Nguyên nhân
:
Bắt đầu một nhiễu loạn
được hình
thành trong khí quyển,
phát triển thành một khu
vực áp suất thấp. Vì thế
gió từ nơi
áp suất cao đổ dồn vào.
Nước biển sưởi ấm không
khí đẩy nó lên cao trong
khu vực tâm bão.
Càng lên cao, không khí
ấm gặp lạnh, ngưng
đọng thành mưa bão
(thunder storm). Nếu hội
đủ điều kiện, một chênh
lệch áp suất ở nhiệt đới
phát triển thành bão
nhiệt
đới và cuối cùng trở
thành giông tố
(hurricane)
mà nếu nhìn từ thượng
tầng khí quyển, nó giống
như một khối không khí
khổng lồ, xoay ngược
chiều
kim đồng hồ. Xin đọc
hiệu ứng Coriolis ở cuối
bài .
Khi
không khí ấm ở tâm bão
ngưng
đọng, nó sản xuất nhiệt
và vì
thế nó
đẩy không khí ấm ấy lên
cao hơn. Không khí ấm
cuối cùng vượt lên trên
cao nhất
– giống
như khói tỏa ra từ ống
khói lò
sưởi
– và
khí lạnh đổ dồn vào
choán chỗ. Bão
phát sinh từ một nhiễu
động nhỏ, tự nó thêm sức
mạnh bằng
chênh
lệch áp suất và cuối
cùng là gieo tàn phá
xuống mặt sinh quyển.
Truớc tiên chúng tôi
muốn các bạn phân biệt
giữa gió lốc (cyclone),
cuồng phong (hurricane)
và con
trốt(tornado). Nếu cả ba
từ cyclone, hurricane và
tornado đều gọi là bão
cả thì thật là khó phân
biệt cái nào khác cái
nào. Xin mạn phép
định nghĩa 3 từ này.
Gió
lốc (Cyclone):
Là gió lốc có sức xóay
từ 10 đến 60 dặm một giờ
(16 đến 97 kí lô mét);
vùng ảnh huởng có thể
rộng đến 1000 dặm (1600
kí lô mét đuờng kính),
di chuyển khỏang 25 dặm
một giờ (40 kí lô mét),
và kéo dài từ 1 đến vài
tuần .
Bão
tố (Hurricane):
Bão
tố (vùng Thái Bình Duơng
gọi là Typhoon, Đại Tây
Duơng gọi là hurricane).
Sức gió từ 75 đến 200
dặm một giờ (120 đến 320
kí lô mét), di chuyển từ
10 đến 20 dặm một giờ
(16 đến 32 kí lô mét),
vùng ảnh huởng có thể
rộng đến 600 dặm (960 kí
lô mét) và có thể tồn
tại từ vài ngày đến hơn
một tuần .
Con
trốt (Tornado):
Một
con trốt có thể đạt tốc
độ
300 dặm một giờ (400
kilomét), di chuyển từ
25 đến 40 dặm một giờ
(40 đến 64 kí lô mét),
và chỉ kéo dài vài phút
(cảm tạ ơn trên), dù
rằng đôi khi có con trốt
kéo dài đến 5, 6 giờ . Vòng
kính con trốt rộng từ
300 yards ( hay mã,
đơn vị đo tuơng đuơng .
9 mét . 300 yards bằng
274 mét)cho đến một dặm
(1.6 kí lô mét) và chiều
dài “luồng”, đuờng di
chuyển là 16 cho đến 300
dặm (26 kí lô mét đến
483 kí lô mét).
Người ta chia trái đất
thành 24 múi giờ theo
chiều dọc, gọi là kinh
tuyến . Từ xích đạo,
đuờng cách đều
2 cực Bắc Nam,
nguời ta chia thành 90
đuờng, với xích đạo là
zero, 90 là Bắc hay Nam
cực , gọi là vĩ tuyến .
