Những bài cùng tác giả
Tình hình kinh tế Việt Nam đang có nhiều triệu chứng
nguy cơ mở màn cho khủng hoảng tài chính nếu không
được điều hành đúng đắn trong thời gian tới. Những
phân tích dưới đây hy vọng chỉ mang tính cảnh báo.
Vàng không nên là phương
tiện thanh toán
Vàng là gì ? Đúng là vàng chỉ là
quý kim, dùng làm vật trang sức. Nhưng có lúc, vàng
trở thành phương tiện thanh toán khi dân chúng mất
tin tưởng vào đồng tiền nội địa. Việc biến, hoặc gắn
vàng vào giá trị đồng tiền (chế độ kim bản vị ngày
xưa) tưởng là giải pháp nhưng thật ra là không vì
không nền kinh tế nào có thể kiểm soát được lượng
cung vàng ; nó tuỳ thuộc vào lượng vàng sản xuất và
đặc biệt là đầu cơ, không liên quan gì đến mức phát
triển kinh tế và nhu cầu thanh toán. Nó lại biến nhà
nước bất cứ nơi đâu thành nạn nhân tế thần của các
lực ngoại biên, và triệt tiêu khả năng làm chủ chính
sách tiền tệ của nhà nước.
Vàng trở về đúng vị trí quý kim
của nó từ thời Tổng thống Mỹ Nixon, khi ông ta quyết
định xóa bỏ việc bảo đảm giá trị đồng đô-la Mỹ bằng
vàng. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trở
về đúng vị trí của nó là chính sách mà nhà nước (qua
ngân hàng trung ương và chi tiêu ngân sách) có thể
dùng để quản lý nền kinh tế, mà không bị trói buộc
bởi những yếu tố nằm ngoài nó. Trong quá khứ, lạm
phát đã từng xảy ra chỉ vì đào được nhiều vàng, hoặc
có khi ngược lại sự phát triển kinh tế bị hạn chế
lại vì thiếu thanh khoản do không thể tăng được
lượng vàng lên. Ngày nay, tăng cung hay hạn chế cung
tiền có thể nằm trong tay nhà nước. Thí dụ các nhà
kinh tế hiện đại đều biết rằng cung tiền thái quá sẽ
tạo ra lạm phát nhưng nhà chính trị thì có thể lại
quá nôn nóng hoặc chủ quan muốn thực hiện điều gì đó
mà cố tình quên đi nguyên lý này. Do đó mà lạm phát
hay ổn định tiền tệ là kết quả của chính chính sách
kinh tế mà nhà cầm quyền đưa ra, và do đó phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm về chúng.
Giá vàng tăng trên
thị trường thế giới
Giá vàng tăng trên thị trường thế
giới vì nền kinh tế thế giới bất ổn. Sự bất ổn này
là do chính sách sai lầm của hai cường quốc Mỹ và
Anh, mở cửa tự do cho tư bản tài chính, cho phép
phát hành các công cụ tài chính phát sinh, mà không
có thế chấp, nhằm đầu cơ vào thị trường chứng khoán
và thị trường nhà đất, đẩy giá lên tưởng như không
có chỗ dừng. Nhưng rồi bong bóng ảo tưởng vỡ vì giá
cả vượt ngoài khả năng chi trả của người lao động.
Giá xuống đã đẩy hàng loạt các nhà đầu cơ phá sản,
trong đó phần lớn là những người đầu tư cá nhân nhỏ
lẻ, chạy theo kiểu bầy đàn.
Để cứu nguy, các nền kinh tế phải
bội chi ngân sách, phát hành thêm tín dụng để chặn
đứng khủng hoảng. Giới đầu cơ trục lợi, rồi cả những
người bình thường, cho rằng như thế lạm phát toàn
thế giới sẽ tăng và cổ động mua vàng. Giá vàng đã
tăng vùn vụt.
Tình hình hiện nay ở Mỹ, cũng
không khác gì tình hình đã từng xảy ra ở Nhật, là
doanh nghiệp chưa dám đầu tư vì phải cố gắng giảm tỷ
lệ nợ quá lớn do trước đây đã chạy theo bong bóng. Ở
Mỹ hiện nay, mặc dù lãi suất rất thấp, thanh khoản
tràn đầy nhưng ít ai dùng nên khả năng lạm phát ở Mỹ
trong thời gian tới là rất thấp, hay có thể nói
không có. Thời gian này có thể kéo dài tới 5-6 năm.
Ở đây, với tốc độ tăng việc làm khoảng 150 000 người
một tháng thì cũng cần 6 năm để giải quyết việc 15
triệu người thất nghiệp, đưa tỷ lệ thất nghiệp từ 10
% xuống 3 %. Giá vàng lên chỉ vì người ta nghĩ rằng
lạm phát sẽ tăng mạnh. Nhưng nếu lạm phát không xảy
ra thì giá đầu cơ hiện nay sẽ xuống. Khó có thể đoán
là trong thời gian tới khi nào giá vàng sẽ xuống
nhưng nó sẽ xuống, giống như sự lao dốc của giá nhà
đất và chứng khoán ở Mỹ.
