Báo Cáo Ajinomoto(phần 4)

Vietsciences- Hồng Lê Thọ           07/10/2008
 

Những bài cùng tác giả

 

4- CHIẾN LƯỢC KINH DOANH SẢN PHẨM THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG CỦA FDG VÀ AJINOMOTO

---Sẵn sàng đặt cược toàn bộ tương lai---

4-1 Nỗ lực phối hợp giữa những chuyên môn khác nhau

Hoạt động của FDG-Thai lan(từ đây viết gọn là FDG) giúp tập đoàn AJT tập trung vào việc phát triển một cách thân thiện môi trường trong sản xuất axít amin. Trong hình 5-6 chúng tôi đã mô tả sơ đồ liên hệ giữa AJT và FDG, với cộng đồng địa phương và môi trường.

Sự kết hợp FDG vào AJT có hai lợi thế: cải tiến và giảm thiểu gánh nặng về môi trường trong hoạt động sản xuất axít amin, có khi còn cải thiện luôn cả môi trường. Lợi điểm thứ nhất là việc cô lập chất thải lỏng và rắn, sản phẩm phụ (chất trung gian phát sinh trong quy trình) từ công nghệ của mình, AJT có thể tập trung đóng góp vào việc quản lý môi trường trong khu vực cần đến chuyên môn như xử lý nước thải; kiểm soát độc chất trong khí thải phát sinh; giảm phát tán khí CO2(làm trái đất ấm lên—HLT) qua việc nâng cao hiệu suất và giảm năng lượng tiêu thụ trong quy trình lên men.

Lợi điểm thứ nhì là qua việc có được một công ty nông nghiệp dựa trên quản lý việc sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường, là FDG, chất rắn và lỏng trung gian của quy trình lên men của Ajinomoto có thể bán giá cao dựa trên sự nghiên cứu và phát triển những gì mà nông dân sở tại thật sự có nhu cầu. Như thế hậu thuẩn nông nghiệp tốt hơn, việc tiếp thu ý kiến của các chuyên gia khuyến nông và có những bằng chứng khoa học tin cậy trong tay, doanh số tiêu thụ phân bón có thể khả quan hơn.

Trong vai trò một công ty nông nghiệp sở tại, FDG có thể xử lý các loại vật tư tương tự ở các ngành công nghiệp khác. Điều này đóng góp thêm vào việc quản lý môi trường của công ty và dịch vụ của FDG có thể vươn xa ngoài tập đoàn, hình thành một phần của cấu trúc cơ sở hạ tầng xã hội tại cộng đồng địa phương. Do đó, dịch vụ mở rộng quản lý môi trường này của FDG sẽ đóng góp vào việc giảm bớt gánh nặng môi trường cho địa phương.

FDG cũng đã khởi động xong (cụ thể là vào năm 2004) bước hội nhập vào trình độ chuyên môn trong canh tác nông nghiệp qua việc trồng thí điểm cây khoai mì. Mục đích của việc này là giảm chi phí trong một vụ mùa và quan trọng hơn nữa là việc tăng sự hấp thu khí CO2 trong một đơn vị khu vực nông nghiệp một cách đáng kể.

Qua việc phân định rõ các chức năng của Ajinomoto và FDG, cả hai tổ chức có thể dồn sức vào lĩnh vực chuyên môn của mình, và FDG, do được độc lập, có thể vươn tầm chuyên môn của mình trong việc quản lý môi trường ra ngoài phạm vi công ty.

Hình 5-6 Kiều mẫu liên kết nhau nhằm tạo ra hệ thống sản xuất thân thiện môi trường và mối liên hệ với cộng đồng địa phương của

Ajinomoto Thái Lan và FDG (Nguồn: Fukushi 2006 thêm vào)

4-2 Dùng công ty FDG để thử nghiệm và hiệu quả hóa chiến lược kinh doanh với các mô hình

Trong nhiều hoàn cảnh kinh doanh, điều cơ bản trong tranh luận là liệu chúng ta sẽ đặt ưu tiên vào môi trường hay vào kinh tế. Câu trả lời của chúng tôi là, dứt khoát cần cả hai. Chúng tôi sẽ cố gắng thoả mãn cả về môi trường lẫn kinh tế. Mọi người đều muốn việc kinh doanh phát triển và đóng góp cho nhân loại trên thế giới, thế thì tại sao luôn có thất bại và thành công ? Nếu như có sự khác biệt giữa con người và công ty thành công với con người và công ty thất bại, thì chúng tôi nghĩ rằng đó là sự khác biệt về biên độ của lòng quyết tâm và chiến lược thực hiện. Khi một người thật sự ham muốn một điều gì đó thật mãnh liệt đến nỗi anh ta sẵn sàng đặt cược toàn bộ tương lai của mình vào một vòng xoay của bánh xe may rủi để đạt được nó, anh ta chắc chắn sẽ thành công (Hill 1960).

Để tạo ra một công ty thân thiện môi trường, bản thân chúng tôi và FDG đã cương quyết nhắm tới sự thành công của nó. Về mặt chiến lược, chúng tôi dùng khái niệm và mô hình kinh doanh được Donald Mitchell et al. (1999) phát triển trong “Giải pháp 2000 phần trăm”, là tạo thành công luỹ thừa cho kinh doanh bằng cách loại bỏ sự bảo thủ. Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp của Mitchell & Coles (1999) trong “Lợi thế cạnh tranh tối thượng”, giảng giải về một mô hình kinh doanh liên tục thay đổi mới đảm bảo thành công.