Có 2 vĩ tuyến ngăn đôi
quốc gia là vĩ tuyến 17
phân chia Nam Bắc Việt
Nam và vĩ tuyến 38 phân
chia Bắc Nam Hàn trong
lịch sử. Ở cao độ thấp
trên mặt biển, áp suất
khí quyển khác nhau
thuờng là nơi thai nghén
những cơn bão.Vùng
phát sinh những cơn
bão
tạo thành một vành
đai từ vĩ tuyến 5 - 15
Bắc đến vĩ tuyến 5 - 15
nam bán cầu. Một con
trốt (tornado) thuờng
phát sinh ở cao độ vài
ngàn feet trên mặt đất,
luôn luôn trong điều
kiện thời tiết ấm và ẩm
uớt, nhiều khi có những
sấm sét đi kèm. Mặc dầu
con trốt (tornado)có thể
xẩy ra bất cứ đâu, hầu
hết chúng xuất hiện tại
bình
nguyên lục địa Bắc châu
Mỹ (ví dụ những tiểu
bang đồng bằng Đông Tây
New York
và những tiểu bang phía
Đông Nam Đại Tây Duơng
). 82/100 con trốt
(tornado) phát sinh
trong những giờ ấm nhất
trong ngày (trưa cho đến
nửa đêm), trong khi
23/100 của tất cả các
con trốt xẩy ra giữa 4
giờ chiều đến 6 giờ
chiều.
Kể
từ năm 1916 đến năm
2000 thì năm
1998 là năm có nhiều con
trốt (tornado) hơn cả .
Năm ấy (1998), 1424 con
trốt xảy ra sát hại 130
nguời . Ngày 3, 4 tháng
Tư
năm 1974 đạt kỷ lục với
148 con trốt đuợc ghi
nhận trong “siêu bức
phá” trong miền đại bình
nguyên (Great Plains) và
những
tiểu bang Trung Tây Hoa
Kỳ . Sáu trong số 148
con trốt này có sức gió
mạnh hơn 260 dặm (420 kí
lô mét) . Trong thập
niên 1990, số con trốt
tái diễn vuợt trội hơn
những thập niên truớc.
Năm
1995 có 1234 con trốt.
Năm
1996 có 1173 con trốt.
Năm
1997 có 1148 con trốt.
Năm
1999 có 1424 con trốt.
Bảng cuờng độ con trốt
theo tiêu chuẩn Fujita
và Pearson :
Theo tiêu chuẩn Fujita
và Pearson, phát triển
bởi T. Theodore Fujita
và Allen Pearson, con
trốt đuợc xếp hạng bởi
tốc độ gió, đuờng di
chuyển, bề dài và bề
rộng . Đôi khi đuợc gọi
là bảng Fujita, xếp hạng
từ F0 (rất yếu) đế F6
(phi thuờng) .
F0 - Hư hại nhẹ . Phá đổ
cây cối, bảng quảng cáo
và lò
suởi .
F1 - Hư hại vừa phải .
Hư hại nhà di động, xe
bị đẩy khỏi đuờng lộ .
F3 - Thiệt hại đáng kể .
Nhà trốc mái, nhà di
động bị đè bẹp, cây bứng
gốc .
F4 - Tàn phá . Nhà bị
lật đổ, xe bị cuốn bay
và các vật nặng bốc lên
không trung .
F5 - Hư hại vuợt sức
tuởng tuợng . Các kiến
trúc bị dở tung khỏi
nền và bị cuốn đi; xe
biến thành phi tiễn .
Chỉ khỏang duới 2/100
con trốt (tornado) đạt
tới mức này .
F6 - Con trốt với sức
gió tối đa chưa khi nào
vuợt quá 318 dặm một giờ
(511 kí lô mét) .
Cấp gió bão dành cho
hàng hải theo tiêu chuẩn
Beaufort :
Cấp gió theo thuớc
Beaufort đuợc thiết kế
năm 1805 bởi một thủy sư
đô đốc nguời Anh, Sir
Francis Beaufort
(1774-1857), để giúp các
nhà hàng hải điều khiển
tàu bè . Nó dung một
chuỗi số từ zero đến 17
để biểu thị tốc độ gió
và áp dụng cho cả biển
và lục địa.
