm tra đột xuất
việc thực hiện Luật BVMT của các doanh nghiệp.
Về phối hợp giữa hai bên trong việc thành lập và
hoạt động của CSMT, ông Nguyên cho biết, hai Bộ sẽ
tiến hành ký kết liên tịch về việc tổ chức thành lập
lực lượng CSMT. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ hỗ
trợ Bộ Công an danh sách đơn vị gây ô nhiễm, (trước
mắt khoảng 4.000 doanh nghiệp), tình trạng ô nhiễm,
tình trạng vi phạm Luật BVMT, đồng thời tổ chức các
lớp tập huấn nâng cao kiến thức về lĩnh vực môi
trường cho lực lượng CSMT.
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng việc trao cho lực
lượng CSMT nhiều quyền hạn như vậy, liệu có xảy ra
trường hợp cán bộ lợi dụng quyền hạn nhũng nhiễu
doanh nghiệp? Các chuyên gia về môi trường cũng băn
khoăn, mức xử phạt các hành vi vi phạm Luật BVMT quá
nhẹ, cao nhất là 70 triệu đồng, như vậy chưa đủ sức
răn đe đơn vị vi phạm. Vậy, việc thành lập lực lượng
này liệu có giải quyết được vấn đề trên? Bên cạnh
đó, mức độ vi phạm môi trường lại rất trừu tượng,
vậy CSMT căn cứ vào đâu để xử lý?
(Theo môi trường và sức khỏe)
http://www.moitruongxanh.vn/index.php?vs=news&id=1&cate=1
19- Những dòng sông sắp qua đời
13/04/2007 6h09 (GMT+7)
Đọc những kết quả nghiên cứu, bà Helene B. Jordans -
cố vấn của DANIDA (Cơ quan Hỗ trợ phát triển quốc tế
Đan Mạch) - đã phải thốt lên: “Có lần nhìn xuống mấy
con kênh ở TP.HCM, tôi tự hỏi có phải chúng đã
“chết” rồi không. Bây giờ thì các dữ liệu đã chứng
minh điều đó là đúng”.
Những kết quả này vừa được Bộ Tài nguyên - môi
trường công bố tại báo cáo môi trường
Tàu neo đậu trên sông Sài Gòn gây ô nhiễm nặng nề
một đoạn sông này
VN năm 2006, tập trung vào tình hình ba lưu vực sông
Cầu, Nhuệ - Đáy và hệ thống sông Đồng Nai.
Thái Nguyên điêu đứng với sông Cầu
Các tỉnh liên quan tới lưu vực sông Cầu gồm Bắc Kạn,
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải
Dương, Hà Nội. Mật độ dân số 427 người/km2 (cao hơn
hai lần mật độ trung bình cả nước), có 800 cơ sở sản
xuất công nghiệp, 200 làng nghề và 1.200 cơ sở y tế.
Trong các tỉnh có sông Cầu đi qua, Thái Nguyên bị ô
nhiễm rõ rệt, đặc biệt là đoạn sông chảy qua thành
phố. Nước sông đục, có màu đen nâu và bốc mùi. Hoạt
động sản xuất công nghiệp là thủ phạm chính. Nước
thải của Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đặt ngay trong
thành phố xả thẳng vào các nhánh nhỏ dẫn ra sông
Cầu, gồm các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng, độ
kiềm cao. Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên chảy
vào con sông này với lưu lượng khoảng 1,3 triệu
m3/năm và “ban tặng” cho dòng sông nhiều chất ô
nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và cyanure.
Ngoài sản xuất công nghiệp, các hoạt động nông
nghiệp cũng góp phần gây ô nhiễm nghiêm trọng. Lưu
vực sông Cầu tiếp nhận thêm ít nhất 180.000 tấn phân
hóa học và 1.500 tấn thuốc trừ sâu mỗi năm!
Nước thải sinh hoạt hại sông Nhuệ - Đáy
Rác ở chân cầu sông Tô Lịch (Hà Nội)
Sông Nhuệ - Đáy liên quan đến Hà Nội, Hà Tây, Hà
Nam, Hòa Bình, Ninh Bình, Nam Định. Mật độ dân số
874 người/km2. Có trên 4.000 cơ sở sản xuất công
nghiệp, 458 làng nghề và 1.400 cơ sở y tế.
