Nhôm (aluminum) là kim loại nhẹ, ngày càng chiếm vị trí
quan trọng kinh tế thế giới. Năm 1991 kinh tế thế giới tiêu thụ khoảng 24
triệu tấn nhôm, mười lăm năm sau (2005) là 63 triệu tấn, hiện nay là xấp
xỷ 90 triệu tấn (số tròn); xu thế này sẽ tiếp tục duy trì, do có nhiều nền
kinh tế mới nổi lên – đặc biệt là Trung Quốc –, và do nhôm ngày càng thay
thế nhiều loại vật liệu và kim lọai khác nhờ tiến bộ khoa học công nghệ và
kỹ thuật. Tuy nhiên thị trường nhôm dồi dào, vì nguồn cung rất phong phú.
Trữ lượng quặng bauxite trên thế giới rất lớn (có thể
là hàng trăm tỷ tấn) so với nhu cầu khai thác và khả năng khai thác, lại
nằm rải rác nhiều nơi trên thế giới, do đó dù được coi là quý, nhưng nhôm
không phải là kim loại hiếm. Tương tự như mặt hàng dầu lửa, giá nhôm cũng
dao động theo cung cầu và theo biến động của tình hình kinh tế thế giới;
tháng 3-2008 giá nhôm trên thị trường thế giới là 3380 USD/tấn, đến tháng
10-2008 chỉ còn 2850 USD/tấn.
Mặc dù trong một hai thập kỷ gần đây sản xuất nhôm trên
thế giới tăng đều trong biên độ từ 5 – 10%/năm, song bản đồ sản xuất nhôm
(hiểu theo nghĩa nơi có lò luyện nhôm - smelters) trên thế giới trong vòng
hai, ba thập kỷ nay có nhiều thay đổi lớn: sản xuất giảm dần ở Tây Âu, một
số nơi ở Bắc Mỹ và Bắc Thái Bình Dương, để chuyển mạnh vào các vùng kém
phát triển hơn như Úc, Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc, Ấn Độ... Nguyên
nhân cơ bản của sự chuyển dịch này là giá thành và vấn đề bảo vệ môi
trường.
Từ sự thay đổi nói trên của bản đồ sản xuất nhôm trên
thế giới trong nửa thế kỷ trước, người làm chính sách của các tập đoàn,
nhà nước... và các nhà nghiên cứu đã tổng kết:
Để đi tới quyết định có sản xuất nhôm hay không, cần
đáp ứng thỏa đáng những điều kiện sau đây – xếp theo thứ tự quan trọng
của các yếu tố:
có nguồn điện dồi dào,
có nguồn nước dồi dào,
nơi khai thác có vị trí và địa thế hoang vắng thuận
lợi cho giải quyết thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn
đỏ),
có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải,
có trữ lượng bauxite dồi dào với hàm lượng cho phép
đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm, nếu
không giá thành sẽ quá đắt),
có nguồn lao động rẻ.
(Tham khảo thêm : [1] đến [6] trong danh sách Tài
liệu tham khảo
Bản đồ
các vùng giàu quặng bauxite trên thế giớii
Ngoại trừ vùng mỏ phong phú của Nga ở miền Trung Uran
và cũng là nơi sản xuất chính về nhôm của quốc gia này và một vài nơi
trong các nước CIS cũ (Liên bang các quốc gia độc lập – bao gồm Nga và một
số nước trong Liên Xô cũ), việc khai thác bauxite ở châu Âu hầu như đóng
cửa từ cách đây nhiều thập kỷ. Trên thực tế chỉ còn lại một số mỏ nhỏ và
đang thu hẹp dần ở Rumani, Hy Lạp, và vùng Bankan... Trước đó nhiều nước
Tây Âu đã lần lượt đóng cửa các mỏ than và quặng sắt, mặc dù còn trữ lượng
lớn, song đã mất lợi thế so sánh trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Người cung cấp quặng sơ chế alumina cho công nghiệp
nhôm ở châu Âu hiện nay chủ yếu là Úc, Nam Mỹ và châu Phi. Trong vòng hai
thập kỷ nay, sản xuất nhôm của châu Âu (trừ Nga) tăng không đáng kể, thậm
chí có xu hướng giảm mạnh như ở các nước Đức, Pháp, Ý, riêng ở Anh từ
nhiều năm nay không có số liệu thống kê (có lẽ hoàn toàn đóng cửa). Sản
lượng nhôm của các nước Tây Âu 18 tháng vừa qua tiếp tục giảm đi 0,35
triệu tấn, dự báo trong vòng một năm tới sẽ giảm tiếp 0,3 triệu tấn. Trừ
các nước trong khối CIS cũ, sản xuất nhôm của châu Âu hiện nay đạt mức
khoảng 8 triệu tấn/năm. Bắc Mỹ đã kết thúc thời đại hoàng kim công nghiệp
luyện nhôm của mình vào khoảng đầu thập kỷ 1970, hiện nay sản xuất dừng
lại ở mức khoảng 7 triệu tấn/năm.
Sản xuất
nhôm (aluminum) trên thế giới năm 2006:
Nguồn: European
Aluminum Association Report – 2008
Về điện cho sản
xuất nhôm
Để sản xuất 1 tấn nhôm từ quặng sơ chế alumina
cần khoảng 14.500 kwh đến 15.000 kwh để điện phân, nghĩa là tương đương
với lượng điện cho 1 gia đình trung bình dùng trong 20 năm trời!
Riêng khối lượng điện hàng năm tiêu thụ cho sản xuất nhôm hiện nay trên
thế giới còn lớn hơn hoặc tương đương với tòan bộ số lượng điện đang tiêu
thụ hàng năm của cả châu Phi.
Giá CIF quặng sơ chế alumina loại (12% bụi ceria) tại
cảng Trung Quốc có lúc lên tới khoảng 447 - 540 USD/tấn, nay giảm nhiều
(350 – 400 USD/tấn). Giá 1MWh (1 triệu watt-giờ) ở Trung Quốc là 50 USD
(nghĩa là 5 cent 1 Kwh). Như vậy riêng chi phí cho 1 tấn nhôm mất khoảng
1100 USD tiền nguyên liệu và 700 – 800 USD tiền điện, chưa kể chi phí sản
xuất. Có thể nói không cường điệu lắm: đối với một số nước (điển hình là
Iceland) việc làm ra nhôm để bán, thực chất một phần là cách để bán điện
(chiếm 30% giá thành, thậm chí có thể hơn nữa tùy theo giá điện mua
được!).
