
Hình 1. Tam giác phân loại châu thổ Galloway
1. Nước là yếu tố cần thiết cho sự sống trên hành tinh
của chúng ta, đến khi loài người thám hiểm các hành tinh khác, một trong
những điều mà các nhà khoa học tìm kiếm đầu tiên là dấu vết của sự hiện
diện của nước ở đó.
Vì vậy, một vùng lãnh thổ1 có được
một dòng sông chảy qua là một điều may mắn cho vùng, cho người dân sinh
sống ở nơi đó. Nhận thức này cần được nhấn mạnh để biết quý trọng dòng
sông, giữ gìn và tôn tạo để nó có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững
của vùng lãnh thổ.
Dòng sông tích và chuyển nước với phù sa, nhiều loài thủy
sản và mang theo đó một nguồn năng lượng, thế và động năng, quý báu cho sự
phát triển. Nếu dòng sông ra biển lớn, nó còn truyền tải vào một lượng
năng lượng triều và tạo ra một vùng sinh thái nước lợ, đệm giữa vùng ngọt
và vùng mặn.
Năm yếu tố cơ bản của cuộc sống
là Nước, Năng lượng, Nông nghiệp, Sức khỏe
và Đa dạng sinh học, có quan hệ mật thiết với nhau, đều gắn chặt
với dòng sông.
Dọc theo sông và các phụ lưu, kinh rạch của nó còn là địa
bàn sinh sống của người dân với nhiều ngành nghề khác nhau nhưng tất cả
đều gắn kết với dòng sông.
 
Hình 2. Hai đề xuất định vị
châu thổ sông Mêkông
Chính vì vậy dòng sông luôn là
khởi điểm, là yếu tố nền cho một dự án phát triển vùng đồng thời
cho nhiều dự án phát triển ngành (nông nghiệp, thủy sản, công
nghiệp, du lịch, …) và phát triển các tiểu vùng trong vùng lãnh
thổ đó.
Vấn đề đặt ra là bảo đảm giữa “dự án phát triển vùng”
và “những dự án phát triển của vùng” có được sự hài hòa cần thiết
để dòng sông không bị hủy hoại, để chính vùng không bị mai một. Nói một
cách tích cực hơn, làm gì để dòng sông “sống” với vùng, với con người
và phục vụ con người?
Làm sao thực hiện được sự hài
hòa này? Đây là câu hỏi mà trong quá trình triển khai Chương trình khoa
học Nhà nước “Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu
Long” (1983-1990), Ban chủ nhiệm Chương trình 2 đã tự đặt
cho mình ngay từ đầu và xuyên suốt quá trình điều tra và tổng hợp. Khi đặt
tên “Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên - Môi trường - Phát triển”
cho báo cáo tổng hợp 3, quan điểm của chúng tôi là bộ ba
Tài nguyên - Môi trường - Phát triển phải là một thể thống nhất: khai
thác tài nguyên để phát triển nhưng để phát triển bền vững, việc khai thác
phải phù hợp với quy luật, trước tiên của môi trường tự nhiên, nhớ rằng
nước, đất, sinh vật, khí hậu, … là tài nguyên đồng thời cũng là những
thành tố cấu tạo nên môi trường.
Trở lại với dòng sông, khai thác nó để phát triển, vậy đâu
là những cột mốc cảnh báo giới hạn không được vượt qua?
2. Gắn bó với sự phát triển của đồng bằng
sông Cửu Long trong suốt ba mươi năm qua, chứng kiến thực tế khai thác
dòng sông để phát triển của vùng đất này, tôi luôn nghĩ về nhiệm vụ phải
bảo vệ sông Mêkông và thấy nó cần được xem như một cơ thể
sống. Cũng như mọi dòng sông khác trên thế giới, nó có cuộc sống
của nó, với nhịp điệu và trao đổi, có quá khứ, hiện
tại và tương lai mà chúng ta cần biết, càng rõ bao nhiêu
càng tốt bấy nhiêu.
2.1. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã tìm hiểu châu
thổ sông Mêkông hiện nay mang tính chất sông chi phối, triều
chi phối hay sóng chi phối và nằm ở vị trí nào trong tam
giác phân loại châu thổ Galloway 4 ? (Hình 1). Hiện nay có một
số đề xuất định vị khác nhau (Hình 2). Một báo cáo khoa học gần
đây nhận định rằng châu thổ sông Mêkông chuyển dần từ dạng triều chi
phối sang dạng sóng - triều chi phối 5. Định vị
châu thổ sông Mêkông trong tam giác phân loại Galloway không phải là một
vấn đề học thuật mang tính hàn lâm, bởi lẽ nó giúp chúng ta hiểu được quá
trình hình thành và phát triển của dòng sông, địa mạo của châu thổ, đặc
biệt tiểu vùng rìa của nó trong mối tương tác sông - biển (sóng, gió và
triều), và dự báo được diễn biến sắp tới của tiểu vùng này.
2.2. Dòng sông sẽ chết nếu không có nước. Vì vậy, những dự
án chuyển nước từ lưu vực của dòng sông sang lưu vực của một dòng sông
khác cần phải được tính toán, thuyết minh rõ ràng tới một giới hạn nào là
chấp nhận được, với những thiệt hại gì cho dòng sông và cho các quốc gia
có liên quan, những giới hạn và nghĩa vụ gì tương ứng khi dòng sông chảy
qua nhiều quốc gia.