Với lưu vực sông Nhuệ - Đáy, báo cáo đưa ra khẳng
định: các sông nội thành Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm
trọng khi mọi thông số đo được đều vượt nhiều lần
tiêu chuẩn cho phép. Các con sông khác thuộc lưu vực
này như sông Châu Giang, sông Tích, sông Hoàng Long,
sông Đào đều bị ô nhiễm. Đặc trưng ô nhiễm của lưu
vực sông này là nước thải sinh hoạt đóng góp tỉ lệ
lớn nhất, trong đó thành phố Hà Nội đóng góp 54%
lượng nước thải sinh hoạt toàn lưu vực.
Công nghiệp & nuôi trồng thủy sản “giết” sông Đồng
Nai
Hệ thống sông Đồng Nai ảnh hưởng đến Đắc Nông, Lâm
Đồng, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận,
Tây Ninh, Bình Dương, TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Long An. Mật độ dân số 269 người/km2. Có hơn 9.000
cơ sở sản xuất công nghiệp, 491 làng nghề và 1.633
cơ sở y tế.
Do trải rộng trên nhiều tỉnh, hệ thống sông Đồng Nai
chịu tác động cùng lúc từ nhiều nguồn nên phần hạ
lưu của nhiều sông trong lưu vực đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng, thậm chí có đoạn trở thành sông chết.
Nước sông Đồng Nai, đoạn từ Nhà máy nước Thiện Tân
đến Long Đại có hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn cho
phép. Hệ thống sông Sài Gòn chủ yếu bị ô nhiễm chất
hữu cơ với dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng ở một số
nơi. Chất lượng nước của các con sông khác như sông
Bé, Đa Nhim - Đa Dung, Vàm Cỏ, nước ở các ao hồ,
kênh rạch trên lưu vực... đều bị ô nhiễm nặng.
Nghiêm trọng nhất là sông Thị Vải đã có đoạn bị chết
kéo dài từ sau khu vực hợp lưu suối Cả - Đồng Nai
đến Khu công nghiệp Mỹ Xuân.
Tác nhân chính gây ô nhiễm nước trong lưu vực là
nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp và các
khu công nghiệp, khu chế xuất. Phần lớn đều xả trực
tiếp vào nguồn nước. Một đặc trưng khác về tác nhân
ô nhiễm là hoạt động nuôi trồng thủy sản trong lưu
vực.
* Kể từ kế hoạch năm năm (giai đoạn 2006-2010), bên
cạnh hệ thống chỉ tiêu kinh tế và xã hội sẽ luôn có
hệ thống chỉ tiêu môi trường. Và theo qui định của
Bộ Tài nguyên - môi trường, cứ năm năm một lần phải
có báo cáo hiện trạng môi trường chung và mỗi năm
phải có báo cáo chuyên đề.
* Bà Helene B.Jordans (DANIDA): “Ngăn chặn ô nhiễm
luôn luôn rẻ hơn đi dọn dẹp hậu quả của ô nhiễm”.
* Bà Nguyễn Hội Chân - quyền giám đốc quốc gia của
World Bank (Ngân hàng Thế giới): “Trong tiếng Việt,
từ nước và sông là một phần quan trọng của từ đất
nước. Việc bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước
không chỉ quan trọng cho quá trình phát triển của
đất nước mà còn cho con người VN”.
(Theo Tuổi trẻ)
http://www.vtc.vn/xahoi/nhung-dong-song-sap-qua-doi/155102/index.htm
20- Những dòng sông... chờ chết!
01/6/2007
Báo Cần Thơ,
Đối với cư dân vùng đồng bằng sông nước, mỗi con
kinh con rạch, mỗi ngọn xẻo dòng sông đều có giá
trị, ý nghĩa riêng, cả giá trị tinh thần. Tiếc rằng
trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của quá trình
đô thị hóa, công nghiệp hóa, nhiều dòng sông đã biến
dạng, ô nhiễm, các loài thủy sản cũng không còn chốn
dung thân...
