Những bài cùng tác giả
Vệ sinh môi trường công cộng, như ai cũng có thể nhận thức, không những là
một biểu đồ về trình độ văn hóa sinh hoạt và văn minh của một xã hội, mà còn
là một biện pháp căn bản để ngăn ngừa sự phát sinh và lan truyền của các căn
bệnh truyền nhiễm trong mục tiêu bảo vệ sức khoẻ người dân. Vì vậy, tại các
nước dã thoát khỏi tình trạng chậm tiến, việc bảo vệ vệ sinh môi trường
thường được thực thi một cách qui mô thông qua các phương thức và qui định
hợp lý được hợp ý giữa người dân và chính quyền địa phương sở tại.
Về tính cách biểu đồ cho trình độ văn hóa sinh hoạt và văn minh của một xã
hội, người ta có thể nói đến sự ngỡ ngàng nếu phải chứng kiến tình trạng
hành xử mất vệ sinh của một số người trong xã hội hay cơ sở hoạt động ảnh
hưởng xấu đến môi trường công cộng hay tình trạng thiếu thốn các nhà vệ sinh
hay các phương tiện hợp lý để xử lý vệ sinh các nguồn chất thải; trong khi
đó lại có sự nguy nga phung phí quá sức ở các dinh thự, khách sạn, cơ sở cao
cấp. Sự mâu thuẫn tạo ra khác biệt quá sức ở phương diện này thường là một
đặc điểm chung ở các xã hội chậm tiến cần phải được cải thiện tự căn bản để
có thể cải thiện lành mạnh bộ mặt xã hội.
Về tính cách bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng dân chúng, người ta nhận thấy
trước hiểm họa của các dịch bệnh truyền nhiễm luôn luôn có thể xảy ra, đe
dọa sức khỏe và sinh mệnh người dân, sự mất vệ sinh ở môi trường công cộng
sẽ tạo điều kiện cơ sở để phát sinh và lan truyền các dịch bệnh cho người và
thú vật trong môi trường sinh hoạt chung quanh. Hậu quả của sự việc này là
người dân cùng gia đình thân quyến sẽ phải đối mặt và gánh chịu các dịch
bệnh hiểm nghèo, và chính quyền sở tại cũng phải bị tổn thất về phương diện
kinh tế do sự suy giảm nguồn lực lao động và các kinh phí to lớn phải chi
trả cho việc phòng chống, trị liệu và hoạt động của các cơ sở y tế liên
quan.
Do đó, nếu phía người dân hay cơ sở trong khu vực chưa có đầy đủ ý thức về
phương diện bảo vệ vệ sinh công cộng này thì nhà nước và chính quyền địa
phương phải có trách nhiệm vận động truyền bá và củng cố ý thức này, nhưng
cũng phải cùng với người dân tìm ra các phương thức hợp lý và hợp điều kiện
kinh tế người dân để cùng nhau thực thi việc bảo vệ vệ sinh này từ phía cư
trú hay cơ sở ra đến môi trường công cộng. Nguyên tắc “ tham gia cộng đồng ”
về phương diện này chắc chắn sẽ có sự hưởng ứng rộng rãi từ phía người dân,
nếu không thì những qui định đưa ra từ phía chính quyền sẽ khó thực hiện mà
có thể trở thành vô ích...
Vì vậy, trước hết về phương diện hành chính, nhà nước và theo đó chính quyền
địa phương phải phân định các vùng dân cư để thực thi, chẳng hạn làm thành 3
khu vực gồm thành thị, ngoại ô và nông thôn, để từ đó cùng người dân địa
phương bàn thảo và tìm ra các phương pháp hợp lý để áp dụng bảo vệ vệ sinh
môi trường. Dĩ nhiên, trước hết phía chính quyền sở tại phải có các tài liệu
và mẫu các thiết bị được trình bày cùng các tiêu chuẩn, phương cách vận hành
và kinh phí liên quan để người dân được thông hiểu cặn kẽ mà quyết định.
Về nguồn vật chất ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường công cộng, người ta nhận
thấy phải chú trọng đến việc bảo vệ an tòan vệ sinh ở môi trường không khí,
đất đai và các nguồn nước trên mặt đất ( surface water ) như ao, hồ, rạch,
sông, biển và nguồn nước ngầm ( underground water )., mà tại các nước tiên
tiến, nhà nước có trách nhiệm chính yếu trong nhiệm vụ đặt ra các tiêu chuẩn
khả thi, các qui định bao gồm các cách thức kiểm tra và hình phạt ở từng khu
vực để thực thi việc này một cách hiệu quả.