Chuyên gia của những tập đoàn sản xuất nhôm lớn nhất
nhì thế giới như RUSAL, ALCOA, ALCAN... đưa ra ý kiến: nếu không có giá
điện khoảng 35 đến 40 USD/1MWh (3,5 – 4 cent/Kwh) với đủ 6 yếu tố để làm
nhôm như đã nêu trên, thì không thể nói là có điều kiện lý tưởng để sản
xuất nhôm (Trung Quốc hiện đang sản xuất nhôm với giá 5 cent/kwh). Chính
thực tế này cắt nghĩa tại sao sản xuất nhôm tại các nước Tây Âu đang giảm,
phần còn được duy trì chủ yếu là để phục vụ công nghiệp sản xuất nhôm cao
cấp, hợp kim, nhất là các hợp kim cao cấp. Ngay tập đoàn ALCOA hiện nay có
½ công suất sản xuất nhôm tại Texas phải đóng cửa vì không chịu nổi giá
điện. Ảrập Thống nhất Emirat (EAU) đang dọa cắt hơi đốt để sản xuất điện
cho lò luyện nhôm lớn nhất thế giới (trị giá 5 tỷ USD) của tập đoàn Rio
Tinto đặt tại nước này, nếu Rio Tinto không chấp nhận giá ga mới... (EAU
vừa giầu về năng lượng, nước và có vị trí địa lý và bờ biển có thể nói là
lý tưởng cho công nghiệp luyện nhôm).
Về bùn đỏ
Quá trình sơ chế bauxite để lấy alumina thường để lại
tối thiểu là ½ trọng lượng quặng đã khái thác là bùn đỏ + khối lượng nước
nhiễm bùn này trong quá trình tuyển rửa. Cả hai thành phần này – bùn và
nước nhiễm bùn – vốn không thân thiện với môi trường, lại tồn đọng các hóa
chất gây ăn mòn (đặc biệt là soude caustic), khiến chúng trở thành những
vũng bùn lớn hầu như không có loài vi sinh nào sống được, hủy hoại bề mặt
của đất và các mạch nước ngầm, gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường. Gọi
loại bùn đỏ này là “bom bẩn” không phải là hoàn toàn vô lý. Cách xử lý tối
ưu là phải có nơi chôn loại bùn và nước thải này rồi phủ một lớp đất dầy
lên trên, để lấy lại mặt bằng nơi khai thác và phủ xanh bằng trồng trọt.
Đó cũng là phương thức đề phòng mưa gió chuyển tải bùn đỏ loang ra khắp
vùng chung quanh, tuy nhiên vấn đề ô nhiễm nước ngầm do mưa tạo ra thì
chưa có cách gì xử lý được ổn thỏa. Việc hoàn thổ nơi khai mỏ và chôn bùn
như vậy rất tốn kém, thường để lại những cảnh quan loang lổ như những vết
sẹo lớn mầu nâu đỏ trên mặt đất. Cũng vì lý do này, vị trí nơi khai thác
bauxite phải là những vùng hoang vắng và xa các khu dân cư, xa các nguồn
nước nổi và nước ngầm. Riêng vấn đề nhiệt độ không khí gia tăng và bụi do
mưa gió cuốn đi khắp nơi chưa có cách nào xử lý thỏa đáng.
(Tham khảo thêm : [9], [10], v.v.)
Việc luyện nhôm cũng gây ô nhiễm môi trường không ít.
Cùng với giá điện đắt, đấy là 2 nguyên nhân chính khiến nhiều lò luyện
nhôm ở Tây Âu và Bắc Mỹ tiếp tục đóng cửa.
Ảnh 1 của GEHO: Một bãi
bùn đỏ ở sau khi khai thác bauxite, Ấn Độ
(không cỏ mọc, không một loại vi sinh, không sự
sống).
Tình hình sản xuất
nhôm ở Trung Quốc
Là “công xưởng thế giới”, nhu cầu về nhôm và sản xuất
nhôm của Trung Quốc trong vòng một thập kỷ nay tăng đột biến. Trung Quốc
chiếm khoảng 3% trữ lượng bauxite thế giới (có tài liệu nói là 2,3%), song
hiện nay hàng năm tiêu thụ trên 10% sản lượng nhôm của thế giới và còn
tăng nhanh trong những năm tới. Nguyên nhân chính là bản thân nền kinh tế
khổng lồ Trung Quốc tăng trưởng mạnh, đồng thời Trung Quốc có chủ trương
chiến lược tranh thủ sự chuyển dịch công nghiệp sản xuất ô-tô và máy bay
vào Trung Quốc để sớm trở thành một cường quốc xuất khẩu hai mặt hàng quan
trọng này.
Liên tục trong gần 2 thập kỷ vừa qua, sản lượng nhôm
của Trung Quốc tăng khoảng 6 -10%/năm trên cơ sở nhập xấp xỷ 50% nguyên
liệu từ bên ngoài. Hiện nay sản xuất nhôm trên lãnh thổ Trung Quốc đạt
khoảng 16 triệu tấn, nhiều gấp đôi châu Âu, hoặc bằng cả Mỹ và Tây Âu cộng
lại, chỉ đứng thứ hai thế giới (sau Úc) và còn tiếp tục tăng nhanh. Tập
đoàn sản xuất nhôm lớn nhất của Trung Quốc là CHALCO, đứng thứ tư thế
giới, mỗi năm sản xuất khoảng 2,1 triệu tấn nhôm. Sự xuất hiện của “con
rồng đói” Trung Quốc (TMS - The Minerals, Metals & Materials Society,
Mỹ) như vậy là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho giá
alumina trong vòng 10 năm nay từ 300 USD, lên 350 USD, có lúc vọt lên 450
USD/tấn, nhưng hiện nay đang giảm. Vì những lý do trình bầy trên, Trung
Quốc đang thực hiện một chiến dịch dài hạn và quyết liệt: “chinh phục” các
thị trường bauxite trên thế giới. Sản lượng nhôm hàng năm Trung Quốc đạt
được hiện nay nói lên sự thành công của chiến dịch này.
Thị trường cung cấp alumina cho Trung Quốc có thể nói
là dồi dào, người cung cấp chủ yếu là Úc, châu Phi, Indonesia và Nam Mỹ;
riêng châu Phi có những mỏ do Trung Quốc trực tiếp khai thác.
Khó khăn lớn nhất đối với Trung Quốc hiện nay là môi
trường nơi khai thác bauxite bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhiệt độ không khí
tăng lên và tàn phá nghiêm trọng các vùng chung quanh.
Ảnh 1: Dòng suối Tịnh Tây, Quảng Tây –
trước khi khai thác bauxite
Ảnh 2: Tác động ô nhiễm
môi trường nơi khai thác bauxite tại Tịnh Tây, Quảng Tây 10 - 8-2008
Suối Tịnh Tây trong xanh trở thành suối máu
Năng lượng tiêu thụ
cho việc sản xuất alumina, nhôm. Nguồn: China Daily
April 8, 2008
II. Được và mất đối với Việt Nam trong việc khai thác
bauxite ở Tây Nguyên
1. Lựa chọn con đường phát triển nào cho Việt Nam?
Đấy là câu hỏi đầu tiên cần đặt ra, trước khi cân nhắc
nên hay không nên, được và mất gì trong việc khai thác bauxite tại Tây
Nguyên.
Trước hết, Việt Nam là một nước đất chật người đông,
tài nguyên thiên nhiên đa dạng nhưng nhìn chung không ra tấm ra món và nằm
không tập trung. Đặc biệt lại là nước đi sau, với tình trạng kinh tế nghèo
và lạc hậu, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị vừa rất thuận lợi nhưng
cũng rất nhạy cảm. Thực tế này đòi hỏi phải cân nhắc thấu đáo mọi bề trong
việc lựa chọn chiến lược phát triển..