--------- -----------
Cấp gió Beaufort |
|
Tốc độ gió (dặm
/ giờ) |
0 |
Yên lặng
|
ít hơn 1 dặm
một giờ |
1 |
Hơi gió di
chuyển |
1 - 3 dặm |
2 |
Gió rất nhẹ |
4 - 7 dặm |
3 |
Gió nhẹ |
8 - 12 dặm |
4 |
Gió vừa |
13 - 18 dặm |
5 |
Gió mạnh
|
9 - 24 dặm. |
6 |
Gió rất mạnh |
25 - 31 dặm. |
7 |
Gió giật vừa |
32 - 38 dặm |
8 |
Gió giật
|
39 - 46 dặm. |
9 |
Gió giật mạnh |
47 - 54 dặm. |
10 |
Gió giật rất
mạnh |
55 - 63 dặm. |
11 |
Gió bão |
64 - 73 dặm một
giờ |
12-17 |
Bão tố |
74
và mạnh hơn
|
Cách đặt tên bão
:
Từ năm 1950, tên các cơn
bão
đuợc chính thức tuyển
chọn từ thư viện và
đuợc biểu quyết trong
những hội nghị quốc tế
của Tổ Chức Khí Tuợng
Thế Giới (The World
Meteorological
Organization, viết tắt
là WMO). Tên bão
đuợc chọn
phản ảnh văn hóa và ngôn
ngữ thuộc vùng Đại Tây
Duơng, Caribbean và Hạ
Uy Di. Khi một cơn bão
nhiệt
đới với sức xóay và tốc
độ gió vuợt quá 39 dặm
(63 kí lô mét) khai
triển, Trung Tâm Bão
Quốc Gia gần Miami,
Florida, chọn một tên từ
1 trong 6 danh sách
tùy theo năm thuộc khu
vực 4 (Đại Tây Duơng và
Caribbean). Mẫu tự Q, U,
X, Y và Z không có trong
danh sách vì
những tên bắt
đầu bằng những mẫu tự
này rất hiếm. Một khi có
cơn bão
gây ra sự tàn phá khủng
khiếp, tên của nó bị xóa
trong danh sách của chu
kỳ 6 năm.
Khu vực Mỹ (Bắc Đại Tây
Dương):
Năm 2002 :
Arthur, Bertha,
Cristobel, Dolly,
Edouard, Fay, Gustav,
Hanna, isidore,
Josephine, Kyle, Lili,
Marco, Nana, Omar,
Paloma, Rene, Sally,
Teđy, Vicky, Wilfred .
Năm 2003 :
Ana,
Bill, Claudette, Danny,
Erika, Fabian, Grace,
Henri, isabel, Juan,
Kate, Larry, Mindy,
Nicholas, Odette, Peter,
Rose, Sam, Teresa,
Victor, Wanda .
Năm 2004 :
Alex,
Bonnie, Charley,
Danielle, Earl, Frances,
Gaston, Hermine, ivan,
Jeanne, Karl, Lisa,
Matthew, Nicole, Otto,
Paula, Richard, Shary,
Tomas, Virginie, Walter
.
Năm 2005 :
Arlene, Bret, Cindy,
Dennis, Emily, Franklin,
Gert, Harvey, Irene,
Jose, Katrina, Lee,
Maria, Nate, Ophelia,
Philippe, Rita, Stan,
Tammy, Vince, Wilma .
Năm 2006 :
Alberto, Beryl, Chris,
Debbie, Ernesto,
Florence, Gordon,
Helene, isaac, Joyce,
Kirk, Leslie, Michael,
Nadine, Oscar, Patty,
Rafael, Sandy, Tony,
Valerie, William
.
Năm 2007 :
Andrea, barry, Chantal,
Dean, Erin, Felix,
Gabrielle, Humberto,
Ingrid, Jerry, Karen,
Lorenza, Melissa, Noel,
Olga, Pablo, Rebekah,
Sebastien, Tanya, Van,
Wendy.