Nỗi niềm những dòng sông
Nền công nghiệp nước ta đang phát triển, nhưng môi
trường, nhất là môi trường nước, ngày càng bị ô
nhiễm nặng nề. Khu vực ĐBSCL hiện có trên 12.000
doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất công nghiệp,
trong số này có hàng trăm cơ sở chế biến thủy sản,
mỗi năm thải ra trên 40 triệu m3 nước thải công
nghiệp, cộng với hàng trăm triệu m3 nước bẩn từ các
khu dân cư thải ra. Ngoài ra, còn phải kể đến lượng
chất thải không nhỏ từ những bè cá ở đầu nguồn và
các cù lao dọc theo sông Hậu, sông Tiền. Tai hại lớn
nhất là việc khai thác quá mức nguồn lợi nông -thủy
sản, dẫn đến việc sử dụng bừa bãi các loại thuốc,
hóa chất, chế phẩm sinh học, đã làm cho nguồn nước
ngày càng nhiễm bẩn. Theo một bài báo đăng trên tạp
chí Khoa học Cần Thơ (số 2/2007), trong sản xuất
hàng năm các tỉnh ĐBSCL đã sử dụng khoảng 2 triệu
tấn phân bón hóa học gần 500.000 tấn thuốc bảo vệ
thực vật, gây ra sự tồn dư hóa chất độc hại, ngày
đêm ngấm vào lòng đất hoặc tuôn chảy ra sông rạch
một cách vô tội vạ.
Ở nông thôn, tình trạng ô nhiễm nước cũng đang báo
động, trầm trọng nhất là ở các làng nghề. Kết quả
điều tra, khảo sát gần đây của Bộ Khoa học-Công nghệ
cho thấy: 100% mẫu nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn
cho phép. Các chỉ số chất cặn lắng, hòa tan, vi sinh
vật tại các sông rạch cũng đều cao hơn từ 2 đến 3
lần, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.
Theo kết quả khảo sát của Chương trình quy hoạch môi
trường đô thị Việt Nam mới đây, môi trường ở các đô
thị vùng ĐBSCL ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, nhất
là tại TP Cần Thơ. Cụ thể, rạch Cái Khế (TP Cần Thơ)
gần đây phải oằn vai gánh lấy 2.000 m3 nước bẩn cùng
với vô số rác thải từ khu Trung tâm thương mại Cái
Khế tuôn ra. Tại Cồn Sơn (quận Bình Thủy), nơi nổi
tiếng là cây lành, trái ngọt, nước trong, vậy mà bây
giờ nhiều gia đình phải xài cây nước vì đất cồn bị
“móc ruột”, hơn 1/3 diện tích cây xanh bị triệt hạ
để nhường chỗ cho các ao cá, nước thải tha hồ chảy
ra sông rạch. Nhiều khu công nghiệp đang hoạt động
nhưng cũng chưa có hệ thống xử lý nước thải an toàn,
phần lớn các chất bẩn, cặn bã, phụ phế phẩm đều xả
trực tiếp xuống các sông rạch. Trong khi ở Cà Mau và
Cần Thơ còn tồn tại 11.000 căn nhà cất ven sông. Như
thế, mỗi ngày các dòng sông phải đón nhận bao nhiêu
chất thải? Thử hỏi các dòng sông có chịu đựng nổi
hay không?
Hiểm họa ô nhiễm môi trường
Hiện nay, trên một số sông rạch, nước đã chuyển sang
màu đen, mức độ ô nhiễm đã vượt quá nhiều lần so với
tiêu chuẩn cho phép. Theo Cục Bảo vệ môi trường,
tính chung cả nước hiện mới thu gom quản lý được
70-80% lượng rác thải đô thị. Sự khai thác quá mức
và sự can thiệp thô bạo của con người đối với dòng
sông đã khiến cho “bà mẹ thiên nhiên” kiệt sức và
già trước tuổi.