Với một dân cư 254 người/km2, Việt Nam có mật độ dân số
đứng sau Ấn Độ (336/km2), gần ngang với Philippines (277/km2), nhưng gấp
hơn 5 lần mật độ dân số cả thế giới (45,2 người/km2) và gần gấp 3 lần mật
độ dân số châu Á (89/km2), cao hơn các nước Trung Quốc (138/km2), Thái Lan
(125/km2), Malaysia (84/km2) là các quốc gia vừa có quan hệ kinh tế mật
thiết với nước ta, vừa là các đối thủ cạnh tranh...
Đất chật người đông như vậy, đứng sát nách cái “công
xưởng thế giới”, lại ở vào khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế
giới, Việt Nam đứng trước những thách thức rất lớn trong phát triển và
cạnh tranh kinh tế. Sau 32 năm xây dựng trong hòa bình, trong đó có 10 năm
đầu khủng hoảng và 22 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là nước nghèo nhất so với
các nước ASEAN. So với Singapore, Malaysia và Thái Lan, sức cạnh tranh của
nền kinh tế nước ta rất yếu và có khoảng cách lớn – ví dụ: so với Thái Lan
hiện nay khoảng cách này có thể là 20 năm, so với Malaysia và Singapore
còn xa hơn nữa.
Việt Nam cũng bị Trung Quốc bỏ lại rất xa về mọi phương
diện, và trên thực tế đang chịu sức ép rất lớn nhiều mặt, đặc biệt là sức
ép của nền kinh tế Trung Quốc – và điều này cũng là rất tự nhiên.
Trong bối cảnh như vậy, cuộc sống chỉ dành lại cho Việt
Nam câu hỏi để trả lời: Trong tình thế này, ứng xử hay lựa chọn con đường
phát triển nào là thông minh nhất cho Việt Nam?
Là nước đi sau, đất chật người đông, ở vào khu vực phát
triển năng động và cạnh tranh quyết liệt như thế, dù lựa chọn con đường
phát triển nào, sản phẩm gì.., để tồn tại được và trở nên giầu có, kinh tế
Việt Nam chỉ có thể dựa trên (a) phát huy nguồn lực con người và (b)
tìm cách làm ra ngày càng nhiều của cải trên
đất nơi mình đang sinh sống. Xin nhấn mạnh: Là bằng sản xuất kinh
doanh làm ra ngày càng nhiều của cải trên đất, chứ không
phải dưới đất – với nghĩa là đào đất (như khai
thác khoáng sản) lấy tài nguyên không tái tạo được đem đi bán và bán
luôn cả môi trường tự nhiên, cả không gian sinh sống.
Thực tế khách quan khắc nghiệt của cuộc sống đòi hỏi
như vậy. Phát huy nguồn lực con người để đẩy mạnh làm ăn trên đất
là con đường sống và phát triển của nước ta, làm gì cũng không được xa
dời nguyên lý này.
Nói một cách hình ảnh, đấy là đòi hỏi: Nước ta cần tìm
cho ra một chiến lược phát triển sao cho với con người của mình,
trên mỗi thước vuông của đất nước mình, có thể làm ra lâu dài
và ngày càng nhiều của cải trong thế giới ngày càng cạnh tranh quyết
liệt này!
Chúng ta không thể đào đất đem đi bán – kể cả dưới hình
thức khai thác khoáng sản – để vừa thu hẹp và vừa hủy hoại không
gian sinh sống vốn đã vô cùng chật hẹp so với dân số nước ta, lại vừa tạo
ra cấu trúc kinh tế giam hãm đất nước trong lạc hậu, giữa lúc kinh tế ngày
nay là của thời đại khoa học công nghệ và kỹ thuật, thời đại kinh tế tri
thức và thời đại toàn cầu hóa. Than và dầu xuất đã quá nhiều rồi, chẳng
bao lâu nữa, có thể ngay những năm đầu của thập kỷ 2010, nước ta sẽ phải
nhập những thứ này.
Hơn nữa, không phải chỉ đối với sản phẩm bauxite, ở vào
đầu thế kỷ 21 này, là nước đi sau, mà lại chú trọng phát triển kinh tế
nguyên liệu, tạo ra cấu trúc kinh tế mang nặng các sản phẩm thượng nguồn –
bất luận nó là gì: dầu thô, than, sắt, gỗ, bột giấy, xi-măng... – thì sẽ
có nguy cơ: Càng phát triển càng tụt hậu, càng đánh mất hai lợi thế cạnh
tranh mạnh nhất, quý nhất, và cũng là hai lợi thế duy nhất nước ta
có được: con người và vị trí địa lý kinh tế lý tưởng (đồng thời
cũng là vị trí đầy thách thức đầu sóng ngọn gió của các sức ép nhìn theo
địa kinh tế và địa chính trị). Chưa nói đến khai thác bauxite ở Tây
Nguyên, cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay đã đi quá sâu vào kinh tế thượng
nguồn và chưa chuẩn bị được bao nhiêu cho phát triển kinh tế hạ nguồn. Xu
thế này rất nguy hiểm và cần sớm được đảo ngược.
Rồi đây, vào khoảng 2020, 2050 mật độ dân số nước ta
còn cao hơn nữa, có thể gấp đôi hiện nay. Rồi hiệu ứng nhà kính vừa gây
thiên tai tàn phá, vừa thu hẹp diện tích đất đai con người có thể sinh
sống của nhân dân ta, đòi hỏi phải phát huy 2 lợi thế duy nhất nói trên
của đất nước sẽ càng trở nên gay gắt hơn. Ngày hôm nay đã phải bắt đầu
chuẩn bị cho tình huống này, ngày hôm nay càng không được phép tạo ra hay
chồng chất thêm những khó khăn mới cho tình huống này!
Vì ngay từ đầu chậm nhận thức ra hai lợi thế duy nhất
này của đất nước, cho nên thành tựu phát triển kinh tế đất nước đạt được
32 năm qua dù là rất to lớn nếu đem ta ra so với ta, song vẫn là nhỏ và là
quá chậm, nếu so với những gì nhiều quốc gia khác đã làm được trong cùng
một chiều dài thời gian như vậy (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...), hoặc
so với đòi của bảo toàn độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia. Đất nước
vẫn đang đứng trước thực tế: Càng phát triển, khoảng cách nhiều mặt giữa
nước ta và những nước cần so sánh (TQ, HQ, ĐL, TL...) đang rộng thêm mãi
ra, nguy cơ tụt hậu đang tăng lên chứ không giảm đi.
Với đỉnh cao đạt được năm 2007, nước ta đã hoàn thành
thời kỳ phát triển kinh tế theo chiều rộng. Trong tình hình như vậy
mà tiếp tục đi sâu vào kinh tế nguyên liệu thì có nghĩa là tự mua dây thắt
cổ mình, bởi vì các yếu tố để tiếp tục phát triển theo chiều rộng đã được
khai thác tới ngưỡng không cho phép vượt qua. Tình hình này thể hiện ở chỗ
kinh tế từ một thập kỷ nay tăng trưởng mạnh nhưng chậm phát triển, hiệu
quả kinh tế thấp, cấu trúc kinh tế thay đổi rất chậm; những ách tắc hay sự
hẫng hụt lớn của chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng và năng lực
quản trị quốc gia ngày càng gia tăng. Nhìn theo góc độ này, lạm phát từ
sau quý I-2008 vọt lên 2 con số ngoài việc là hệ quả của những yếu kém
kinh tế vĩ mô còn là sự cảnh báo rõ ràng về cái ngưỡng không được phép
vượt qua vừa nêu trên.