Có
nhiều khu vực đuợc chia
ra theo vị trí địa lý như
Bắc Đại Tây Duơng (gồm
Mỹ), Nam Đại Tây Duơng,
Đông Bắc Thái Bình
Duơng,
Trung Bắc Thái Bình
Duơng,
Tây Bắc Thái Bình
Duơng
(trong đó có Việt Nam),
Tây Úc, Bắc Úc, Đông Úc,
Tây Nam Ấn Độ Duơng. Ngòai
ra có những tổ chức nhỏ
hơn
cũng tự lên danh sách dự
bị này như Fiji, Phi Luật
Tân.
Chúng ta không cần biết
đến những nơi này vì
quá dài dòng nhưng
nếu bạn nào muốn biết
thêm, xin vào nơi này :
http://encyclopedia.thefreedictionary.com/Lists%20of%20tropical%20cyclone%20names
.
Khu
vực Việt Nam (Tây Bắc
Thái Bình Dương):
Riêng khu vực Tây Bắc
Thái Bình Duơng
gồm 14 thành viên của
Hội đồng bão
WMO (The World
Meteorological
Organization) là Cam
Bốt, Trung Cộng, Bắc
Hàn, Nam Hàn, Lào, Hồng
Kông, Nhật, Ma Cao, Mã
Lai, Phi Luật Tân, Thái
Lan, Mỹ, Micronesia và
Việt Nam . Mỗi thành
viên
đóng góp 10 tên bão
. Việt Nam ta đệ trình
những tên sau đây : Sao
Mai, Lekima, Ba Vì, Côn
Sơn,
Sơn Ca, Trà Mi, Hạ Long,
Vàm Cỏ, Sông Đà và Sao
La . 14 thành viên đóng
góp đuợc 140 tên và đuợc
gạn lọc lại theo mẫu tự
A, B, C bởi Trung Tâm Bão
Đông Kinh thuộc Cơ Quan
Khí Tuợng Nhật Bản
(Tokyo Typhoon Centre of
the Japanese
Meteorological Agency).
Quốc gia
thành viên
|
Names |
Cambodia
|
Damrey
|
Kong-rey |
Nakri
|
Krovanh
|
Sarika |
China
|
Longwang
|
Yutu |
Fengshen
|
Dujuan
|
Haima |
DPR Korea
|
Kirogi
|
Toraji |
Kalmaegi
|
Maemi
|
Meari |
Hong Kong
|
Kai-Tak
|
Man-yi |
Fung-wong
|
Choi-wan
|
Ma-on |
Japan
|
Tenbin
|
Usagi |
Kammuri
|
Koppu
|
Tokage |
Laos
|
Bolaven
|
Pabuk |
Phanfone
|
Ketsana
|
Nock-ten |
Macau
|
Chanchu
|
Wutip |
Vongfong
|
Parma
|
Muifa |
Malaysia
|
Jelawat
|
Sepat |
Nuri
|
Melor
|
Merbok |
Micronesia
|
Ewinlar
|
Fitow |
Sinlaku
|
Nepartak
|
Nanmadol |
Philippines
|
Bilis |
Danas |
Hagupit |
Lupit |
Talas |
RO Korea
|
Gaemi |
Nari |
Changmi |
Sudal
|
Noru |
Thailand
|
Prapiroon
|
Vipa |
Mekkhala
|
Nida
|
Kulap |
U.S.A.