Chúng ta đang đối mặt với nhiều nguy cơ gây bệnh
nguy hiểm do môi trường nước, đất và không khí bị ô
nhiễm. Cục Y tế dự phòngViệt Nam đưa ra khuyến cáo:
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta đã gia tăng
tới mức độ đáng lo ngại. Theo đánh giá của các
chuyên gia, chất thải công nghiệp và chất thải y tế
đổ ra sông là mối hiểm họa khôn lường, nhất là đối
với cư dân ở gần khu công nghiệp, bãi rác, ao tù và
nơi chôn lấp chất thải có mùi hôi thúi, nhiều ruồi
muỗi. Các loại bệnh như: đau mắt, bệnh đường hô hấp,
bệnh ngoài da, tiêu chảy, dịch tả, thương hàn ...
phần lớn đều xuất phát từ đây.
Tình trạng ô nhiễm nước sông, nước ngầm do hoạt động
của con người ngày càng gây ra hậu quả nghiêm trọng,
nhất là các loại thuốc trừ sâu và hóa chất, các chất
hữu cơ, các vi sinh vật gây bệnh. Đáng chú ý nhất là
các loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn và ký sinh trùng
gây ra bệnh tả, lỵ, thương hàn... một số kim loại
còn có khả năng gây ra bệnh ung thư. Trong ngày Nước
thế giới 22-3-2007, Tổ chức Giáo dục Khoa học Văn
hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã cho biết: Mỗi ngày có
khoảng 14.000 người chết vì các bệnh do thiếu nước
sạch và nhà vệ sinh. Đó chính là những con số biết
nói.
Hãy cứu lấy những dòng sông!
Chúng ta có diễm phúc được sống trên những vĩ độ của
màu xanh, quê hương của những cánh rừng bạt ngàn và
những dòng sông tươi mát. Trong khi nhiều nước Trung
Đông phải xây dựng nhà máy cất nước ngọt hoặc mua
nước ngọt từ các nơi khác thì chúng ta lại được bà
mẹ của thiên nhiên hết lòng ưu đãi. Tại sao mọi
người không bảo vệ sự trong lành cho những dòng
sông?
Đã đến lúc chúng ta cần phải kiên quyết quy hoạch
lại vùng nuôi trồng thủy sản và đầu tư cho hệ thống
xử lý nước thải công nghiệp; ưu tiên xử lý các loại
hóa chất độc hại, bảo vệ nguồn nước sinh hoạt và tổ
chức kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân dân ở các
khu vực môi trường bị xuống cấp.
Ở những nước ít quan tâm đến môi trường mà chỉ lo
cho đời sống kinh tế, một khi thiên tai, dịch bệnh
xảy ra còn nghiêm trọng và tốn kém hơn gấp nhiều
lần. Kinh nghiệm cho thấy, các xí nghiệp sản xuất
nếu chỉ chạy theo lợi nhuận mà không nghĩ đến việc
bảo vệ môi trường, tiền nộp thuế cho Nhà nước không
bù đắp nổi những thiệt hại về vệ sinh môi trường, về
bệnh tật và tính mạng con người. Trường hợp như
“làng ung thư” chẳng hạn. Có điều đáng suy nghĩ là
từ khi Luật Môi trường ra đời cho đến nay, chúng ta
chưa hề thấy có nhà máy, xí nghiệp nào bị buộc phải
đóng cửa vì gây ô nhiễm môi trường(?).
Đã đến lúc chúng ta cần phải kiên quyết khắc phục,
áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp cho một môi trường
sạch. Trong công tác giáo dục, nhà trường cần tăng
cường nhắc nhở học sinh nâng cao hơn nữa ý thức vệ
sinh môi trường và có thái độ ứng xử tốt đối với
những dòng sông. Mỗi người hãy tự coi việc ném rác,
đổ chất thải hoặc quăng ném xác súc vật xuống sông
rạch là một điều xấu hổ và đáng trách. Việc cứu lấy
những dòng sông không chỉ của riêng ngành môi
trường, mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa mọi tổ
chức, mọi công dân...
http://72.14.235.104/search?q=cache:Xi9mL7owROwJ:www.vnxanh.com/index.php%3Fid%3D380%26lg%3Dvn%26start%3D24+nh%E1%BB%AFng+d%C3%B2ng+s%C3%B4ng+%C3%B4+nhi%E1%BB%85m&hl=vi&client=firefox-a&gl=vn&strip=1
21- Cuộc sống khốn cùng bên dòng sông 'chết'
Từ một dòng sông nên thơ và trù phú, Thị Vải giờ đây
nước đen ngòm, hôi thối. Cá tôm không còn, dân làng
chài chỉ còn biết đi làm thuê. Chuyện "Vedan bị bắt
quả tang xả thải" đã làm nhiều người dân hỉ hả.