Hình 3. Dự án Kênh đào Seine Bắc, chuyển
nước giữa lưu vực sông Seine (Pháp) và lưu vực sông Scheldt
Điều này đã được thực hiện khá cụ thể, chi tiết trong dự án
Kênh đào Seine Bắc, nối liền sông Seine (qua sông Oise) với sông Sheldt 6, dài 106 km, có 7 âu thuyền và hai đập trữ nước.
Mặc dù biết rằng kênh đào sẽ phục vụ vận tải thủy, góp phần giảm bớt khí
thải CO2 so với vận tải bộ, nhưng không phải đã hết những băn
khoăn về môi trường, về những thay đổi đối với hai sông và vùng đất mà
kênh đào sẽ đi qua, được đào sâu 4,5 m, rộng 54 m và lượng đất phải di
chuyển là 55 triệu m3. (Hình 3).
Liên hệ đến sông Mêkông, những dự án chuyển nước của sông
này, kể cả phần trên thượng lưu, sang những lưu vực khác cần được Nhà nước
các quốc gia ở hạ lưu theo dõi sát sao, tính toán kỹ lưỡng hậu quả để bảo
vệ quyền lợi chính đáng của mình, trong tinh thần hợp tác cùng phát triển.
2.3. Lợi dụng địa hình để khai
thác thế năng dọc một dòng sông là việc làm được thực hiện từ nhiều thế
kỷ. Nhưng với khả năng tầm nhìn ngày càng được mở rộng, với nhận thức về
môi trường ngày càng sâu sắc, việc xây dựng các đập thủy điện được yêu cầu
phải có đánh giá tác động môi trường, không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà
trong phạm vi cả lưu vực nhất là khi liên quan đến một dòng sông quốc tế.
Cần nhớ rằng thời gian thích hợp cho việc khai thác ở đầu nguồn chưa hẳn
đã phù hợp với thời vụ sản xuất và sinh hoạt ở hạ du ở cách đó hàng ngàn
km. Đó là chưa nói tới nguồn lợi về thủy sản có nguy cơ bị cạn kiệt, môi
trường có thể bị đảo lộn.
Nước trong lưu vực của một dòng
sông cũng giống như máu lưu thông trong hệ thống các mạch máu của cơ thể
của con người. Có quyền khai thác nguồn nước phải đi đôi với
trách nhiệm đối với toàn bộ lưu vực; quyền lợi một quốc gia phải hài
hòa với quyền lợi các quốc gia khác trong lưu vực; nhận cái lợi trước mắt,
phải có trách nhiệm với những gì xảy ra trong trung và dài hạn có liên
quan trong cả lưu vực. Đó là những ý kiến khách quan, sâu sắc của nhiều
nhà khoa học sau khi nghiên cứu các đập thủy điện đã hoàn thành và dự kiến
sẽ được xây dựng trên toàn bộ lưu vực sông Mêkông trong thời gian tới đây
7 8. (Hình 4).