|
Maria
|
Francisco |
Higos
|
Omais
|
Roke |
Vietnam
|
Saomai |
Lekima |
Bavi |
Conson |
Sonca |
Cambodia
|
Bopha |
Krosa |
Maysak |
Chanthu
|
Nesat |
China
|
Wukong
|
Haiyan |
Haishen
|
Dianmu
|
Haitang |
DPR Korea
|
Sonamu
|
Podul |
Pongsona
|
Mindule
|
Nalgae |
Hong Kong
|
Shanshan
|
Lingling |
Yanyan
|
Tingting
|
Banyan |
Japan
|
Yagi |
Kajiki |
Kujira |
Kompasu |
Washi |
Laos
|
Xangsane
|
Faxai |
Chan-hom
|
Namtheun |
Matsa |
Macau
|
Bebinca |
Peipah |
Linfa |
Malou |
Sanvu |
Malaysia
|
Rumbia
|
Tapah |
Nangka
|
Meranti
|
Mawar |
Micronesia
|
Soulik
|
Mitag |
Soudelor
|
Rananin
|
Guchol |
Philippines
|
Cimaron |
Hagibis |
Molave |
Malakas |
Talim |
RO Korea
|
Chebi
|
Noguri |
Koni
|
Megi
|
Nabi |
Thailand
|
Durian
|
Rammasun |
Morakot
|
Chaba
|
Khanun |
U.S.A.
|
Utor
|
Matmo |
Etau
|
Aere
|
Vicente |
Vietnam
|
Trami
|
Halong |
Vamco
|
Songda
|
Saola |
Gần đây vào đầu tháng 9
năm 2004 cơn bão
Frances hòanh hành ở
Florida kéo dài hàng
tuần lễ gây thiệt hại
khỏang 4 tỉ và 19 nguời
thiệt mạng. Khi Frances
lắng dịu, nguời ta thống
báo sẽ có 1 cơn
bão
nữa cũng
đang huớng vào Florida,
tên
Ivan. Theo danh sách nêu
trên, giữa Frances và
Ivan còn có Gaston và
Hermine . Vậy sao không
thấy ai nhắc nhở
đến 2 cơn bão
này ? Thưa
các bạn, nếu bạn làm chủ
1 chợ thực phẩm Việt
Nam, có lẽ bạn không
thèm đếm xỉa đến một vài
ngôi chợ Mỹ mới mở vì
nó không
ảnh huởng đến công việc
mua bán của bạn. Nhưng
nếu 1 ngôi chợ Việt nam
khác xuất hiện, bạn biết
ngay vì
nó chi phối rất nhiều
vào sự thịnh suy của
bạn. Nếu Gaston và
Hermine không
đuợc nhắc nhở trên báo
chí mà ta chỉ thấy cơn bão
Ivan
có lẽ 2 cơn bão
kia phát sinh từ biển,
quanh quẩn ở biển, tan
biến ở biển, tuyệt nhiên
không tiến vào đất liền
nên không ai biết tới ngòai
những nhà hàng hải và
khí tuợng học. Chúng ta
chờ xem Ivan giở trò gì
trong những ngày sắp
tới.
Tai họa thiên nhiên vĩ
đại nhất xảy ra khi một
cơn bão
tàn phá vùng Galveston,
Texas ngày mùng 8 tháng
9 năm
1900 sát hại 6000 nguời.
Tuy nhiên tai họa thiên
nhiên gây thiệt hại tài
sản lớn nhất là cơn bão
Andrew, tàn phá vùng
Florida ngày 31 tháng 8
năm
1992 và Lousiana ngày
mùng 1 tháng 9
năm
1992. Hệ thống báo động
dự phòng khiến tổn thất
về nhân mạng tuơng
đối thấp nhưng thiệt hại
về tài sản đuợc uớc
luợng là 20 tỉ đô la.
Xin nêu vài thông tin về
những cơn bão
tàn phá khủng khiếp
nhất.
Về
thiệt hại tài sản :
1.
Năm 1992, bão Andrew (SE
Florida, SE Lousiana)
gây thiệt hại 26.5 tỉ đô
la .
2. Năm 1989, bão
Hugo (S. Carolina) gây
thiệt hại 7 tỉ đô la .
3. Năm 1999, bão
Floyd (miền Trung
Đại Tây Duơng, Đông Bắc
Mỹ) thiệt hại 4.5 tỉ đô
la .