Tình hình hiển nhiên đã chín muồi: kinh tế đất nước
phải chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn – giai đoạn phát triển
theo chiều sâu, chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác
hội nhập. Tiếp tục phát triển theo chiều rộng như vừa qua sẽ đi tới đổ vỡ.
Đất nước đang đứng trước ngã ba đường: Hoặc là chuyển sang phát triển chủ
yếu theo chiều sâu để tiếp tục con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa theo
hướng trở thành một nước phát triển, hoặc đi sâu vào con đường phát triển
hiện tại dựa trên lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên để trở thành một
Philippines mới trong khu vực với mọi hậu quả khôn lường (tham khảo thêm
bài “Ngã
ba 2007” của Nguyễn Trung, VietnamNet, 25-12-2007).
Lựa chọn con đường phát triển theo chiều sâu chủ yếu
dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập, thì không thể
lựa chọn đi sâu vào kinh tế nguyên liệu, càng không thể đi vào khai thác
bauxite ở Tây Nguyên như đang bắt đầu tiến hành.
2. Còn phương án phát triển nào tốt hơn cho Tây Nguyên?
Với cách nhìn vấn đề nêu trong câu hỏi 1, logic tiếp
theo là phải đặt ra câu hỏi 2: Ngoài khai thác bauxite, còn phương án
phát triển kinh tế nào tốt hơn cho Tây Nguyên không??
Đã có nhiều tài liệu nói về tiềm năng kinh tế to lớn
của Tây Nguyên và tầm quan trọng đặc biệt của nó đối với an ninh quốc
phòng của cả nước. Điều này cũng có nghĩa là Tây Nguyên rất nhạy cảm
đối với an ninh quốc phòng của cả nước. Kiến nghị ngày 05-11-2008 của
các nhà khoa học và làm công tác nghiên cứu gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước
đề nghị tạm dừng khai thác bauxite ở Tây Nguyên, báo cáo của tiến sỹ
Nguyễn Thành Sơn "Những sai lầm chiến lược và những rủi ro hiện hữu
trong việc phát triển các dự án bauxite trên Tây Nguyên của VN", tham
luận của nhà văn Nguyên Ngọc, và nhiều tham luận khác tại hội thảo Gia
Nghĩa - Đắc Nông ngày 22 và 23-10-2008 đã nêu lên những lý lẽ xác đáng,
xin miễn cho việc nhắc lại.
Dưới đây xin lưu ý thêm một số đặc thù của Tây Nguyên
để góp phần vào việc tìm hướng đi cho vùng này.
Lựa chọn hướng phát triển Tây Nguyên xanh
có lẽ là thích hợp nhất cho việc phát huy các tiềm năng của Tây Nguyên,
tạo khả năng phát triển bền vững và gìn giữ môi trường, gìn giữ nguồn nước
– không những không thể thiếu được để nuôi sống con người và tự nhiên toàn
vùng Tây Nguyên, mà còn có lợi cho cả toàn vùng chung quanh, riêng phía
Nam xuống tận miền Đông Nam Bộ. Vì vậy: Khai thác khoáng sản ở
Tây Nguyên mà không bảo toàn được Tây Nguyên thì có thể nói đến mức: Cướp
như thế và mang đi bán dù chỉ là một nhát cuốc đất của Tây Nguyên, là cuốc
lộn Tây Nguyên lên đem bán cho nước ngoài, để lại trong nước gánh chịu mọi
hệ quả!Mong rằng lương tri đủ tỉnh táo để đánh giá
việc làm này.
Ngoài Đà Lạt, Tây Nguyên còn một số các địa điểm có độ
cao và địa hình tương tự như Đà Lạt, có thể cho phép tạo ra trên Tây
Nguyên có thêm một hay hai Đà Lạt mới, ví dụ như Mang Đen (Komplong,
Kontum), mở rộng Đà Lạt ra Đan Kia vân... vân... Rất nên tiến hành khảo
sát kỹ những nơi có độ cao từ 800-1000m trở lên trên Tây Nguyên để làm rõ
tiềm năng này. Nếu tìm ra Tây Nguyên có thêm một hay hai Đà Lạt mang khi
hậu ôn đới, tìm ra nhiều điểm cao khác dù là diện tích nhỏ hơn cũng có
điều kiện khí hậu ôn đới như thế, phải nói đấy sẽ là nguồn của cải vô cùng
giầu có và lợi thế đặc biệt được tạo hóa ban cho nước ta, để làm giàu cho
Tây Nguyên và cho cả nước, giầu về của cải cũng như về văn hóa. Những vùng
hay điểm ôn đới như thế ở Tây Nguyên sẽ là độc nhất vô nhị trong toàn khu
vực Đông Nam Á, cho phép nhân dân ta đem trí tuệ và tài năng của mình phát
huy lợi thế này tạo thành những trung tâm của giáo dục đại học, nghiên cứu
khoa học, an dưỡng, du lịch và các dịch vụ khác của cả nước và toàn khu
vực – đúng với nghĩa làm giàu trên đất.
Như vậy Tây Nguyên chẳng những sẽ tạo ra sức hấp dẫn cho chính mình mà còn
cho cả nước, bảo tồn và làm giầu văn hóa Tây Nguyên và cả nước, có sức hấp
dẫn đối với toàn khu vực và trên thế giới. Như vậy đất nước ta sẽ có thêm
một cầu nối kinh tế và văn hóa rất quan trọng để đi vào kinh tế dịch vụ,
kinh tế tri thức và hội nhập.
Điều cần đặc biệt quan tâm là sự tàn phá môi trường
diễn ra đến nay ở Tây Nguyên đã vượt quá mức cho phép. Riêng Lâm Đồng có
67 nghìn ha rừng thông thì đã bị chặt sạch 52 nghìn ha với lý do thông
già, mà lẽ ra chỉ nên khai thác tỉa bỏ những cây có bệnh và đồng thời phải
trồng bổ sung để bảo toàn lá phổi của Tây Nguyên. Ngày nay chỉ cần
thêm một bước đi sai nữa, một quyết định sai, một quy hoạch sai dù là nhỏ
trên Tây Nguyên, thậm chí dù chỉ ở một huyện hay một tỉnh, là hoàn toàn có
thể hủy hoại toàn bộ triển vọng phát triển nói trên của Tây Nguyên, đồng
thời gây tác hại cho các vùng lân cận . Xảy chân một bước, mang hận nghìn
đời! Hệ quả không thể lường hết được. Xin đừng đánh giá thấp nguy cơ này.