Như chúng tôi đã giải thích , các vấn đề về môi trường đã vượt qua Điểm Bất Khả Hồi (Point of No Return -PNR). Do đó chúng tôi cần biện pháp đối phó nhằm duy trì một môi trường khả dĩ sống được; chúng tôi cần thành công luỹ thừa để vượt qua những vấn đề môi trường đang phát sinh theo cấp luỹ thừa.(nạn ô nhiễm ngày càng trầm trọng—HLT). Những giải pháp tốt nhất về công nghiệp hiện tại, mà nhiều trường dạy kinh doanh nhấn mạnh vào trong các mẫu phân tích học tập, đã không cung cấp giải pháp nào cho sự thành công luỹ thừa. Chúng tôi cần phải vượt khỏi những giới hạn của mô thức kinh doanh tốt nhất hiện thời bằng việc loại trừ những sự trì trệ(hay bảo thủ), qua đó ấn định những tiêu chí mới giúp chúng tôi theo đuổi lý thuyết thực hành tốt nhất, như vậy mới phát triển luỹ thừa để kịp giải quyết những vấn đề môi trường tương ứng.

Chúng tôi đã nhân gấp ba hoạt động kinh doanh của FDG trong vòng 3 năm qua với sự nỗ lực phi thường của các đồng nghiệp tại AJT và FDG,hiện nay đang trù hoạch để phát triển luỹ thừa nhanh hơn nữa trong đường lối thân thiện môi trường và có trách nhiệm với xã hội. Một khái niệm kinh doanh mới, gia cố bằng mô hình kinh doanh thay đổi liên tục và nhắm đến lý thuyết đúng đắn tốt nhất, sẽ giúp các công ty đạt được lợi thế cạnh tranh tối thượng. Chúng tôi cố gắng ứng dụng khái niệm kinh doanh được phát triển của Mitchell et al., đóng góp vào sự bền vững môi trường, tinh thần trách nhiệm xã hội và cho sự thành công to lớn của FDG, nhân viên của nó, các khách hàng và cộng đồng địa phương.

Ứng dụng vào hai chiến lược kinh doanh xuất sắc nêu trên, chúng tôi đã phát triển chiến lược cho việc kinh doanh thân thiện môi trường, và một bộ khung khái niệm cho sự kinh doanh có thân thiện môi trường , cả hai được chúng tôi dùng làm chiến lược kinh doanh cho FDG.

Nhờ AJT không còn âu lo về sản phẩm phụ, tập trung vào công tác chính mà nó đã rất am hiểu. Từ đó, sản xuất hiệu quả và thân thiện với môi trường có thể được tạo ra, dẫn đến thành quả tạo dựng một môi trường tốt đẹp hơn bởi các xưởng AJT. Thí dụ như lượng nước thải xả ra đã giảm khoảng 20% giữa năm 2001 và 2002. Xử dụng năng lượng hiệu quả của nhà máy cũng cải thiện khoảng 20%. Nhà máy Ajinomoto Kampenphet bán hơn 99,9% vật tư trung gian trong quy trình của nó cho FDG (Kizen 2004). FDG chuyển đổi toàn bộ vật tư trên thành phân bón cao cấp. Điều này là 1 triệu phần trăm tiến bộ so với ngày xưa khi hầu hết những vật tư này dùng san lấp hoặc đổ xá xuống biển sâu.(mà công ty Vedan đã và đang làm lén lút ở Việt Nam trong 14 năm qua—HLT)

4-2-1 Ma trận về “Khái niệm sản phẩm toàn bộ”, “Cung cấp năng lượng” và “Chuổi giá trị”

Khái niệm Toàn bộ là sản phẩm (APC), Cung cấp năng lượng và Chuổi giá trị là những khái niệm trong việc giảm thiểu gánh nặng cho môi trường trong quy trình sản xuất, để đạt được một sự thân thiện môi trường. AJT quen xem vật tư trung gian trong quy trình là những chất thải, tuy nhiên khi APC được áp dụng, quy trình được thiết kế lại sao cho mọi thứ trong quy trình đều bán được như là những sản phẩm chính. (Hình 5-7)

Hình 5-7 Khái niệm Toàn bộ là sản phẩm (APC)

Nguồn: Hiroshi Fukushi (2006), Chiến lược tiếp cận kinh doanh thân thiện môi trường (USA, Dissertation.com), p124.

AJT và FDG đều áp dụng nguyên tắc APC này. Sản phẩm của AJT là bột ngọt và nguyên liệu thô công nghiệp giao cho FDG. Phần mình, FDG gia công thêm giá trị vào phân bón, thức ăn gia súc và các sản phẩm công nghiệp khác. Do không còn chất thải, hiệu suất xử dụng năng lượng và nguyên vật liệu lên cao nhất, giá trị sản phẩm cũng tăng cao trong lúc gánh nặng về môi trường bị hạ xuống tối thiểu. FDG có thể làm gia tăng vật tư và chu kỳ năng lượng cho cộng đồng địa phương, bao gồm cả các nhà máy địa phương khác cũng như với AJT.Đây là một áp dụng của ESVC mà chúng tôi đã trình bày trong phần trước. Nó giúp cho không những AJT và FDG mà còn cộng đồng địa phương với / hoặc những nhà máy nước ngoài nào khác có tham gia, được cải tiến tốt hơn ở cấp số nhân như trong lý thuyết về mặt tiêu thụ năng lượng và vật tư, kết quả là giảm thiểu cũng ở cấp số nhân lượng khí thải CO2 vào cộng đồng địa phương. (Hình 5-8)

Hình 5-8 Cung cấp Năng lượng và Chu kỳ Giá trị chung quanh FDG

Nguồn: Hiroshi Fukushi (2006), Chiến lược tiếp cận kinh doanh thân thiện môi trường (USA, Dissertation.com), p132.