4. Năm 1996, bão
Fran (N. Carolina) thiệt
hại 3.2 tỉ đô la .
5. Năm 1995, bão
Opal (NW Florida,
Alabama) thiệt hại 3 tỉ
đô lla .
6. Năm 1998, bão
Georges (Florida Keys,
Mississippi) thiệt hại
2.31 tỉ đô la .
7. Năm 1979, bão
Frederic (Alabama,
Mississippi) thiệt hại 3
tỉ đô la .
8. Năm 1979, bão
Agnes (NE United
States)thiệt hại 2.1 tỉ
đô la .
9. Năm 1983, bão
Alicia (N. Texas) thiệt
hại 2 tỉ đô la .
10.
Năm 1991, bão Bob (N.
Carolina và NE United
States) thiệt hại 1.5 tỉ
đô la .
Hurricane Katrina

Bão
Katrina (NASA)
Mới
đây, Hurricane Katrina được
coi như
là cơn
bão có sức tàn phá nhất
trên đất Mỹ . Văn phòng
Khí quyển và Thủy quyển
Quốc Gia tuyên bố như
thế vào thứ Năm 15 tháng
9 năm 2005.
Sức
gió của Katrina đạt đến
175 mph và áp suất tối
thiểu trung tâm bão
xuống đến 902 milibars -
áp suất thấp hàng thứ 4
trong kỷ lục bão Đại Tây
Dương,
Trung Tâm Dữ Kiện Khí
Hậu Quốc Gia NOAA ghi
nhận. Sức gió Katrina
giảm bớt chút đỉnh khi
đổ bộ vào đất liền và có
bề yếu hơn
cơn
bão Camille đã tàn phá
bờ biển Mississippi
tháng 8 năm 1969. Nhưng
kích thước
của Katrina, trải rộng
120 dặm từ trung tâm,
lớn hơn,
hủy hoại nhiều hơn
Camille.
Sau đây là dữ kiện của
http://en.wikipedia.org/wiki/Hurricane_Katrina
Thời gian:
August 23
-
August 31,
2005
Sức
gió: 175 mph (265
km/h).
Tổn thất vật chất:
Từ $70 to $130 tỷ mỹ kim
(chiếm kỷ lục trong lịch
sử nhân loại)
Tổn thất nhân mạng:
1,281 (việc tìm vớt xác
chết vẫn còn tiếp diễn)
Vùng
ảnh hưởng:
Bahamas,
South Florida,
Louisiana
(
Greater New Orleans),
Mississippi,
Alabama,
Florida Panhandle,
hầu hết các tiểu bang
vùng duyên hải Đông Bắc
Mỹ .
Về
tổn thất nhân mạng :
1. Năm 1900 tại
Texas (Galveston), 6000
nguời thiệt mạng .
2. Năm 1928 tại
Florida (Hồ Okeechobee),
1836 nguời thiệt mạng .
3. Năm 1919 tại
Florida ( Keys, S.
Texas), 600 nguời ở
Florida và 900 nguời ơ>
Texas thiệt mạng .
4. Năm 1938 tại new
England, 600 nguời thiệt
mạng .
5. Năm 1935 tại
Florida (Keys), 408
nguời thiệt mạng.
6. Năm 1957 tại
Lousiana, Texas, 390
nguời thiệt mạng.
7. Năm 1944 tại NE
United States, 390 nguời
thiệt mạng.
8. Năm 1909 tại
Lousiana (Grand isle),
350 nguời thiệt mạng.
9. Năm 1915 tại
Lousiana ( New Orleans),
275 nguời thiệt mạng.
10.
Năm 1915 tại Texas
(Galveston), 275 nguời
thiệt mạng.
Hiệu ứng Coriolis
Hiệu
ứng Coriolis là một lực
quán tính (nôm na là lực
trớn), mô tả bởi nhà
toán học Tây thế kỷ 19
tên là Gustave - Gaspard
Coriolis năm 1835.