> 'Vedan kiếm lời trên sức khỏe người dân từ nhiều
năm'
Những ngày này dân 3 ấp 1A, 1B, Long Phú, thuộc xã
Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai - nơi
chịu ảnh hưởng nặng nề từ khúc sông ô nhiễm nhất của
Thị Vải, sát bên nhà máy Vedan - gặp nhau là bàn
chuyện "Vedan bị bắt quả tang xả nước thải ra sông".
Hễ thấy có người cầm máy ảnh, nghĩ là báo chí, họ
đều níu lại, nhiệt tình kể những nỗi niềm mà họ ấp ủ
từ hơn 10 năm nay.
Hai vợ chồng ngư dân tại tổ 5, ấp 1A nhớ lại bến
sông xưa giờ đã tiêu điều. Ảnh: Thiên Chương.
Anh Tuấn, ngụ ở tổ 5, không ngại lấy thuyền đưa
chúng tôi ra sông, nơi mà theo anh có thể thấy rõ
nhất "cái sự chết" của con sông này. Tới khu vực gần
nhà máy Vedan, suốt một quãng dài khoảng gần 10 km,
nước đặc quánh một màu đục đen, không thấy sóng gợn,
chỉ có bọt sủi, nhờn nhợn mùi hôi.
Anh Tuấn nhắc chúng tôi không nên đưa tay chạm nước
vì ngay cả dân địa phương, khi bất đắc dĩ lắm lội
sông là lập tức da bị ngứa ngáy và nổi mẩn đỏ. “Chỉ
cần thò tay hoặc bước chân xuống nước, móng tay chân
sẽ đen và bóng như dính nhớt”, anh Nguyễn Văn Lớn,
vốn sinh sống bằng nghề chài lưới tại tổ 5, ấp 1A,
nói.
Xế chiều, gió thổi mùi hôi thối từ phía nhà máy qua
khu dân cư xã Phước Thái -cách nhà máy Vedan 300-500
m. "Mùi hôi của rỉ mật, sinh phẩm lên men từ cống xả
của nhà máy Vedan, nước đen đặc với mùi khăn khẳn
của sông khiến chúng tôi không chịu nổi. Ở mãi có
lúc quen, nhưng vào ngày trời mưa, mùi nặng, khó thở
đến mất ngủ luôn", bà Em, người đã sống lâu năm tại
đây cho biết.
Bà Em cũng cho hay, ở ấp bà gần trăm nóc nhà, từ
người lớn đến trẻ con ai cũng bị viêm mũi, viêm
xoang. Đứa cháu mới tháng 6 tháng tuổi của bà cũng
đang điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1 vì chứng viêm
đường hô hấp.
Qua câu chuyện kể với chúng tôi, trong ký ức của hầu
hết người dân con sông quê họ trước đây vốn rất nên
thơ và trù phú. “Tôi từng hãnh diện nói với các con
rằng, chưa có dòng sông nào đẹp và trù phú như Thị
Vải quê mình. Không ngờ sau 15 năm, nơi tôi ngày xưa
ngụp lặn cùng chúng bạn mò cua bắt ốc, lại trở nên
hôi hám và kiệt quệ đến thế”, chị Lý Thị Út vừa trở
về thăm quê sau 10 định cư tại Thái Lan, nói.
Nước sông đục đen vì ô nhiễm. Ảnh: Thiên Chương.
Cùng tâm trạng, anh Nguyễn Hữu Thành, Bí thư kiêm
chủ tịch hội đồng nhân dân xã Phước Thái bồi hồi:
“Đó là con sông quê đẹp nhất mà tôi từng nhớ, như
trong bài thơ Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh
vậy".