Hình 4.Vị trí các đập đã và dự kiến sẽ xây
dựng trên dòng chính sông MêKông
2.4. Mỗi dòng sông, mỗi đoạn sông có một
khả năng tự làm sạch khỏi những chất ô nhiễm thải vào nó. Khả
năng này tùy thuộc vào nhiều thông số nhưng không phải là vô hạn. Nói một
cách khác, mỗi dòng sông có một sức chịu tải về ô nhiễm môi trường.
Tôi càng khẳng định như vậy khi chứng kiến nước thải từ không ít nhà máy
đông lạnh thủy sản và các thứ nước thải khác từ nhiều khu công nghiệp, nhà
máy dọc sông Hậu được thải một cách “vô tư” ra sông này từ An Giang dọc
trở xuống mà không qua xử lý bắt buộc theo luật định. Sông Thị Vải, sông
Thị Tính ở miền Đông Nam Bộ là những ví dụ dòng sông bị ô nhiễm khác cần
báo động 9. (Hình 5)
2.5. Rừng đầu nguồn bị tàn phá là một mối
đe dọa nặng nề khác đối với dòng sông, nhất là ở các vùng nhiệt đới. Mất
rừng kéo theo xói mòn, lũ quét và rửa trôi đất mà hậu quả là nâng cao đáy
các hồ đập, thay đổi địa mạo của vùng, của lòng sông và chế độ thủy văn.
Liên hệ đến sông
Mêkông, nguy cơ này dường như chưa được nhận thức đúng mức. Cái lời
trước mắt vẫn được chọn mặc cho nguy cơ triệt tiêu cái lợi lâu
dài. Hồ Tonlé Sap là một ví dụ cụ thể. Do nạn phá rừng quanh hồ Tonlé
Sap trong những thập niên gần đây, đáy hồ này mỗi năm đang nâng lên từ 10
đến 12 cm, sức chứa của hồ giảm đi nhanh chóng, chức năng trữ và điều tiết
của hồ này sẽ thay đổi khác với trước đây là điều sẽ xảy ra nếu không ngăn
chặn được tình hình phá rừng hiện nay.
3.
Phát triển một vùng lãnh thổ với một dòng sông chảy qua là một công trình
hết sức quan trọng, thường mang tính chiến lược đối với đất nước, như đồng
bằng sông Cửu Long chẳng hạn. Những công trình của dự án tổng thể cũng như
của các dự án ngành hoặc tiểu vùng phải đứng vững và hoạt động tốt trong
nhiều thập kỷ nếu không phải là lâu hơn nữa. Như vậy, không
thể không đặt dòng sông và vùng lãnh thổ đó vào bối cảnh của biến đổi khí
hậu và của mực nước biển dâng đang diễn ra.
Đối với châu thổ
sông Mêkông, trên phần lãnh thổ Việt Nam, trong một báo cáo, chúng tôi đã
bước đầu chỉ ra những tác động lên môi trường tự nhiên và lên đời sống
kinh tế xã hội, những luồng “di dân sinh thái” có nhiều khả năng xảy ra,
cùng với những công việc cần triển khai, trong đó có các nhiệm vụ khoa học
và công nghệ, nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và biển dâng 10.

Ô
nhiễm từ Nhà máy Bột ngọt Vedan và các nhà máy kế cận (ảnh trái)

Ô nhiễm nhiệt từ Nhà máy điện Phú Mỹ (ảnh trên)
 
Các KCN và nhà máy tại Nhân Trạch và Phú Mỹ dọc theo
sông Thị Vải nhìn từ ảnh vệ tinh SPOT ngày 10.01.2008
Hình 5. Ô nhiễm sông Thị Vải
Đối với một châu thổ, biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng sẽ tác
động lên môi trường tự nhiên của vùng lãnh thổ. Là một thành tố của môi
trường, dòng sông bị tác động suốt dọc cơ thể của nó, từ đầu nguồn đến cửa
biển hoặc nơi nhập lưu với một dòng sông khác. Do quá trình biển mạnh lên,
vị trí của châu thổ sẽ đổi chỗ trong tam giác phân loại Galloway. Mặt
khác, quá trình sông yếu đi vì bị “chia nước” hoặc bị các đập ở thượng
nguồn ngắt đoạn, vi trí của châu thổ cũng sẽ dịch chuyển. Sự dịch chuyển
sẽ là kép, cộng hưởng cả hai tác động, từ phía nguồn và từ phía biển, khi
chúng diễn ra cùng một lúc.