4-2-2 Chiến lược, tầm nhìn và khẩu hiệu công tác (slogan) của FDG

Chúng tôi đang áp dụng "Chiến lược ma trận cho kinh doanh phát triển thân thiện môi trường" vào công việc phát triển FDG . Ma trận công việc kinh doanh thân thiện môi trường có thể được dùng như một bản đồ chiến lược để hoạch định phương pháp liên tục cải tiến mô hình kinh doanh trong sự nghiệp kinh doanh phát triển thân thiện môi trường,

Ở Thái Lan, nền kinh tế truyền thống và tư bản song song tồn tại. Ở vùng quê, ngành công nghiệp chủ yếu là phục vụ nông nghiệp và đời sống người dân chủ yếu dựa vào nền kinh tế truyền thống. Vài nhà máy của AJT đặt tại vùng nông thôn Thái Lan, nơi mà nền kinh tế truyền thống vẫn còn tồn tại. Hầu hết nông dân đều thiếu thốn tiền mặt và còn yếu kém về kiến thức nông nghiệp hiện đại, các chất hóa học lẫn kỹ thuật canh tác. Máy móc nông nghiệp và trang thiết bị còn khá thiếu thốn so với những nước đã phát triển.

Mặt khác, ở khu vực thành thị thì nền kinh tế tư bản chiếm lĩnh toàn bộ, GDP hàng năm tăng nhanh chóng ở mức 6,1% (2004). Tuy nhiên, sự thiếu thốn cơ sở hạ tầng để đối phó với chất thải công nghiệp nên càng làm tình hình môi trường thêm tệ hại .

FDG áp dụng hai chiến lược ma trận của việc kinh doanh thân thiện môi trường: một cho nền kinh tế thị trường và một cho nền kinh tế truyền thống. Ma trận cho nền kinh tế thị trường có hai yếu tố: Sản phẩm Xanh và Đổi mới Dịch vụ cùng với Xây dựng hệ thống Xanh hóa. Ma trận cho nền kinh tế truyền thống cũng có hai yếu tố: Sản phẩm Xanh và Đổi mới Dịch vụ cùng với Đổi mới Luận thuyết Môi trường Xanh Tầm nhìn và khẩu hiệu của FDG dựa trên ý tưởng tạo dựng một công ty lý tưởng cho sự phát triển công nghiệp bền vững và bảo tồn môi trường lành mạnh.

Tầm nhìn:

Bắt đầu từ việc quản lý môi trường cho công nghiệp lên men vi sinh tạo axít amin và kỹ nghệ địa phương ở Thái Lan, ước mơ của chúng tôi là trở thành một công ty kinh doanh nông nghiệp đa dạng có thân thiện với môi trường, phục vụ như một cơ sở hạ tầng xã hội quan trọng trong việc giảm thiểu phát tán nguy hại phát sinh từ công nghiệp vào môi trường sống, qua đó giúp chúng tôi đạt được sự phát triển thân thiện môi trường cho kỹ nghệ địa phương và bảo tồn được môi trường sống tốt đẹp. Bằng việc làm của mình tại Thái Lan, chúng tôi sẽ làm cho môi trường thế giới tốt đẹp hơn.

Khẩu hiệu công tác (Slogan):

CHÚNG TÔI SẼ LÀM CHO THẾ GIỚI CÓ MÀU XANH

 

Hình 5-9a “Bành trướng cơ sở Xanh hoá môi trường” của FDG Trong nền kinh tế truyền thống ở Thái Lan

Nguồn: Luận án của Fukushi (2006)

 

Hình 5-9b “Đổi mới Xanh hoá Môi trường” của FDG Trong nền kinh tế thị trường ở Thái Lan

Nguồn: Luận án của Fukushi (2006)

5 PHẢN HỒI VÀ NHỮNG NHẬN XÉT VỀ FDG

FDG đang nhận được những phản hồi và nhận xét tích cực từ trong lẫn ngoài AJT và công ty Ajinomoto.

Thường thì khách tham quan từ nội bộ của tập đoàn Ajinomoto có khuynh hướng bị ấn tượng bởi sự lớn mạnh nhanh chóng trong việc kinh doanh và kết quả tài chánh khả quan của FDG. Các vị khách ở ngoài tập đoàn Ajinomoto, chẳng hạn như các tổ chức phi chính phủ(NGO) và các tổ chức chính phủ, cũng mang ấn tượng tốt đẹp bởi biên độ phức hợp và tính hiệu quả về năng lượng và tái sinh nguyên liệu, bất ngờ thú vị trước những hoạt động giảm thiểu gánh nặng môi trường.

Những kết quả đáng khích lệ này đã vượt xa sự mong đợi của chúng tôi và động năng làm việc của công nhân tăng cao chưa từng thấy. Tại FDG, chúng tôi có gắng mở rộng việc phổ biến thông tin đến các vị khách và trao gởi những thông điệp về việc phát triển thân thiện môi trường.

Chúng tôi cam kết giữ gìn môi trường sống của mình sạch sẽ để chào đón thế hệ tương lai và theo đuổi đường lối mà CHÚNG TÔI BIẾT RẰNG NÓ SẼ LÀM CHO THẾ GIỚI MANG MÀU XANH.