Còn anh Trung, làm nghề lái xe ôm, thì mộc mạc kể
rằng: “Xưa dân xã toàn đánh bắt, mang cá đi bán, chỉ
ăn những loại cá ngon nhất thôi”. Tiếp lời anh, ông
Sáu Hải, người có hơn 50 chung sống bằng nghiệp chài
lưới kể lại: "Cá tôm bát ngát, biển có loại nào, Thị
Vải chúng tôi có loại đó. Không cần đi đâu xa, chỉ
cần bước chân xuống bến 10 phút, nghêu sò nhậu không
xuể".
Giọng kể hào hứng của ông Sáu chợt nghẹn lại bởi một
tiếng thở dài. Ông nói đó là trước kia. "Còn bây
giờ, sông chết vì ô nhiễm, cá tôm không còn dân đành
phải đi làm mướn làm thuê", ông nói.
Hầu hết những người dân ở đây đều khẳng định tình
trạng sông ô nhiễm nặng, hôi thối, cá chết có nguyên
nhân từ nhà máy Vedan. Nhà máy này hoạt động năm
1994 thì chỉ một năm sau, nước bắt đầu chuyển màu và
có mùi hôi. "Các loài thủy sản lần lượt chết trắng
mặt nước. Kể cả loài cua, ốc, vốn chịu đựng giỏi thì
chỉ sau vài năm đã không còn con nào”, anh Sơn,
người có 30 năm sinh sống tại địa phương nói.
Ông Nguyễn Hữu Thành, bí thư xã Phước Thái, cho
biết, hiện có khoảng 500 hộ dân đã bị mất nghề đánh
bắt thủy sản do sông bị ô nhiễm. Nhiều hộ chuyển
sang chăn nuôi thủy sản. Nhưng nghề này cũng luôn
gặp khó khăn từ môi trường.
"Con sông này đã ô nhiễm đến mức nước dù xử lý thật
kỹ song tôm giống đổ vào mười thì đã chết đến bảy”,
một ngư dân nói. Cũng theo anh này, trước khi Vedan
hoạt động, mỗi năm anh thu hoạch khoảng 600 triệu
đồng từ tiền nuôi tôm, nhưng nay chỉ còn khoảng 100
triệu. Đó là chưa kể đến có ngày lúc công ty Vedan
xả thải gặp triều lên, nước tràn vào đìa tôm thì xem
như trắng tay.
Sau 1 buổi kéo lưới, ngư dân về tay không. Ảnh:
Thiên Chương.
Nhiều hộ dân khác trong xã như Chín Tòng, Tư Thông,
Sáu Bé vốn ngày xưa từng là chủ ruộng tôm, có thuyền
đánh cá loại lớn trị giá hàng trăm triệu, nay trở
thành sạt nghiệp. Nhiều gia đình đông con thậm chí
phải đưa nhau đi làm thuê, vác mướn hoặc lái xe ôm
kiếm sống qua ngày.
“Biết là khổ sở vì ô nhiễm, biết người ta lấy mất
nguồn lợi kinh tế và sức khỏe nhưng không thể kiện
cáo hàng ngày bởi chúng tôi còn phải chạy kế sinh
nhai. Năm 1995, trước phản ứng của chúng tôi, Vedan
có giải quyết đền bù thiệt hại cho việc gây ô nhiễm
nhưng hộ nào có tàu đánh lớn hoặc diện tích nuôi tôm
lớn cũng chỉ nhận được 3 triệu đồng. Người chài lưới
nhỏ như tôi chỉ nhận 900 nghìn đồng, ăn vài tuần là
hết”, anh chín Ráy, một ngư dân sống tại ấp Long Phú
nói.