Coriolis bày tỏ rằng,
nếu luật chuyển động của
Newton tác động lên một
động tử (vật tử đang di
chuyển) trong mặt chứa
xoay tròn
(như
trái đất chẳng hạn), một
lực quán tính - phát
sinh và tác động về phía
bên phải của động tử nếu
mặt chứa xoay nguợc
chiều kim đồng hồ hay về
phía bên trái của động
tử ấy nếu mặt chứa thuận
chiều kim đồng hồ - phải
đuợc bao gồm trong những
đẳng thức về động tử .
Hiệu ứng Coriolis rõ
ràng làm lệch huớng của
một vật di chuyển trong
một hệ thống toạ độ xoay
tròn . vật thể không
thực sự lệch huớng của
nó nhưng
có vẻ như thế vì
chuyển
động của hệ thống tọa độ
(the coordinate system).
Hiện tuợng khoa học càng
rõ
rệt khi chúng ở trong
tình trạng khác thuờng
hoặc trong trạng thái
cực
độ. Thời gian đi chậm
lại và phi thuyền ngắn
đi chỉ đuợc thấy rõ
khi ở vận tốc cực độ . Lạ
lùng hơn, ở những nơi
khí hậu cực độ mà nhiệt
độ không khí nóng hơn
thân nhiệt (37 độ C) ta
phải mặc áo cho mát chứ
không nên cởi áo cho mát
. Vào mùa đông khi nhiệt
độ xuống độ âm, nhà bạn
bị mất điện nghĩa là máy
suởi bất khiển dụng,
khắp nơi buốt giá,
bạn nên ... thò tay vào
tủ lạnh cho ấm. Hehehe
ngộ heng.
Hiệu ứng Coriolis cũng
thế . Nó thể hiện rõ
ràng nhất trên con
đuờng của một vật tử di
chuyển dọc theo kinh
tuyến trái đất . Trên
mặt đất một vật di
chuyển dọc theo trục Bắc
Nam sẽ bị lệch qua bên
tay
phải nguời quan sát đứng
ở bắc cực, nếu ở bắc bán
cầu; lệch trái nếu ở nam
bán cầu. Có 2 lý do cho
hiện tuợng này :
Đầu tiên, trái đất xoay
theo huớng đông và thứ
nhì,
tốc
độ luợng giác của một
điểm trên trái đất là
một hàm số kinh tuyến
(tốc độ bằng zero ở cực
và tăng tiến tối đa ở
xích đạo). Điều này, nếu
một viên đạn tầm xa đuợc
bắn về huớng bắc từ một
điểm ở xích đạo, đạn đạo
sẽ lệch qua huớng đông .
Sự sai lệch này xảy ra vì
đạn đạo di chuyển qua
huớng đông nhanh hơn ở
xích đạo hơn ở cực.
Giống như vậy, nếu bắn
viên đạn về huớng xích
đạo từ bắc cực, đạn đạo
sẽ vạch một đuờng lệch
qua bên phải con đuờng
nó đã
nhắm. Truờng hợp này,
mục tiêu phải di chuyển
về huớng
đông truớc khi viên đạn
chạm mục tiêu vì
ở xích
đạo, mục tiêu di chuyển
nhanh hơn. Để chúng tôi
giải thích cụ thể hơn.
Chu vi trái đất là 24000
miles. Trái đất xoay 24
giờ hoàn tất 24 ngàn
miles. Như vậy, một điểm
cố định như mũi Cà Mau
di chuyển qua bên phải
1000 miles một giờ trong
khi một điểm ở giữa bắc
cực không dời chỗ. Nếu
Bin Laden bắn 1 viên đạn
từ bắc cực nhắm vào Cà
Mau, và nếu viên đạn đi
hết một tiếng đồng hồ,
rất có thể thằng Thái
Lan lãnh búa.