6 TỔNG KẾT

1- Những vấn đề về môi trường trong công nghiệp lên men vi sinh tạo axít amin bao gồm một “quan điểm bảo thủ” cho rằng “phù hợp với môi trường sẽ gánh chịu chi phí buộc công ty phải hy sinh lợi nhuận và tính cạnh tranh”. Quan điểm văn hoá cổ lổ này, truyền thống của ngành công nghiệp, có thể cải biên lại thành “nhấn mạnh vào truyền thống cho rằng phát triển thân thiện môi trường là chi trả rồi tạo ra nhiều lợi nhuận hơn” qua việc tiến trình “Phá tan bảo thủ” để cải thiện hoạt động của ngành công nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và giúp duy trì sự phát triển của ngành.

2- FDG được thành lập bởi tập đoàn AJT như là một sản phẩm của sự nhấn mạnh vào truyền thống tích cực. Những lợi thế từ sự độc lập của một công ty quản lý môi trường đã được phân tích qua hệ thống phân tích SWOT, cho thấy rằng sự tách biệt chức năng như thế sẽ nâng cao hiệu quả của từng hoạt động và do đó giúp cho mỗi nhóm điều hành tốt hơn trong việc giảm thiểu gánh nặng cho môi trường và có được những cơ hội để mở rộng chuyên môn sang các lĩnh vực công nghiệp khác:

• AJT có thể tập trung vào việc cải thiện hiệu quả xử dụng năng lượng và vật tư trong quy trình sản xuất nhằm giảm thiểu gánh nặng môi trường; và

• Chuyên môn của FDG trong quản lý môi trường có thể chuyên sâu hơn và việc bao trùm dịch vụ về quản lý môi trường có thể mở rộng ra ngoài tập đoàn Ajinomoto để đóng góp cho sự phát triển môi trường địa phương ở Thái Lan.

• FDG sử dụng “Ma trận cho chiến lược kinh doanh thân thiện môi trường” để ảnh hưởng đến những thay đổi liên tục trong mô hình kinh doanh (Mitchell & Coles 2003) nhằm giúp cho công ty lớn mạnh và đóng góp vào sự cải thiện môi trường trong công nghiệp lên men vi sinh và địa phương Thái Lan, dần dần vươn xa tầm ảnh hưởng bao trùm các ngành công nghiệp địa phương khác tiến đến giao thương cùng thế giới. Khái niệm “Mọi thứ đều là sản phẩm”, “Cung cấp năng lượng” và “Giá trị xoay vòng” là những khái niệm căn bản áp dụng cho AJT và FDG để đạt được một mức độ rất cao về xử dụng hiệu quả năng lượng và vật tư, qua đó giảm thiểu rõ rệt gánh nặng môi trường và giúp việc kinh doanh được phát triển bền vững ./.

Người dịch : Nguyễn Thanh Quyền

Hồng Lê Thọ hiệu đính

Tham khảo

“Báo cáo môi trường của tập đoàn Ajinomoto năm 2004”

 

Tài liệu sử dụng trong bản báo cáo nầy:

Akira Kizen (2004), “Zero Emi Tsushinbo Thai Ajinomoto Kampenphet koujyou

             (bản dịch tiếng Anh; Báo cáo thẩm định về mức phán tán ô nhiễm bằng Zero của Ajinomoto   

             Thailand Co., Ltd. -Nhà máy Kampenphet-), Nikkei Ecology, 2004,   

             May, pp 64-65.

Donald Mitchell và Carol Coles (2003), Lợi điểm Cạnh tranh Tối thượng (The Ultimate Competitive Advantage), (CA, the USA: Berrett-Koehler Publishers, Inc.).

Donald Mitchell, Carol Coles và Robert Metz (1999), “Giải pháp 2000 phần trăm” (The 2,000 Percent   

              Solution,(NY, the USA: Authors Choice Press).

FIDINAP, United Nations, Thông tin về phân bón tại Thái Lan (Fertilizer Information in Thailand),

             FINANDIP (n.d.) [Online], Available;  

             http://www.fadinap.org/Thailand/indicators.htm, 

             [Thu thập vào ngày 24/8/2005].

Hiroshi Fukushi (2006), Chiến lược tiếp cận Kinh doanh bền vững môi trường (A Strategic Approach to the Environmentally Sustainable Business), (the USA: Dissertation.com).

Hiroshi Fukushi (2006), Luận án đã nộp cho phân khoa Nghiên cứu Tốt Nghiệp của Viện Đại học Rushmore (Dissertation submitted to the faculty of Graduate Studies of Rushmore University).

Napoleon Hill, “Ý tưởng và Phát tài” (Think & Grow Rich (1960)), (the USA: Fawcett Books). 

Biện pháp bảo vệ môi trường của các công ty Nhật ở hải ngoại -Thái Lan. (Overseas Environmental Measures of Japanese Companies (Thailand), Báo cáo nghiên cứu các xu hướng đánh giá môi trường liên quan đến hoạt động hải ngoại các công ty Nhật niên khóa 1998 (Research Report on Trends in Environmental Considerations related to Overseas Activities of Japanese Companies FY 1998