Hình 6. Châu thổ sông Mêkông nằm trong lưu vực và
dưới tác động của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng
Đối với châu thổ sông Mêkông, không chỉ đơn thuần là một sự đổi chỗ: tuy
là tiệm tiến nhưng cả châu thổ sẽ bị tác động, cuộc sống của hàng chục
triệu người dân ở nơi đây trực tiếp bị đe dọa (Hình 6). Nhìn toàn cầu,
Việt Nam phải tham gia giảm thiểu lượng các khí thải gây hiệu ứng nhà
kính. Hành động cụ thể, Việt Nam phải có tiếng nói cần thiết để sông
Mêkông được khai thác vì mục đích cùng phát triển, và tổ chức ngay trên
địa bàn đồng bằng sông Cửu Long việc ứng phó mà hiệu quả tùy thuộc vào cơ
sở khoa học của các giải pháp.
-------
[1] Từ lãnh thổ dùng trong bài này có thể là một phần trong lưu vực của
dòng sông, hoặc cả lưu vực. Trong trường hợp sau, lãnh thổ có thể bao gồm
nhiều quốc gia mà dòng sông chảy qua.
2 Ban Chủ nhiệm chương trình gồm có GS.TS. Nguyễn Ngọc Trân (CN), PTs. Hồ
Chín (PCN), GS.TS. Võ Tòng Xuân (PCN), PTs.Văn Thanh (TK), Gs. Nguyễn Công
Bình, Ks. Trần Đức Khâm, GS.TS. Nguyễn Tấn Lập, GsTs. Phùng Trung Ngân,
Ks. Trần An Phong, PTs. Trần Hồng Phú, GsTs. Trần Kim Thạch, Ts. Tô Phúc
Tường.
3 “Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên - Môi trường - Phát triển”, Báo cáo
tổng hợp của Chương trình khoa học kỹ thuật cấp nhà nước “Điều tra cơ bản
tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long”, (1983-1990). Nguyễn Ngọc Trân chủ
biên, Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, 1991, Hà Nội.
4 Galloway, W.E., 1975. Process framework for describing the morphologic
and stratigraphic evolution of deltaic depositional system. In: Deltas:
Models for Exploration, Houston Geological Society, Houston, TX, pp.
87–98.
5 Thi Kim Oanh Ta, Van Lap Nguyen, Masaaki Tateishi, Iwao Kobayashi,
Yoshiki Saito and Toshio Nakamura. Sediment facies and Late Holocene
progradation of the Mekong River Delta in Bentre Province, southern Viet
Nam: an example of evolution from a tide-dominated to a tide- and
wave-dominated delta, in Sedimentary Geology, Volume 152, Issues 3-4, 1
October 2002, Pages 313-325
6 Sông Scheldt dài 350 km ở phía Bắc nước Pháp (gọi là sông Escaut), phía
Tây nước Bỉ, và ở phía Tây Nam nước Hà Lan (sông Schelde).
7 Michael Richardson, Dams in China Turn the Mekong Into a River of
Discord, Rivers know no borders, but dams do,
http://yaleglobal.yale.edu/display.article?id=12580
8 Ian G. Baird, The Don Sahong Dam : Potential Impacts on Regional Fish
Migrations, Livelihoods and Human Health. POLIS Project on Ecological
Governance, University of Victoria, Victoria, B.C., Canada.
9 Tình hình ô nhiễm sông Thị Vãi rất nguy kịch bởi
lẽ đoạn nước bị ô nhiễm nặng cứ bị đẩy tới rồi kéo lui theo trièu Biển
Đông, hai lần trong ngày quanh vị trí của Nhà máy bột ngọt Vedan. Mô hình
toán của Ts. Nguyễn Hữu Nhân diễn đạt hiện tượng này rất rõ. Theo sô liệu
của các Sở Tài nguyên và Môi trường hai tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu
trong nhiều năm, các chỉ tiêu BOD, COD, DO, … đều vượt quá mức cho phép
hàng chục lần, thậm chí còn hơn. Trong chuyến khảo sát tháng 2 năm 2007,
điều này được xác nhận. Chỉ tiêu DO đo được là 0.1 trong khi < 3, mọi sinh
vật đều không thể sống được.
10 Nguyễn Ngọc Trân, Ứng phó với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng
tại đồng bằng sông Cửu Long, Một số nhiệm vụ càn triển khai. Báo cáo tại
hội thảo khoa học về biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long, tháng
10.2008. Một phiên bản cập nhật đã được trình bày tại Paris theo lời mời
của Hội Người Việt Nam tại Pháp, tháng 6.2009.
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=67&CategoryID=8&News=30400
|