Hiển nhiên là một thiếu sót lớn không thể bỏ qua là:
Cho đến hôm nay Nhà nước ta vẫn chưa có một chiến lược phát triển Tây
Nguyên được xây dựng theo hướng đi của thời đại, trên cơ sở những thành
tựu khoa học và công nghệ mới nhất của văn minh nhân loại, cũng như trên
cơ sở nhận thức đầy đủ những nguy cơ mới của biến đổi khí hậu và môi
trường, những thách thức và cơ hội của hội nhập vào nền kinh tế thế giới
đầy biến động trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Chưa có một chiến lược tổng thể với cách nhìn như vậy
cho phát triển Tây Nguyên mà đã đi vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên thì
không khác gì hôm nay bắt đầu chặt đứt tương lai phát triển của Tây
Nguyên.
Vì những đặc thù nổi bật và tầm quan trọng như vậy,
phát triển Tây Nguyên là nhiệm vụ của cả nước, phải do chính quyền
Trung ương (Nhà nước) trực tiếp nắm lấy, phân cấp gì cho địa phương cũng
phải trong khuôn khổ chiến lược phát triển do chính quyền Trung ương xây
dựng với tinh thần vừa nêu trên, phân định rõ Trung ương (cả nước) phải
làm gì và từng tỉnh Tây Nguyên phải làm gì. Không thể khoán trắng cho
các tỉnh để duy trì một Tây Nguyên phát triển trên cơ sở các nền kinh tế
“GDP-tỉnh” và bị chi phối bởi tư tưởng “nhiệm kỳ”, manh mún, mạnh ai nấy
làm, mỗi tỉnh một kiểu như hiện nay. Không thể lại thêm mỗi ngành hay
mỗi tập đoàn bất kể từ đâu đến ngày đêm xâu xé vùng này năm này qua năm
khác... Đấy là chưa nói đến vấn đề di dân tự do, nạn phá rừng đang diễn ra
không ngừng trên Tây Nguyên...
Không có Tây Nguyên của Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc
Nông hay Lâm Đồng, mà chỉ có Tây Nguyên của cả nước, Tây Nguyên của Việt
Nam! Càng không thể có Tây Nguyên của một ngành hay tập đoàn nào. Hơn
nữa, phát triển Tây Nguyên cần bàn bạc kỹ với tất cả các tỉnh chung quanh.Một lần nữa xin nhấn mạnh: Sự thật là nước ta thiếu
hẳn một chiến lược phát triển đúng đắn làm nền tảng và căn cứ cho chiến
lược tổng thể phát triển Tây Nguyên. Không thể kéo dài sự chậm trễ này
nữa. Chiến lược Công nhiêp hóa – hiện đại hóa như đã đề ra và đang theo
đuổi vừa còn nhiều điểm chưa rõ, vừa không thích ứng với tình hình mới:
Đất nước đã kết thúc một giai đoạn phát triển, tình hình kinh tế và chính
trị thế giới có nhiều thay đổi lớn mang tính một bước ngoặt.
3. Nhận xét về các dự án khai thác bauxite đang triển khai
Ngoài những nhận xét đã nêu trong Kiến nghị ngày
05-11-2008 và trong Hội thảo Đắc Nông, dưới đây xin trình bầy thêm một số
khía cạnh.
Nét chung nhất là việc quyết định khai thác bauxite ở
Tây Nguyên không được cân nhắc theo 6 yếu tố đã được đúc kết ra
từ kinh nghiệm khai thác bauxite trên thế giới. Chủ trương
tiến hành khai thác bauxite ở Tây Nguyên thực ra chủ yếu chỉ dựa trên hai
yếu tố cuối cùng và có tầm quan trọng thấp nhất: có quặng, có lao động rẻ;
4 yếu tố đầu quan trọng hơn và mới thực sự là những yếu tố quyết định thì
chỉ được xem xét để cho qua, thực tế là bỏ qua.
Có thể khẳng định từ nay đến năm 2020 – 2025 nước ta
không thể có điện cho sản xuất nhôm, cho dù đến lúc đó có thể đã có điện
hạt nhân. Ngay trước mắt, kể cả trường hợp 13 dự án điện tập đoàn EVN “nhả
ra” với lý do thiếu vốn vẫn được các tập đoàn khác cáng đáng, khó có thể
nói đến năm 2020 ta có thể đáp ứng đủ yêu cầu về điện của cả nước – chưa
tính đến chuyện điện cho luyện nhôm ở Tây Nguyên.
Giả định rằng kiên quyết đầu tư một số công trình điện
thủy lợi hay nhiệt điện chỉ để cho phục vụ riêng cho luyện nhôm ở Tây
Nguyên thì khó mà đạt được yêu cầu 5 cent (USD)/kwh với một lượng điện dồi
dào để có thể cung ứng dù chỉ cho một (1) lò luyện
nhôm, công suất tối thiểu phải có là 100.000 tấn/năm, nghĩa là ít nhất cần
phải có khoảng 1,5 tỷ kwh cho luyện một lò như vậy – tương đương với 1/6
hay 1/5 công suất một năm của nhà máy thủy điện Hòa Bình. Điều này có
nghĩa để sản xuất ra khoảng một nửa triệu tấn nhôm, phải đầu tư riêng cho
điện ước khoảng 2 – 2,8 tỷ USD theo tính toán hiện nay của EVN với giá 1kw
cho thủy điện là 1500 USD và cho nhiệt điện là 1200 USD. Tổng sản lượng
điện cả nước làm ra năm 2007 là 58,4 tỷ kwh, chỉ vừa đủ sản xuất ra gần 4
triệu tấn nhôm. Vào khoảng năm 2015 trở đi Việt Nam sẽ là nước nhập than
và dầu, chẳng lẽ chỉ để cho sản xuất alumina? – chứ không phải nhôm! Lò
luyện nhôm công suất dưới 100.000 tấn giá thành sẽ tăng vọt, rất khó cạnh
tranh trên thị trường. Nếu có một lượng điện như thế ở Tây Nguyên thì dùng
vào việc khác sẽ làm ra nhiều của cải hơn. Là nước đi sau, bây giờ mới
tham gia thị trường nhôm với tư cách là nước xuất khẩu, tối thiểu nước ta
phải có sản lượng nhôm hàng năm từ 0,5 đến 1 triệu tấn thì mới trụ được;
nghĩa là chỉ riêng về điện ta sẽ cần có thêm từ 1 đến 2 nhà máy thủy điện
Hòa Bình chỉ để phục vụ cho mục đích này. Có nên không? Có khả thi không?
Tất cả những điều vừa trình bày cho thấy từ nay đến năm
2020 hoặc 2025 ta không có khả năng tự sản xuất 100.000 tấn nhôm có hiệu
quả kinh tế cao và cạnh tranh được trên thị trường. Nghĩa là, nếu bây giờ
quyết khai thác bauxite Tây Nguyên, thì mãi cho đến năm 2020-2025 ta chỉ
có khả năng làm ra alumina để xuất khẩu, và phải gác lại dài hạn hơn mơ
ước trở thành quốc gia xuất khẩu nhôm. Như vậy, nguy cơ nhãn tiền là chiến
lược sản xuất nhôm xuất khẩu vào năm 2020-2025 có thể sẽ bị gián đoạn hẳn,
hoặc phải dừng lại trong thời gian chưa tính toán được ở khâu sản xuất ra
alumina, với những hệ lụy không tưởng tượng được cho đất nước.