Lời nói cuối của người hiệu đính

Nếu theo dõi từ đầu tư liệu “báo cáo của Ajinomoto” nầy độc giả dễ dàng nhận thấy đây là một tài liệu có tính chất “đánh bóng” thương hiệu Ajinomoto, giải thích vòng vo những nổ lực của tập đoàn nầy trong việc lập ra một công ty con tại Thái Lan để tiêu thụ “phân bón” được sản xuất từ chất thải của nhà máy bột ngọt, không những làm tăng doanh thu, mà còn giải quyết được nạn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nếu không được xử lý nghiêm túc. Trong suốt 51 trang (nguyên bản) của báo cáo nầy, người ta không tìm thấy hai chữ “ô nhiễm” trong bài viết. Các tác giả cố tình né tránh, e ngại rằng sẽ gây ấn tượng “không đẹp” cho những sản phẩm làm ra. Những thuật ngữ có dính dáng đến ô nhiễm, độc hại, bệnh tật… tuyệt đối tìm cách diễn đạt khác, tế nhị hơn như “thân thiện” với môi trường, “tăng cường”(enhancer) hương vị… cũng không ngoài mục đích đó. Nói khác đi ngành sản xuất MSG vốn đã bị tai tiếng là một ngành gây ô nhiễm tai hại khắp nơi chúng có mặt, cụ thể nhất là những nhà máy của công ty Vedan(Đài loan), MiWon(Hàn quốc) hay Ajinomoto(Nhật bản)* tại Việt nam hiện vẫn đang là vấn đề nóng bỏng trong những ngày gần đây vì tác hại từ nước thải ra sông ngòi đã lên đến mức báo động đỏ.

Dù vậy, chúng tôi sử dụng “báo cáo” nầy làm tư liệu vì những lý do sau đây:

-Qui trình công nghệ sản xuất và xử lý nước thải của nhà máy sản xuất bột ngọt không kèm theo thiết bị xử lý chất thải thỏa đáng và tương thích, thường tìm mọi cách thải thẳng “chui” ra sông ngòi để tiết kiệm chi phí đầu tư ban đầu( như ở Trung quốc, Thái lan hay nước khác…) phá hoại nghiêm trọng đến môi trường gây thiệt hại cho môi sinh, con người ở địa phương có nhà máy là một thực tế tương đối phổ biến. Qua sơ đồ kĩ thuật và số liệu trong bài sẽ giúp các nhà nghiên cứu và quản lý môi trường có điều kiện tham khảo khi thanh kiểm tra những thủ đoạn gian dối và xảo quyệt của tập đoàn Vedan cũng như những cơ sở tương tự.Thông thường những chi tiết kỹ thuật nầy được giữ rất bí mật đối với bên ngoài, ngay cả “công suất” thực sự của từng công đoạn trong qui trình sản xuất cũng bị ém nhẹm. Với một qui trình sản xuất khép kín với bồn chứa, van ống chằng chịt trong nhà máy làm bó tay những ai không nắm bắt về kỹ thuật là điều dễ hiểu.

-Qua tài liệu nầy Ajinomoto chính thức xác nhận là có thể áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật để khắc phục ô nhiễm, xử lý chất thải của nhà máy chế biến. Theo tiết lộ của ông Tsuji Takeshi, giám đốc Ajinomoto tại Việt nam thì chi phí trang thiết bị xử lý tương đương 1,2-1,3 đô la/tấn sản phẩm hay như Ông Nguyễn văn Sơn, cựu giám đốc nhà máy bột ngọt(1968-1975) cho biết “ một quy trình xử lý chất thải có nhiều BOD và tính axít của ngành bột ngọt, chi phí này làm đội giá thành lên trung bình khoảng 15% “ . Nếu dùng con số nầy để tính toán số tiền Vedan phải nộp phạt trong 14 năm qua theo công suất đăng kí của các phân xưởng thì chúng ta sẽ thấy con số 217 triệu đồng “phí môi trường” mà Bộ Tài Nguyên môi trường Việt nam đưa ra là quá khiêm tốn và dễ dãi ! Từ những thông số tham khảo nầy, cơ quan bảo vệ môi trường của Việt nam có thể yêu cầu các nhà máy sản xuất MSG phải đầu tư thích đáng để được giấy phép hoạt động trở lại trên đất nước Việt Nam. Điều mà vị Phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai cho rằng “Vedan quá siêu” và tinh vi đến độ địa phương không tìm ra manh mối của những chất thải với báo chí trong lúc vụ án Vedan được phơi bày ra ánh sáng trong tháng 9 vừa qua là một điều vừa buồn cười vừa đau lòng(!?) nếu như đó là sự thật hay có những “sự thật” khác mà người dân chưa được biết trong một thời gian hơn một thập kỉ ?

-Vấn đề chất thải của nhà máy sản xuất MSG được chế biến thành phân bón vốn không mới mẻ gì. Ajinomoto đã ứng dụng kĩ thuật nầy từ những năm 1980 khi vấn đề ô nhiễm của nhà máy sản xuất bột ngọt trở thành tâm điểm phê phán trên công luận và Ajinomoto cũng đã đưa phân bón nầy từ nhà máy ở Indonêxia sang Việt nam để thử nghiệm trong một thời gian dài(1993-1997) trước khi chính thức bắt tay vào việc sản xuất sản phẩm phân bón Ami-Ami. Trong thời gian đầu Ajinomoto đã phát không cho nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long để quảng bá, gây nhiều tai tiếng và nghi ngờ về hiệu quả thật sự khi xét nghiệm dung dịch có pha Ami-Ami. Thật là “Nhất cử lưỡng tiện”. Hơn thế nữa qua “báo cáo” nầy chúng ta có thể thấy Ajinomoto đang lập lại ở nước ta những gì mà họ đã thành công ở Thái lan trong lĩnh vực nầy và đó là mục đích cao nhất của những người chấp bút “báo cáo của Ajinomoto”.