Không biết kêu ai, người dân đành chấp nhận sống
chung với ô nhiễm và nhớ về những kỷ niệm đẹp về bến
sông xưa.
http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2008/09/3BA06930/
22- Hoài Hà, dòng sông bị bức tử
28-09-2008 23:47:31 GMT +7
Mặt nước sủi bọt của sông Sa Ánh, một nhánh lớn của
Hoài Hà
Cách nay 4 năm, một chương trình làm sạch Hoài Hà -
một dòng sông chết vì ô nhiễm chất thải công nghiệp
ảnh hưởng đến 150 triệu dân thuộc 4 tỉnh Hà Nam, An
Huy, Giang Tô và Sơn Đông (Trung Quốc) - đã kết thúc
một cách lặng lẽ sau 10 năm thực hiện. Cho thấy cứu
một dòng sông ô nhiễm là một nhiệm vụ bất khả thi
nếu mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được đặt cao
hơn môi trường và sức khỏe nhân dân
Ngày 26-8-2007, Ủy ban Bảo vệ môi trường và tài
nguyên Quốc hội Trung Quốc (TQ) đã công bố bản báo
cáo về tình trạng ô nhiễm chất thải công nghiệp ở
hai con sông Hoài Hà và Liêu Hà. Đây là hai con sông
bị ô nhiễm nặng đe dọa 1/6 dân số TQ về mặt an toàn
nước, theo ông Mao Nhược Bái, chủ nhiệm ủy ban này.
Ô nhiễm nặng nề
Hoài Hà - nằm giữa Dương Tử Giang và Hoàng Hà - là
con sông đứng hàng thứ ba trong số 7 con sông lớn
của TQ; dài hơn 1.000 km và nếu tính luôn các sông
nhánh thì tổng cộng chiều dài lên đến 5.500 km. Năm
1994, Hoài Hà được đánh giá bị ô nhiễm chất thải
công nghiệp cấp 5 là cấp nhiễm độc cao nhất, sản
sinh nhiều làng ung thư cần phải làm sạch. Đó là lý
do ra đời dự án kiểm soát ô nhiễm trên sông Hoài Hà.
Dự kiến trong 10 năm, dự án này sẽ nâng cấp chất
lượng nước trên toàn lưu vực Hoài Hà chủ yếu ở tỉnh
An Huy và Sơn Đông.
Trong 10 năm ấy, Chính phủ TQ đã đầu tư 60 tỉ nhân
dân tệ (khoảng 121.910 tỉ đồng) nhưng kết quả thật
đáng buồn. Theo báo cáo của ủy ban nói trên, quá nửa
các trạm đo đạc mức ô nhiễm dọc theo Hoài Hà cho
thấy nước sông vẫn ở mức ô nhiễm cấp 5 là mức ô
nhiễm cao nhất, nghĩa là không có sinh vật nào có
thể sống sót, con người cũng không dám chạm nước và
đương nhiên không thể dùng để tưới tiêu. Với kết quả
này, ô nhiễm trên sông Hoài Hà đe dọa cả dự án dẫn
nước Nam-Bắc từ Dương Tử Giang đến vùng đất khô cằn
ở miền Bắc TQ thông qua lưu vực Hoài Hà.
Ông Mao Nhược Bái cho biết riêng tại thành phố Chu
Khẩu thuộc miền Trung tỉnh Hà Nam, có đến 15/23 nhà
máy đổ nước thải độc hại vào sông Hoài Hà một cách
lén lút.
Hoài Hà vẫn đang than khóc
Theo dự án chống ô nhiễm trên sông Hoài Hà, tại tỉnh
An Huy, sẽ đầu tư xử lý nước thải ở 8 đô thị. Các
hạng mục đầu tư bao gồm xây dựng các trạm bơm, hệ
thống cống phụ, liên thông cống nhà ở. Ngoài ra, ở
hai thị trấn Quốc Dương và Lộc An sẽ xây dựng nhà
máy xử lý nước thải. Trung tâm kiểm tra môi trường
sẽ được trang bị máy móc hiện đại, tăng cường đội xe
lấy mẫu. Các phòng thí nghiệm cấp đô thị cũng được
hỗ trợ kỹ thuật, nâng cấp quản lý và đào tạo nhân
lực. Tại tỉnh Sơn Đông, ba đô thị và hai huyện Từ
Huyện, Nhật Triều cũng được đầu tư các hạng mục như
trên.