Một bài toán nữa chưa có lời giải là vấn đề nước ở Tây
Nguyên cho bauxite: Lấy ở đâu? và xử lý nước bùn thế nào ở nơi cao và có
độ dốc lớn? Các thông tin về công nghiệp nhôm trên thế giới cho thấy tùy
công nghệ sử dụng, lượng nước cần thiết cho chế biến được 1 tấn alumina
thông thường là 24 m3 – nếu có lắp đặt thêm công nghệ tái tạo lại nước đã
sử dụng thì có thể giảm xuống còn 6 m3. Công nghệ được sử dụng tại
Aughinish / Ireland được coi là hiện đại nhất cho đến nay, sử dụng khoảng
3 m3 / 1 tấn alumina (tham khảo : [5]).
Một số vấn đề khác có liên quan: Giả thiết ta chỉ sản xuất
alumina
Hiệu quả kinh tế đầy nghi ngờ
Hiện nay, sản xuất ra một tấn alumina (quặng bauxite sơ
chế) cần phải có khoảng một tấn than; điều này có nghĩa phải chuyển một
lượng than lớn lên Tây Nguyên, đi bằng đường nào? Hoặc phải có một lượng
điện tương ứng. Nếu tính đủ cả chi phi cho đầu tư kết cấu hạ tầng, chi
phí hoàn thổ và phục hồi môi trường đúng với yêu cầu mà cấu tạo địa hình
Tây Nguyên đòi hỏi sau khi khai thácc, liệu giá thành sản xuất alumina
của Tây Nguyên có thể giữ được khoảng 300 – 350 USD/tấn (giá FOB) hoặc
thấp hơn nữa để đứng vững được trên thị trường hay không?
Muốn đạt giá thành trên, ngoài tổng chi phí cho khai
thác, hàm lượng nhôm trong quặng phải đạt công thức 4/2/1. Giả thiết rằng
hàm lượng nhôm trong quặng thấp, ví dụ có thể là >4/2/1, giá alumina đem
bán sẽ rất rẻ và khó bán – vì giá thành luyện ra nhôm sẽ tăng cao.
Hơn thế nữa, alumina của ta làm ra ai sẽ mua? Ta không
thể đem alumina bán cho Tây Âu và Bắc Mỹ được vì xa quá, cước phí vận tải
tốn kém và ở đấy sản xuất nhôm đang bị thu hẹp. Nhật Bản là nước nhập nhôm
(chứ không phải là alumina) để tiêu dùng, để luyện nhôm tinh khiết và chế
tạo các hợp kim cao cấp khác.
Nhìn quanh ta: Cường quốc xuất khẩu nhôm là New
Zealand, đạt kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD – tương đương với xuất khẩu thủy
sản của nước ta, song đã có nguồn nhập alumina ổn định từ Úc, giá cả có
sức cạnh tranh và chất lượng cao. Thái Lan chỉ có công nghiệp nhôm tái
sinh từ sản phẩm nhôm đã dùng (recycle), các nước ASEAN còn lại hầu như
chưa có công nghiệp luyện nhôm đáng kể và không phải là các quốc gia nhập
khẩu alumina. Như vậy hầu như chỉ còn Trung Quốc là quốc gia duy nhất
trong khu vực Đông Nam Á nhập alumina và có rất nhiều đầu mối trên thế
giới để nhập với khối lượng lớn, giá cả cạnh tranh.
Tình hình cho thấy, nếu ta quyết định sản xuất ra
alumina, nước ta có thể sẽ rơi vào tình thế: Thị trường quanh ta chỉ có
một người mua là Trung Quốc, trong khi đó người bán rất nhiều và đều mạnh
hơn ta (Úc, châu Phi, Nam Mỹ...). Thực tế này sẽ tạo ra cho alumina của ta
sự lệ thuộc nguy hiểm.
Giả thử rằng quyết định vào năm 2020 – 2025 nước ta mới
bắt đầu đi vào công nghiệp nhôm, có thể lúc đó – nhờ sự phát triển mọi mặt
của đất nước và những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ –
tình hình sẽ cho phép nước ta một sự lựa chọn khác: đi thẳng vào công
nghiệp nhôm cao cấp (nhôm tinh khiết, các hợp kim quý...), trên cơ sở
nguyên liệu nhập hay tại chỗ, với những điều kiện kinh tế và những điều
kiện thân thiện với môi trường có lợi hơn rất nhiều so với hiện nay.
Nghĩa là lúc này vội vã hay nôn nóng là tự ăn vào chính mình! Một ví
dụ cụ thể, ngay bây giờ, giữa lúc người làm dự án khai thác bauxite Tây
Nguyên dự định tạm thời vận tải alumina xuống biển bằng đường ô-tô, trong
đầu mới chỉ có ý tưởng sẽ vận chuyển alumina bằng đường sắt, nhưng chưa có
quy hoạch và thiết kế khả thi cho đường sắt này, thì trên thế giới đã có
một vài nơi vận tải alumina bằng đường ống (Úc, Brazil...)... Quan trọng
hơn thế nhiều là tại sao không ngay từ bây giờ tính đến phương án và trù
bị mọi việc, để vào một thời điểm nào đó, Việt Nam sẽ có thể thay thế Nhật
Bản sản xuất những sản phẩm nhôm cao cấp? Xin lưu ý, hiện nay Nhật đang
trù tính chuyển nhiều bộ phận công nghiệp của nền kinh tế nước mình ra bên
ngoài để tăng cường khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế Nhật. Là nước đi
sau, chúng ta có quyền lựa chọn. Có nên tính đến yếu tố này trong xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế của nước ta hay không? Lựa chọn con đường
này sẽ có khả năng tránh hay giảm thiểu đáng kể việc phát triển kinh tế
của các sản phẩm thượng nguồn và giúp ta khắc phục tốt hơn tình trạng tụt
hậu. Như vậy đối với nước ta hiện nay, với một tầm nhìn chiến lược mới
và cách tiếp cận mới, càng chậm đi vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên,
càng có lợi. Lợi thế nước đi sau là như vậy.
Ngay ở Trung Quốc, việc phát triển công nghiệp nhôm
ngoài đòi hỏi tất yếu là đáp ứng nhu cầu tiêu thụ mỗi năm khoảng 15 triệu
tấn không có cách gì nhập đủ được, Trung Quốc gắn nhiệm vụ này với việc
nhiệm vụ tranh thủ cơ hội trở thành cường quốc xuất khẩu ô-tô và máy bay.
Rõ ràng thời buổi ngày nay quốc gia nào có ý thức về cạnh tranh đều phải
“gắn” như vậy, nếu không là tự đào thải mình. Tìm cách gắn
với cái hiện đại và sức cạnh tranh cao, chứ không phải gắn
với tài nguyên không tái tạo được và lao động cơ bắp.