Tuy nhiên điểm mấu chốt và quan trọng nhất là có nên dùng bột ngọt trong đời sống, lương thực, thực phẩm hàng ngày hay không ? Để có câu trả lời, xin mời bạn đọc theo dõi bài “Hồ sơ tội ác của bột ngọt/MSG” trên trang web Vietsciences.free.fr, mục “Vụ án Vedan” 4 và loạt bài của tác giả về những vụ án gây ô nhiễm tại Nhật bản .

Tổ chức y tế thế giới đã ra khuyến cáo “người lớn hay trẻ thơ trên 12 tuần tuổi không nên dùng trên 120 mg/ 1 kg thể trọng/ ngày, có nghĩa là không nên sử dụng 6 gr/ngày cho người nặng 50 kgs”. Nhật bản là nước phát minh ra bột ngọt gây ảo giác nầy cũng đã giảm thiểu việc sử dụng MSG trong đời sống người dân từ những năm 1980 khi vấn đề ung thư , tiêu hóa, gan thận, thần kinh, bệnh mất trí nhớ(Alzheimer), Parkinson(run rẩy tay chân, co giật cơ bắp) và nhẹ nhất là các chứng dị ứng, phù nề, ngứa ngáy…phát sinh từ việc tiêu thụ bột ngọt được phổ biến. Dù vậy, ngày nay trong các loại thực phẩm chế biến như giò chả, mì ăn liền, thịt cá đóng hộp, nước uống giải khát…tức 80-90% sản phẩm thực phẩm chế biến trên thị trường đều có chứa bột ngọt để tăng độ “đậm đà” và đó cũng là lý do giải thích tại sao bột ngọt lại vô cùng phổ biến ở những nước nghèo, vùng nông thôn, nơi nào đời sống khó khăn thì tỷ lệ người dân dùng bột ngọt lên rất cao ! Tất cả hàng quán mì cháo, phở bún, miến, thực phẩm hàng rong… ở nước ta sử dụng bột ngọt thoải mái, đến khi thực khách ăn xong mới biết mình đã “trúng” độc vì môi dộp, cổ cứng đơ, lưỡi rát hay bồn chồn khó chịu, buồn nôn…

Hi vọng một ngày nào đó không xa, Bộ Y tế các nước qui định việc sử dụng bột ngọt chặt chẽ hơn, buộc các nhà sản xuất phải ghi rõ trên bao bì “ăn bột ngọt có hại cho sức khỏe” như việc chống hút, quảng cáo thuốc lá ngày nay.

Hồng Lê Thọ

(*) Xem thêm các trường hợp cụ thể

(1) Hổ sơ Vedan ở “Vietsciences.free.fr”

(2) Công ty Bột ngọt MiWon gây ô nhiễm ở tỉnh Phú Thọ và Tây Ninh

Miwon đã thừa nhận trung bình xả ra sông Hồng 150m3 nước thải chưa qua xử lý mỗi ngày.

http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/10/167210/

http://www.nea.gov.vn/Sukien_Noibat/Tinkhac/Thang%2010-2008/nld_3-10.htm

Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường Phú Thọ và Cảnh sát môi trường Công an tỉnh Phú Thọ vừa tiến hành kiểm tra đột xuất Công ty Miwon, chuyên sản xuất bột ngọt tại TP Việt Trì, Phú Thọ. Kết quả thanh tra cho thấy, từ năm 1996 đến nay, Miwon đã xả thẳng nước thải công nghiệp chưa qua xử lý ra sông Hồng.

Đường ống dẫn nước thải của Miwon còn bị vỡ khiến người dân xung quanh phải sống trong cảnh ô nhiễm

http://vietnamnet.vn/xahoi/2008/10/806721/

Cá trên sông Sài Gòn chết do độc tố Cyanure?

Cá chết hàng loạt vì độc tố Cyanure?

Hiện tượng cá chết hàng loạt vừa qua tại Bình Dương và Tây Ninh không phải do vi khuẩn, virus… mà có khả năng do chất độc Cyanure có trong nước thải của nhà máy mì MIWON.

Cá chết trải dài 30km đường sông

Theo người dân sống trong khu vực thị trấn Dầu Tiếng, Nhà máy Chế biến mủ cao su và Nhà máy mì MIWON thường hay xả nước thải vào nhánh sông Sài Gòn. Vào thời điểm xảy ra hiện tượng cá chết hàng loạt, Nhà máy mì MIWON cũng đang xả nước thải. Cùng lúc đó, hồ Dầu Tiếng cũng xả mặn nên đẩy nước thải của Nhà máy mì MIWON chảy dọc theo sông Sài Gòn, làm cụm bè cá trong khu vực này chết đột ngột.

Tại thời điểm cá chết, người dân cho biết có thấy dòng nước màu đỏ chạy dọc theo dòng sông. Dòng nước này chảy đến đâu thì cá chết đến đó, cường độ cá chết rất nhanh. Chỉ khoảng 20-25 phút là đã chết gần như hết bè cá. Chỉ trong vòng 2 giờ, cá chết nằm trắng xóa dọc cửa sông, kéo dài khoảng 30km.

Theo thống kê, khoảng 46 lồng cá đã bị chết, chủ yếu là cá điêu hồng, cá lăng và cá chình. Mỗi lồng thả khoảng 30.000 con, có trọng lượng từ 400-500g/con.

Các chủ bè cho biết, lúc đầu, họ neo bè đậu trên sông thuộc thị trấn Dầu Tiếng, khi thấy một số bè trên đầu nguồn có cá bị chết, họ đã di chuyển đến ấp Bến Tranh - xã Thanh An nhưng cũng không cứu được cá.