Hiệu ứng Coriolis do
đó liên hệ với chuyển
động của vật thể, chuyển
động của trái đất và
kinh tuyến. Hiệu ứng này
có ý nghĩa rất
quan trọng
trong thiên văn và trong
thiên thể động học,
trong đó nó đóng vai trò
kiểm soát huớng xoay của
các nhiễu
điểm mặt trời . Nó cũng
quan trọngtrong khoa học
trái đất, đặc biệt ngành
khí tuợng, địa lý
và khảo sát
đại duơng trong đó trái
đất là một mặt xoay và
mọi chuyển động trên nó
chịu ảnh huởng gia tốc
bởi lực đã kể.
Điều này, lực Coriolis
minh họa nổi bật trong
nghiên cứu về khí động
học trong đó nó ảnh
huởng sức gió, sức xoáy
của bão và trong
thủy quyển, (tức nuớc
biển đó)nó ảnh huởng đến
các luồng nuớc trong
đại duơng.
Thưa các bạn.
Bây giờ chắc các bạn
hiểu tại sao bão, gió
lốc ở bắc bán cầu luôn
xoáy ngược
chiều kim đồng hồ và ở
nam bán cầu luôn xoáy
theo chiều kim đồng hồ
rồi chứ. Chính là hiệu
ứng Coriolis đấy. Xem dự
báo thời tiết thấy người
ta dùng hình vi tính
minh họa cơn
bão
giống như
cái chong chóng xoay ngược
chiều kim đồng hồ vì Mỹ
ở Bắc Bán cầu. Không chỉ
bão, ngay cả khi bạn xả
nước
bồn tắm hay xả nước
bồn
rửa chén, nước
cũng xoáy ngược
chiều kim đồng hồ. Các
bạn vào bồn tắm làm thử
xem. Sau đó gọi điện
thoại cho người quen ở
bên Úc, bảo họ xả nước
bồn tắm xem có phải bên
Úc, nước bồn tắm xoáy
theo chiều kim đồng hồ
hay không. Hiệu ứng
Coriolis cả đấy!
Thuyền và biển .
...
... ... ...
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mang nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ,
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau - rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải xa cách anh
Em chỉ còn bão tố
Xuân Quỳnh
Sự mật thiết giữa thuyền và biển không phải tự nhiên mà có. Truớc tiên biển cần thuyền để tạo ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình. Sóng thét, gió gào hay biển êm sóng lặng để làm gì khi biển tỏ thái độ chỉ với hư không? Biển cần thuyền tỉ như một tác phẩm cần nguời thuởng ngọan, một đóa hoa cần nguời nhìn ngắm . Biển cũng biết cảm xúc khi có kẻ cần mình nên chia sớt nhiều tôm to cá lớn khi thuyền ra biển và khi thuyền nghỉ bến, biển hóa thành mây, đem nuớc đi tới thuyền gieo rắc nguồn sống. Nguợc lại thuyền cũng biết tình biển bao la như thế nào nên không giận mỗi khi biển thịnh nộ vì biển chỉ tỏ thái độ mỗi khi vắng thuyền thôi. Biển nhớ thuyền nên gầm gừ gào thét.
Tóm lại để nảy sinh mật thiết và sau đó phát triển thành tình yêu, điều kiện tối yếu là phải thấy đuợc cái không thể thiếu nhau giữa nhau. Hiểu đuợc điều ấy, biến cái năng lực vô cùng của biển thành nguồn sống của chính mình qua tôm cá và nuớc mưa, biển tìm đuợc lẽ hiện hữu và thuyền tìm đuợc lẽ sống trong tình lứa đôi.
Để hành văn theo kiểu Xuân Quỳnh, chúng tôi xin kết luận. Hãy thay biển bằng bão, thay thuyền bằng con nguời. Bão chỉ thấy đuợc chân thân khi giúp ích cho đời và nguời phải hiểu bão để có thể một ngày nào đó, vận dụng sức mạnh của bão trong việc kiến thiết thay vì tàn phá. Ta chế ngự đuợc nuớc làm ra điện, sẽ có một ngày ta “đóng hộp” bão để dành xài như một lọai năng luợng dự trữ. Mong thay! |
|
|
|