Quy trình lộn ngược
Việc triển khai các dự án khai thác bauxite ở Tây
Nguyên ngoài việc thiếu chiến lược phát triển tổng thể của vùng này làm
nền tảng, có nguy cơ đang diễn ra theo quy trình lộn ngượcc: Kết cấu hạ
tầng phải có cho khai thác và cho bảo vệ môi trường không được xây dựng
trước khi tiến hành triển khai các công trình khai thác và tuyển + sơ chế
quặng. Các kế hoạch giải quyết các vấn đề an sinh xã hội có liên quan đến
toàn vùng Tây Nguyên hoặc là mới có ở mức độ ý tưởng, hoặc là chưa nghĩ
đến, hoặc chưa có!
Chưa thấy các dự án khai thác alumina ở Tây Nguyên có
các nguồn điện và nước của riêng mình, trước mắt vẫn là tính chuyện sử
dụng các đầu vào này (input) cho sản xuất trên cơ sở các nguồn hiện có tại
chỗ. Cách tiếp cận này rất nguy hại cho Tây Nguyên, trong khi Tây Nguyên
đang thiếu trầm trọng điện và nước cho con người, nông nghiệp và cây công
nghiệp.
Vấn đề vận tải một khối lượng lớn quặng sơ chế alumina
(ước lượng từ 0,6 đến 1 triệu tấn/năm) từ Tây Nguyên xuống cảng biển trong
nhiều năm sau khi bắt đầu khai thác, trù tính trong thời chưa có đường sắt
và cảng chuyên dụng, sẽ sử dụng đường bộ và một hay nhiều cảng hiện có.
Điều này có nghĩa sẽ hủy hoại đáng kể những con đường và cảng có liên
quan, đồng thời làm ô nhiễm không thể cứu vãn được cả một vệt đỏ dài hủy
diệt xuất phát từ các mỏ bauxite ở Tây Nguyên chạy xuống tận cảng biển,
một phần lớn vùng duyên hải miền Trung. Thực tế này sẽ cũng có nghĩa là
làm hỏng luôn kinh tế cả vùng duyên hải miền Trung, nhất là ngành du lịch.
Với cung cách làm ăn đang có của ta, chờ cho đến khi hoàn thành được đường
sắt và cảng chuyên dụng cho xuất khẩu bauxite, tình hình có thể sẽ quá
muộn – chưa nói đến chuyện những công trình chuyên dụng này có khả thi về
mặt kinh tế hay không, có tiền để làm không, và biết bao nhiêu điều bất
thường khác! V... v...
Hồ chứa bùn đỏ sau
khi lấy alumina từ bauxite tại Kashipur - Orissa, India – không
còn sự sống nào trong môi trường này.
Việc xử lý bùn đỏ và nước thải nêu trong các đề án khai
thác bauxite đầy nghi ngờ, vì hai lý do: (a) rất tốn kém, (b) khó có thể
làm được như có thể viết ra trên giấy – hiện tượng này đã từng xảy ra tại
nhiều nước trên thế giới – kể cả ở Úc, Canada.... Ngay ở nước ta, xin hãy
nhìn lại quá trình khai thác than hơn 100 năm nay ở Quảng Ninh, nhất là 30
năm trở lại đây. Có thể nói, cho đến ngày hôm nay, tất cả các mỏ than đã
khai thác xong và đã đóng cửa ở Quảng Ninh hầu như đều là các vùng
“Quảng Ninh đen”, chưa có một nơi nào môi trường tự nhiên được hoàn
lại như trước khi khai thác. Một lần tôi hỏi một đồng chí lão thành cách
mạng là nguyên bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh: “Tại sao không phục hồi trả lại
môi trường nơi khai mỏ?”. Trả lời: “Một là làm như thế sẽ lỗ; hai là ăn hết mất rồi!” Với cách quản lý mỗi năm hàng chục triệu tấn
than xuất khẩu lậu như đã từng xảy ra vừa qua,
thật khó tin môi trường
những nơi khai thác bauxite ở Tây Nguyên sẽ được hoàn trả một cách an
toàn, nhất là vùng này cao và có độ dốc lớn. Còn các vấn đề ô nhiễm
khác?
Vấn đề nguy hiểm nhất trong quy trình lộn ngược
này là chưa có một chương trình khả thi và được phê duyệt ở cấp quốc gia
cho việc bảo vệ, phục hồi môi trường nơi khai thác và cho toàn vùng, thiếu
hẳn sự bàn bạc với các tỉnh, các địa phương chung quanh và các Bộ, ngành
có liên quan về việc phối hợp, hợp tác với nhau xử lý các hệ quả của khai
thác bauxite có thể xảy ra. Lẽ ra vấn đề nguy hiểm nhất này phải được xử
lý đầu tiên trước khi quyết định sẽ làm hay không làm alumina ở Tây
Nguyên.
Việc làm mới ?
Báo chí nói dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên đã
động thổ (Đắc Nông) sẽ đem lại 16 nghìn việc làm mới. Nhìn theo cái giá
Tây Nguyên phải trả, con số này thật quá bé nhỏ so với dân số Tây Nguyên –
năm 1975 lả 1,3 triệu người và hiện nay là gần 4 triệu người. Ngoài ra về
bauxite ở Tây Nguyên, chí ít phải đặt thêm các câu hỏi: (1) 16 nghìn việc
làm này là cho ai – nghĩa là người dân tộc nào? (2) Bao nhiêu người các
dân tộc Tây Nguyên sẽ bỏ đi và sự xáo trộn dân cư “đến và đi” sẽ xảy ra
như thế nào? hệ quả mọi mặt? (3) Phương án Tây Nguyên xanh có tạo ra nhiều
việc làm hơn không? (4) Bao nhiêu việc làm thuộc các ngành nghề khác ở Tây
Nguyên và các vùng, các tỉnh chung quanh sẽ bị mất đi do việc khai thác
bauxite hủy hoại môi trường toàn vùng? V... v...
Năm 1976 Tây Nguyên có khoảng 1,2 triệu người sinh
sống, hiện nay là gần 4 triệu. Trong một môi trường dân số tăng nhanh như
vậy– nhất là do tăng dân số cơ học và còn đang tiếp tục tăng, thêm một hai
chục nghìn việc làm mới cho Tây Nguyên nhờ khai thác bauxite như vậy, có
giải quyết được vấn đề đời sống của Tây Nguyên không? Trong khi đó một
không gian dân cư sinh sống đáng kể sẽ bị việc khai thác khoáng sản này
cướp đi. Nên lựa chọn cái gì??
Cần lưu ý: Con số 16 nghìn việc làm có thể tạo ra nhờ
khai thác bauxite như báo chí nêu lên, chủ yếu sẽ là lao động thủ công.
Thực tế ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy khai thác mỏ càng sử dụng
nhiều lao động thủ công, hủy hoại môi trường càng lớn. Trên hết cả,
xin hãy đi khảo sát đời sống thợ tại các mỏ than, mỏ đá, các mỏ khoáng sản
khác ở khắp nước ta để suy nghĩ xem: Họ đang sống như thế nào? Đây có
phải là loại việc làm đáng tạo ra của thời kỳ đất nước đẩy mạnh công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại thời hội nhập ngày nay hay không?Muốn phát triển Tây Nguyên bền vững, cần trả lời
thỏa đáng nhiều câu hỏi khác tương tự như thế, kể cả về an ninh quốc phòng
và đối ngoại.