Chất độc Cyanure là “thủ phạm”?

Trung tâm Quốc gia quan trắc, Cảnh báo môi trường và PNDB Thủy sản khu vực Nam bộ - Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II vừa cho biết kết quả khảo sát về hiện tượng cá chết hàng loạt trên sông Sài Gòn.

Báo cáo nhận định nguyên nhân cá chết không phải do tác nhân gây bệnh hữu sinh (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm) mà khả năng cá chết hàng loạt là do nước thải từ các nhà máy có những chất độc gây hại cho cá.

Đáng chú ý nhất là trường hợp của nhà máy mì MIWON. Nhiều khả năng cá chết do chất độc Cyanure có trong nước thải của nhà máy này. Bởi trong củ mì tươi dùng để chế biến bột mì của nhà máy có hàm lượng acid cyanhdyric rất cao.

Biểu hiện cá chết được các chuyên gia của Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II ghi nhận: trước khi chết, cá nhảy dựng lên khỏi mặt nước, rơi xuống, lật ngửa bụng. Và cá chết có biểu hiện xuất huyết các gốc vây, miệng mở to, một số con bị nổ mắt.

Theo báo cáo, đoạn sông chảy qua thị trấn Dầu Tiếng rất hẹp, lưu tốc nước thấp, hàm lượng oxy hòa tan (DO) thấp. Do đó, cần có giải pháp, biện pháp thích hợp cưỡng chế, giải tỏa các hộ nuôi cá bè trên lòng hồ Dầu Tiếng và ngăn chặn việc xả nước thải của các nhà máy gây ô nhiễm.

Theo Trần Duy

VietNamnet

http://dantri.com.vn/Sukien/Ca-tren-song-Sai-Gon-chet-do-doc-to-Cyanure/2006/4/112515.vip

(3) Nhà máy bột ngọt Ajinomoto ở Đồng Nai vi phạm tiêu chuẩn nước thải

Khu công nghiệp Biên Hòa 1: Ô nhiễm “thập diện mai phục”

Theo một báo cáo mới nhất của sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đồng Nai, hầu hết nước thải của Biên Hòa 1 được đổ thẳng ra sông Cái. Hàm lượng nhiều loại chất độc, kim loại vượt chuẩn nhiều lần. Điển hình như: xí nghiệp ắc quy Đồng Nai (chất N-NH3 vượt chuẩn 53 lần, chì vượt gần 15 lần), công ty Ajinomoto Việt Nam (N-NH3 vượt 16 lần, Coliform vượt 31 lần),

http://www.monre.gov.vn/monrenet/default.aspx?tabid=209&ItemID=48453

Xe chở “phân bón” của Ajinomoto “vô ý” đổ xuống đường?

Các cơ quan chức năng của tỉnh Bình Dương lấy mẫu chất thải từ xe bồn chở “phân bón” của Ajinomoto - (Bình Dương) - Chiều 3-10, hệ thống camera của Xí nghiệp kinh doanh cầu đường 743 (Bình Dương) đã quay cận cảnh một xe bồn xả chất bẩn ào ào ra đường. Tài xế xe này thừa nhận chở “chất lỏng” này từ Công ty Ajinomoto VN.

Nhận được tin báo, Công an huyện Dĩ An, Cảnh sát môi trường tỉnh Bình Dương, Sở Tài nguyên - môi trường đã có mặt tại hiện trường để làm rõ vụ việc.

Xe bồn được “ngụy trang” thành xe tải chở “phân bón” - Ảnh: A.Thoa

Rơi vãi chứ không cố ý

Hiện trường cho thấy nước thải vẫn còn rơi vãi ra đường gây ô nhiễm môi trường. Tài xế Vũ Mạnh Hải (trú tại Hà Tây) cho biết: “Bồn nước này được chở từ Công ty Ajinomoto ra lúc 13 giờ. Đây là phân Ami-Ami với số lượng hơn 27.000 lít đang trên đường chở đến xã Lai Hưng, Bến Cát”. Vì sao lại có vòi phía dưới và xả ra đường thì tài xế Hải giải thích: “Quá trình vận chuyển bị rơi vãi chứ không cố ý”.

Tuy nhiên, băng ghi hình mà trạm thu phí Bình Thung ghi lại cho thấy: nước từ chiếc xe bồn này chảy ào ào ra đường. Nhiều người chứng kiến đều cho rằng chiếc xe tranh thủ trời mưa đã cố tình thải ra. Hải cho biết thêm “từng vận chuyển chất lỏng này cho một số nơi ở Đồng Nai”. Tại hiện trường còn cho thấy chiếc xe tải này được che bạt xung quanh và nếu không quan sát kỹ thì không thể phát hiện bên trong có bồn chứa chất lỏng.

Ông Nguyễn Ngọc Nui, giám đốc Xí nghiệp kinh doanh cầu đường ĐT743, cho biết khi đang đứng ở trạm thu phí Bình Thung thì phát hiện xe tải chở bồn xả nước màu vàng đen có mùi nồng nặc đến khó chịu. Khi bị phát hiện, một người leo lên xe bịt hay khóa van gì đó và nước bớt chảy ngay.

Tài xế Hải đã trình cảnh sát môi trường tỉnh lệnh điều động nội bộ của Công ty Ajinomoto ngày 3-10 đến ngày 4-10 và phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ của Công ty Ajinomoto. Cùng ngày, Sở Tài nguyên - môi trường đã tiến hành lấy mẫu để chuyển cơ quan chức năng phân tích.