Tại 3 khu vực trên, ở đơn vị gia cư, việc thu gom và xử lý phế thải rắn (
solid waste ), tiêu chuẩn hóa việc xây cất nhà vệ sinh ( standard toilet )
và cách xử lý nước thải sinh hoạt ( sewage ) sẽ được qui đọnh một cách hợp
lý. Ở mặt chính quyền, ngoài việc xây cất và bảo quản hệ thống cống rạch và
các nhà vệ sinh công cộng, việc xử lý nước thải ( waste water treatment )
cũng như xử lý phế thải nhà vệ sinh ( toilet waste treatment ) cũng sẽ phải
được hợp ý giữa ngườI dân và chính quyền sở tại.. Ngoài ra, do tính cách
nghiêm trọng đối với môi trường vệ sinh công cộng, người ta nhận thấy cần
phải có các qui định riêng cho các khu vực đặc biệt như các cơ sở xử lý phế
thải, lò làm thịt cá, chợ bến, bệnh viện, nhà máy, các viện nghiên cứu lý
hóa hay vi sinh vật vv…để có thể kiểm tra các ảnh hưởng đến môi trường chung
quanh từ các cơ sở đặc biệt này.
Như trên đã nói đến, nguyên tắc tham gia cộng đồng là căn bản để thực thi
bảo toàn vệ sinh môi trường công cộng một cách hữu hiệu, vớn là một vấn đề
phức tạp, cho nên sự áp đặt từ phía chính quyền trong việc thực thi một biện
pháp mà thiếu sự hưởng ứng của người dân thì sẽ khó có được hiệu quả.. Chẳng
hạn việc thu gom và xử lý ở khu vực nông thôn có thể thực thi bởi từng nhà,
ở khu vực ngoại ô thì tuỳ theo điều kiện vị trí bởi từng nhà hay khóm, và ở
khu vực thành thị thì có thể là do chính quyền địa phương hay ủy thác cho
một công ty tư nhân đảm nhận thực thi.
Vì vậy về việc xử lý phế thải rắn, chính quyền địa phương và dân chúng cần
phải cùng nhau hợp ý để qui định viêc phân loại phế thải rắn cũng như việc
thu hồi tái sử dụng ( recycling ) để tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên trước
khi thu gom đem đi xử lý ở nhà máy đốt phế thải ( incinerator ). Hơn nữa,
trước việc khói bụi phát sinh từ các nhà máy đốt phế thải cho thấy có hàm
chứa chất độc dioxin, hai bên cũng phải cùng nhau xem xét kỹ càng vị trí xây
dựng và phương cách vận hành cơ sở xử lý đốt phế thải hầu có thể bảo vệ môi
trường vệ sinh chung quanh.
Về việc xử lý nước thải sinh hoạt và chất thải từ nhà vệ sinh, ở các khu vực
gia cư cũ của một số nước ở Đông Nam Á, tại các khu gia cư đã có từ hàng
trăm năm trước và ngay cả tại một số gia cư mới được xây cất gần đây, hệ
thống hầm rút nước thải ( septic tank ) cũng như phương thức xây cất nhà vệ
sinh có hầm cầu đã rất phổ biến. Các hầm rút nước thải này, cũng như các hầm
cầu của nhà vệ sinh, nếu mặt đáy không được tráng kín ximăng kỹ càng hay có
khiếm khuyết khi xây cất hay tráng kín hay hư hỏng vì hoạt động lâu năm thì
sự thẫm thấu ( infiltration ) các chất phế thải chắc chắn sẽ gây ra ô nhiễm
lâu dài cho đất đai và mạch nước ngầm ( underground water ) bên dưới.
Vấn đề này là một thực tế đang gây ô nhiễm trầm trọng, nhất là đến mạch nước
ngầm bên dưới, mà chính quyền lâu nay không muốn đề cập xem xét đến, nay cần
phải được từng địa phương xem xét cẩn thận để từ đây có thể tránh sự ô nhiễm
đất đai và mạch nước ngầm gây nguy hại đến sức khoẻ người dân. Ở khu vực
nông thôn và ngoại ô, theo điều kiện vị trí, việc xây dựng hầm biogas theo
tiêu chuẩn có thể khả thi cho nên cần được khuyến khích và hỗ trợ. Nhưng ở
khu vực thành thị, nếu do điều kiện phải duy trì các hầm rút nước thải và
nhà vệ sinh có hầm cầu đã xây cất trước đây, thì chính quyền địa phương phải
có lịch trình và bản đồ địa điểm để kiểm tra hàng năm. Hoạt động của các xe
hút hầm như giờ giấc, cách thức gìn giữ vệ sinh và cách xử lý các chất thải
thu gom cũng phải được qui định rõ ràng.