Kết luận
Khai thác khoáng sản đem bán – dù là than, dầu hay là
gì nữa – lúc này đối với nước ta là cực chẳng đã, là hạ sách, trong nhiều
trường hợp là thất sách, không nên mở rộng thêm, mà cần thay đổi tình hình
này càng sớm càng tốt, kéo dài là chuốc thêm nghèo khó và tụt hậu. Ngoài
ra nước ta hàng năm thiên tai gây ra biết bao nhiêu khốn khó, năm sau có
thiên hướng khắc nghiệt hơn năm trước, tình trạng lụt lội các nơi ngày
càng nhiều. Không có lý do gì mỗi năm lại cứ cho đẻ thêm các công trình
kinh tế góp phần làm trầm trọng thêm thiên tai, để rồi lại kêu gọi cả nước
ra sức chống, ra sức cứu, với bao nhiêu đau thương và tổn thất.
Khai thác bauxite ở Tây Nguyên như đang triển khai,
sẽ (1) hủy hoại môi trường đồng thời làm biến đổi khí hậu toàn bộ vùng này
và chung quanh, (2) thu hẹp vùng dân cư sinh sống, (3) gây phương hại cho
an ninh của đất nước.
Khai thác bauxite như đang triển khai, về lâu dài là
đang lấp ló một “Vedan” khổng lồ, toàn diện, vô phương cứu chữa, là sự phụ
họa tiếp theo với thiên tai, để làm hỏng đất nước, kéo dài nữa sự tụt hậu
của cả nước.
Liên quan đến Vedan, ngày 13-11-2008 Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng nói trước Quốc hội: “Chính phủ cũng chủ trương ngăn chặn những
vi phạm mới, không vì lợi ích trước mắt mà hy sinh môi trường. Vừa rồi
Chính phủ đã từ chối dự án thép trị giá 4 - 5 tỷ USD vì vấn đề môi trường”.
Mong rằng tinh thần này được vận dụng cho bauxite Tây Nguyên.
Với nguy cơ triển khai theo quy trình lộn
ngược như đang thực hiện, chương trình khai thác
bauxite Tây Nguyên có thể vừa để lại nhiều hệ quả lớn về kinh tế, chính
trị, xã hội, vừa tạo ra cho nước ta sự lệ thuộc mới không thể chấp nhận.
Khai thác bauxite như đang triển khai nguy hiểm tới mức
những sai lầm có nguy cơ gây ra những tổn thất lớn lao mang trọng tội đối
với quốc gia, thiết nghĩ nên cân nhắc rất cẩn trọng với tầm nhìn dài hạn.
Vì vậy xin đề nghị lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ thị
cho tạm dừng việc triển khai chương trình này, thực hiện các nghiên cứu
cho phép đi tới những quyết định thỏa đáng cho tương lai phát triển của
Tây Nguyên, trước khi đi tới quyết định nên dừng hẳn trong một thời
gian nhất định việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên, hay nên đi tiếp và đi
tiếp như thế nào. Mong trí tuệ của cả nước được huy động, và mong khai
thác kinh nghiệm của cả thế giới cho việc này.
Xin trân trọng đề nghị Bộ Chính trị và Chính phủ cử một
đoàn có thẩm quyền về kiến thức khoa học và kinh tế, độc lập với các Bộ,
ngành và tập đoàn,
a/ đi khảo sát một số nơi chứa bùn đỏ ở Ấn Độ, châu
Phi, hay một vài nơi nào khác để nghiên cứu những hệ lụy trong việc khai
thác bauxite, về báo cáo công khai trong nước để tham khảo ý kiến nhân
dân trước khi đi tới quyết định cuối cùng.
b/ đi khảo sát dự án đầu tư của Trung Quốc ký với Úc
khai thác bauxite ở mỏ Aurukun, Queensland rồi so sánh với những dự án
ta đã ký kết và rút ra những kết luận cần thiết cho Tây Nguyên.
Con đường đi lên của nước ta là tìm cách phát huy con
người Việt Nam tự chủ, có ý chí nhẫn nại làm giầu bền vững, lâu dài
trên từng thước vuông đất của Tổ quốc chúng ta - bằng trí tuệ và lao
động cần cù sáng tạo, chứ không phải bằng cách đào bới khoáng sản đem đi
bán.
Xin đừng giây phút nào quên nước ta đất chật người
đông, ở vào vị trí địa lý và vị thế đầy thách thức ác nghiệt. Riêng trong
nửa sau của thế kỷ 20 nước ta phải gánh chịu 5 cuộc chiến tranh khốc liệt,
và hôm nay bước vào thế kỷ 21 với sự lạc hậu và tụt hậu kinh hoàng so với
thế giới. Cần nhìn vào con đường đất nước phải đi để thấy hết sự thật này!
Phải biến thách thức thành cơ hội. Đó là con đường duy nhất để tồn tại và
phát triển. Vị trí địa lý và vị thế nước ta tiềm tàng một cơ hội như thế!
Tất cả trước hết phụ thuộc vào cái đầu và ý chí, chứ không phải cơ bắp.
Thừa hưởng những kinh nghiệm của các nước đi trước
trong hai thế kỷ trước, một số nước NICs đã tận dụng được lợi thế nước
đi sau và đã thành công – con đường họ đi bắt đầu từ giáo dục... Tại
sao nó không thể là con đường của chúng ta? (tham khảo thêm: [14]).
Nguyễn Trung
Hà Nội, ngày 11-11-2008
Tài liệu tham khảo
[1] Các websites về công nghiệp và thương mại aluminum
của các quốc gia được nhắc tới trong tham luận này. [2] Các báo cáo năm của UNDP, WTO năm 2005,
2006.[3] Các bài về công nghiệp nhôm của Earth Policy
Institute – USA 2003 – 2006.[4] Các báo cáo chuyên đề hàng năm củaALCOA
-
[5]
BAUXITE AND ALUMINA PROCESSING METHOD AND TAILINGS PRODUCTION[6] Các báo cáo chuyên đề hàng năm của UC RUSAL
[7] European Aluminum Association Report – 2007.
[8] Bauxite and Aluminum: A Cradle to Grave
Analysis.Nguồn[9] MATERIALS AND THE ENVIRONMENT Chapter 6. Designing
a New Materials Economy, Lester R. Brown[10] Eco-Economy: Building an Economy for the
Earth, W.W. Norton & Co., NY: 2001 [11] Ecological restoration of land with
particular reference to the mining of metals and industrial minerals: A
review of theory and practice, J.A. Cooke and M.S. Johnson.Nguồn[12]Canadian Mining Companies Destroy
Environment and Community Resources in GhanaNguồn[13] Dương Danh Dy – “Tìm hiểu tình
trạng ô nhiễm môi trường khi khai thác bauxit tại một vài nơi ở Trung Quốc”.[14] Nguyễn Trung, (1)Ngã ba 2007,
VietnamNet, 25-12-2007, (2)
Lối đi duy nhất để Việt Nam thoát nghèoTuần Việt Nam
24/10/2008, và (3)
Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong quần áo thiếu niênTuần Việt Nam 31/10/2008