Năm 2004, đáng lý phải có một cuộc tổng kết thành
quả hoành tráng như ngày phát động dự án nhưng, theo
báo chí TQ, mọi việc diễn ra không kèn không trống.
Đầu năm 2004, Tân Hoa Xã cử một tổ điều tra gồm 3
phóng viên thực hiện một chuyến đi 30 ngày dọc theo
hai bờ Hoài Hà. Họ phỏng vấn các nông dân và tự mình
kiểm nghiệm tác hại của nước sông ô nhiễm. Sau đó,
một bài điều tra dài đã được đăng trên trang web Tân
Hoa Xã có tựa đề: Sau 10 năm thực hiện dự án chống ô
nhiễm, Hoài Hà vẫn đang than khóc.
Bài báo viết: “Cuộc khảo sát phát hiện mức ô nhiễm
trên sông Hoài Hà chẳng những không giảm mà còn tăng
lên. Các chỉ số quan trọng về ô nhiễm đều đạt hoặc
vượt những kỷ lục lịch sử. Chất lượng nước của 60%
đất đai vùng lưu vực Hoài Hà đều bị ô nhiễm cấp 5.
Các chất ô nhiễm đã trực tiếp thấm vào đất và hiện
nay ngay các mạch nước ngầm ở độ sâu 40 m cũng bị
nhiễm bẩn. Tình trạng ô nhiễm đã ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống 150 triệu dân”.
Cá chết vì ô nhiễm trên một con sông nhánh của Hoài
Hà
Càng chống càng lún
Các phóng viên Tân Hoa Xã cho biết thêm từ năm 2000,
mức ô nhiễm nước Hoài Hà tiếp tục tăng lên. Lấy ví
dụ như COD, một chất gây ô nhiễm phổ biến và độc
hại, bắt đầu từ năm 2000 tăng đều đặn 10% mỗi năm.
Năm 2003, 1.232.000 tấn COD đã được đổ xuống sông.
Trong khi đó, theo dự án chống ô nhiễm, năm 2000,
chất COD phải giảm xuống còn 368.000 tấn.
Nói chung, năm 2003 đã có tổng cộng 4,369 tỉ tấn
chất thải không qua xử lý đổ thẳng xuống sông.
Amonia-nitrate, một chất gây ô nhiễm khác, cũng tăng
lên. Năm 2003, đã có 121.000 tấn amonia-nitrate đổ
thẳng xuống Hoài Hà, tăng 30% so với năm 1998.
Tại sao dự án chống ô nhiễm ở Hoài Hà thất bại? Theo
ông Phan Nguyệt, Phó Giám đốc Cơ quan Bảo vệ môi
trường nhà nước (SEPA) ở Bắc Kinh, có 4 nguyên nhân:
1. Các quan chức địa phương không đếm xỉa gì đến vấn
đề môi trường khi lên kế hoạch phát triển kinh tế.
Ông nói: “Vì tăng trưởng GDP, họ sẵn sàng cấp phép
cho các dự án gây ô nhiễm nặng”.
2. Kinh phí cấp không đầy đủ. Dự án chống ô nhiễm ở
Hoài Hà yêu cầu phải có 60 tỉ nhân dân tệ nhưng tính
đến giữa năm 2004, ban quản lý dự án chỉ nhận được
33%. Theo kế hoạch, phải đưa vào hoạt động 85 nhà
máy xử lý nước thải vào cuối năm 2005 nhưng kế hoạch
này phá sản vì thiếu tiền.
3. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nặng như giấy,
hóa chất, nước giải khát, dệt và thực phẩm vẫn là
các ngành công nghiệp trụ cột nuôi sống các tỉnh mà
Hoài Hà chảy qua. Các ngành này đã đổ xuống sông
78,4% COD và 92,2% amonia-nitrate.
4. Ngoài ô nhiễm công nghiệp, ô nhiễm nông nghiệp
cũng nghiêm trọng không kém và ngày càng gia tăng.
Nông dân đã đổ thẳng 70% phân bón và thuốc trừ sâu
xuống Hoài Hà và các sông nhánh.
VĂN ANH
http://www.nld.com.vn/tintuc/the-gioi/ho-so-tu-lieu/240936.asp |