Cũng ở việc xử lý nước thải sinh hoạt ( waste water treatment ) và xử lý
chất thải nhà vệ sinh ( toilet waste treatment ), thì trước nhất cần phải có
qui định để triệt bỏ tập quán xử lý thiên nhiên ( natural treatment ) như
cách đặt để các phế thải ở các khu vực đất trống hay tải trực tiếp ra sông,
biển lân cận. Qui định về hình phạt các vi phạm phải được áp dụng khắt khe
triệt để. Như vậy, không phải vì do tình trạng ưu đâi phát triển công nghiệp
mà có thể bỏ quên vấn đề vệ sinh môi trường công cộng. được. Việc xây dựng
và vân hành các nhà vệ sinh công cộng và các máy xử lý nước thải ở từng địa
phương, trên nguyên tắc, phải do chính quyền ( sở vệ sinh ) đảm nhận; nhưng
trong trường hợp đặc biệt, cũng có thể uỷ thác cho công ty tư nhân đảm nhận
với sự giám thị của địa phương.
Về phương diện công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt và phế thải nhà vệ sinh.
Trong hiện tại, tại các nước tiền tiến, hệ thống xử lý tập trung chung (
collective treatment ) đang được rộng rãi áp dụng để đưa trực tiếp hai loại
thải này từ khu vực gia cư vào một hệ thống ống cống chung để tập trung làm
sạch tại nhà máy xử lý ( waste treatment plant ). Việc xây dựng và vận hành
hệ thống kỹ thuật công nghệ cao này sẽ đòi hỏi người dân đóng góp các kinh
phí liên quan. Tuy là một công nghệ cao cho việc xử lý vệ sinh, nhưng ngoài
vấn đề kinh phí to lớn để xây dựng, việc vận hành và bảo trì qui mô cũng cần
phải nên cân nhắc kỹ càng các điều kiện địa hình, các cấu trúc cơ sở hiện
trạng để tránh việc thực thi thất bại, nhất là khi không thể áp dụng đồng bộ
do tính cách khác biệt ở điều kiện hạ tầng cơ sở.
Vì vậy, việc áp dụng các phương thức và biện pháp để cải thiện vệ sinh môi
trường công cộng cần phải tuỳ thuộc vào điều kiện cơ bản của từng khu vực và
sự hợp ý của người dân. Theo đó, tuỳ theo điều kiện của từng địa phương mà
phương thức và biện pháp thực thi có thể có phần khác nhau, không nhất thiết
phải áp dụng các phương thức quá tốn kém hay các biện pháp qúa khắt khe vượt
quá khả năng của người dân.
Về phạm vi hạ tầng cơ sở, người ta nhận thấy nên chú trọng việc xử lý ô
nhiễm vệ sinh môi trường ở địa điểm xác định (point pollution treatment)
trước tiên, hơn là việc xử lý ô nhiễm vệ sinh môi trường có vị trí không đặt
định (nonpoint pollution treatment) như ô nhiễm ở đồng ruộng, đồi núi, sông
hồ…, vì có những yếu tố lợi điểm là vừa dể dàng thực hiện dựa vào sự ô nhiễm
tập trung ở một phạm vi hẹp, vừa có thể đạt được một hiệu quả nhanh chóng
trước mắt đáp ứng cho điều kiện sinh hoạt ở các vùng dân cư địa phương..
Mang tính cách qui mô phạm vi quá rộng lớn, việc xử lý ô nhiễm vệ sinh môi
trường có vị trí không xác định, tuy khó khăn và đòi hỏi nhiều kinh phí để
thực hiện, nhưng cũng phải được thực thi trong một tương lai sau đó.
Việc cải thiện vệ sinh môi trường công cộng, vì vậy, có ý nghĩa là vừa nâng
cao mức sống ( quality of life ) của người dân, mà cũng là vừa nâng cao
trình độ văn hóa văn minh của một nước. Và vì đây cũng là một vấn đề, tuy có
phần phức tạp trong thực hiện, nhưng mang tính cách trách nhiệm của chính
quyền trong việc bảo vệ sức khoẻ người dân, cho nên cũng cần phải được ý
thức như một vấn đề xã hội căn bản và cấp thiết để thực hiện với sự hợp tác
của người dân với chính quyền địa phương để cho việc thực thi có được hiệu
quả.
VNP
|