Người dân bức xúc

Thực trạng nước thải hoành hành con đường này đã tồn tại từ vài năm nay. Lãnh đạo Xí nghiệp kinh doanh cầu đường ĐT743 rất bức xúc và từng lên kế hoạch tìm thủ phạm. Vào ngày 9-9, xí nghiệp đã bắt quả tang một xe tải xả loại chất thải này ra đường và yêu cầu chủ xe lau rửa tuyến đường này.

Nhiều người dân trên tuyến đường ĐT743 từ cầu Đồng Nai đến ngã tư Bình Thung (xã Bình An, Dĩ An) cũng than phiền về nước thải xả ra hai bên đường. Loại xe chở chất thải này thường là xe bồn, thậm chí có nhiều xe còn mang chữ “cấm lửa” nhưng thực chất là chở nước thải. Anh Nguyễn Văn Khương, xã Bình Thắng, huyện Dĩ An cho biết “chuyện này kéo dài mấy năm nay nhưng không bắt được tận tay và đã làm không ít người đi đường té ngã”. Chị Nguyễn Thị Nga ở đường 743, xã Bình Thắng nói: “Mấy chiếc xe này nhắm vào gần sáng mà xả, mưa xuống nước tràn vào nhà dân, nắng lên nhão nhoét cả đường. Các em học sinh đi học bị nước thải màu vàng đặc bắn đầy lên áo”.

Không phải chất thải mà là... phân bón!?

Close

Cơ quan chức năng Bình Dương lấy mẫu “phân bón” để xét nghiệm - Ảnh: A.Thoa

Chiều 3-10, ông Hoàng Văn Quốc Chương - phó giám đốc Nhà máy Biên Hòa, trưởng phòng phát triển phân bón Công ty Ajinomoto - khẳng định xe bồn 54N-0148 được công ty thuê để chở phân bón Ami-Ami từ nhà máy ở Khu công nghiệp Biên Hòa 1 đến kho của công ty ở huyện Bến Cát (Bình Dương). Việc vận chuyển này là xuất hàng nội bộ chứ không phải chở đi bán nên có phiếu xuất kho, có niêm chì khi vận chuyển.

Về việc có hay không việc xe 54N-0148 được thiết kế hệ thống van xả để chất thải lỏng hữu cơ chảy ra dọc đường đi như một hình thức “ngụy trang” để đổ chất thải của nhà máy ra môi trường, ông Chương khẳng định đây không phải là chất thải mà là phân bón Ami-Ami. Ông Chương giải thích thêm: “Đây là hàng xuất nhập kho, nên khi xuất có cân đong khối lượng và khi nhập phải đủ số này. Việc xuất nhập này có lập biên bản giao nhận, vì vậy không có chuyện để phân Ami-Ami chảy dọc đường”.

Ông Chương xác nhận xe bồn chở phân Ami-Ami của công ty đã bị lập biên bản vào chiều 3-10 nhưng lại cho rằng vì lý do gì đó chứ không phải đổ chất thải !?

Cũng theo ông Chương, hiện phân bón Ami-Ami được tiêu thụ khá mạnh tại các tỉnh miền Đông Nam bộ và một vài tỉnh Tây nguyên. Trung bình mỗi tháng công ty tiêu thụ khoảng 16.000m3, với giá bán tại nhà máy là 114 đồng/lít.

___________________________________________________________________________________

Phân bón Ami-Ami được hình thành từ quy trình sản xuất bột ngọt. Bên cạnh phân Ami-Ami của Ajinomoto, Công ty Vedan cũng sản xuất phân Vedagro từ quy trình trên.

Điều đáng nói là nếu loại dịch thải lỏng sinh ra trong quá trình sản xuất bột ngọt không được làm phân bón thì nó sẽ trở thành một thứ chất thải công nghiệp, buộc nhà sản xuất phải xử lý trước khi thải vào môi trường. Như vậy, nhà sản xuất không mất tiền xử lý chất thải mà còn được một khoản thu từ bán phân bón cho nông dân.

Năm 2005, Bộ NN&PTNT đã bổ sung Ami-Ami vào danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở VN. Phân bón Ami-Ami được bán ra thị trường và được nông dân các tỉnh ĐBSCL bón lúa. Nhưng sau đó phân bón này bị các cơ quan bảo vệ môi trường ở địa phương phản ứng quyết liệt vì cho rằng nó có thể gây hủy hoại nguồn nước mặt, nước ngầm cũng như làm chai đất nông nghiệp.

Ông Nguyễn Văn Giàu - giám đốc Sở NN&PTNT Đồng Nai - từng nói rằng nếu loại phân được làm từ phế phẩm của công nghiệp bột ngọt mà đổ tập trung một chỗ hoặc phun rải không đều, liều lượng không được kiểm soát nghiêm ngặt thì cây cối quanh khu vực đó sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí bị chết.

Năm 1999, khi Ami-Ami được thử nghiệm ở Bình Phước, ngành tài nguyên - môi trường tỉnh này đã có văn bản hỏi ý kiến về việc sử dụng loại phân này. Trong công văn phúc đáp, Cục Môi trường (Bộ Tài nguyên - môi trường) cung cấp một thông tin rất đáng lưu ý: thực tế sử dụng thử các loại phân này tại một số địa phương cho thấy sau khi bón phân có biểu hiện xảy ra ô nhiễm đất, nước mặt, giảm độ pH...

____________________________________________________________________________________

ANH THOA - MINH LUẬN

Thứ Bảy, 04/10/2008, 10:03 (GMT+7)

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=281659&ChannelID=3

 

 

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr-Hồng Lê Thọ