Tấn công và tháo
chạy của tư bản
nước ngoài
Các quốc gia châu Á đã học được
bài học năm 1997. Đó là cần làm chủ phương tiện
thanh toán của mình. Tài chính nước ngoài ồ ạt chảy
vào các nước châu Á, đầu cơ vào thị trường địa ốc và
chứng khoán, giá lên đến mức tưởng như châu Á mãi
mãi là trung tâm thịnh vượng của thế giới. Chi tiêu
ồ ạt. Cán cân thanh toán thiếu hụt. Chính sách của
hầu hết mọi nước ở đây là chính quyền quyết định tỷ
giá đồng bạc. Tình huống trên đã cho phép giới đầu
cơ tài chính mở cuộc tấn công vào nội tệ ; họ bán
nội tệ, mua ngoại tệ, tạo ra một cuộc tháo chạy của
giới tài chính đầu cơ. Giá nhà, giá chứng khoán
xuống. Ngoại tệ tháo chạy đưa đến việc chính quyền
các nước này phải huỷ bỏ tỷ giá cứng. Chính sách tự
do dòng chảy tư bản mà IMF cổ võ, kể cả ép buộc các
nước thành viên thực hiện, đã hoàn toàn thất bại.
Suharto ở Indonesia sụp đổ. Chỉ có Malaysia, chống
lại IMF, ra lệnh cấm rồi hạn chế cuộc bán tống tháo
chạy trên mà nền kinh tế đỡ bị ảnh hưởng nhất. Mở
cửa hoàn toàn cho dòng chảy tư bản chính là tự làm
mất quyền và khả năng kiểm soát lượng cung tiền qua
chính sách tiền tệ của mình.
Để vàng và đô la Mỹ trở thành
phương tiện thanh toán cũng là tự hy sinh quyền kiểm
soát chính sách tiền tệ.
Việt Nam : vẫn tiếp
tục cuộc chạy đua đạt tốc độ bất kể chất lượng và ổn định
Năm 2007 mở đầu cho sự kiện Việt
Nam vào WTO với dòng tư bản ồ ạt chảy vào. Chứng
khoán và giá nhà lên tận mây. Ai nấy đều kỳ vọng mức
phát triển cao với tốc độ 9-10 %. Vinashin và hàng
loạt các dự án tiền tỷ khác được đặt lên bệ phóng,
quên mất tác dụng của chúng mang đến cho ngân sách
và tiền tệ. Vay mượn tăng, dòng chảy tư bản nước
ngoài đổ vào, tín dụng tăng, chi tiêu nhà nước tăng.
Lạm phát nhanh chóng tăng, đạt mức 28 % vào năm
2008. Thiếu hụt cán cân thanh toán tăng. Và sau đó
ngòi nổ xẹp vì kinh tế thế giới khủng hoảng. May là
có khủng hoảng, cắt đứt dòng chảy tư bản vào Việt
Nam nếu không tác hại của dòng vốn này còn cao hơn
nữa.
Vấn đề là Việt Nam vẫn đặt các
chỉ tiêu tăng trưởng cao, tiếp tục chi tiêu quá mức,
lần này là với lý do nhằm làm giảm ảnh hưởng tiêu
cực từ khủng hoảng kinh tế thế giới. Tất nhiên bội
chi ngân sách tăng rất cao. Theo kế hoạch năm 2010,
thiếu hụt ngân sách được quyết định là 6,2 % GDP,
nhưng theo IMF, có thể lên tới 9 % nếu tính cả chi
tiêu ngoài ngân sách. Nợ công tăng nhanh, năm 2009
tăng 9 % và năm 2010 tăng 12 % năm, do đó tỷ lệ nợ
công trên GDP đã nhanh chóng vượt quá 50 % GDP, có
lẽ là 57 %.
Nhập siêu vẫn tiếp tục lớn, năm
2009 là 12,2 tỷ đô-la, năm 2010 dự báo cũng sẽ tương
tự, ít nhất là trên 12 tỷ đô-la. Nợ nước ngoài vì
vậy tăng nhanh, hiện nay là khoảng 28 tỷ đô-la, bằng
khoảng 40 % GDP.
Tình hình như thế nhưng không
giống như bất cứ nước nào trên thế giới là có lạm
phát rất thấp, Việt Nam lại vẫn lạm phát cao ; vào
năm 2010 sẽ ở mức gần đạt hai con số. Khó có thể
chấp nhận mức lạm phát như thế vì trong năm năm qua,
kể từ năm 2006, lạm phát đã làm giảm sức mua gần 57
% và như thế khiến đời sống người lao động ngày càng
khó khăn thêm. Hiện nay lạm phát lại đang trong đà
tăng tốc ; đây là những dấu hiệu đáng cảnh báo nhất.
Tất cả chỉ là vì các nhà làm
chính sách ở cả trung ương và địa phương vẫn chạy
đua nhằm đạt tốc độ tăng GDP cao, thậm chí tất cả
mọi tỉnh đều báo cáo đạt mức tăng trên dưới 10 %
GDP, trong khi cả nước chỉ tăng 6 %. Vì đặt chỉ tiêu
tốc độ tăng GDP cao, bất chấp thực tế và các hệ luỵ
của nó, mà chúng ta đã thấy tỷ lệ đầu tư tăng nhanh
từ 33 % GDP năm 2006 lên 42 % GDP hiện nay và ngay
năm 2011 sắp tới, chỉ tiêu vẫn ở mức 42 % và tốc độ
phát triển là 7-8 %.
Tỷ lệ đầu tư ở Việt Nam hiện nay
là cao nhất thế giới. Mà càng đầu tư cao, càng cần
vốn, cần tín dụng, và vì không thể tăng năng suất do
đó mà lạm phát. Đầu tư cao, đặc biệt tập trung ở các
doanh nghiệp và tập đoàn nhà nước, là tăng cường cho
cơ hội tham nhũng cho các nhóm lợi ích, chính vì thế
mà từ trung ương đến địa phương nơi nào cũng muốn có
đầu tư cao. Đầu tư ở Việt Nam rất khác Trung Quốc.
Họ nhập công nghệ mới, để tự tạo ra máy móc, sản
xuất ra sản phẩm xuất khẩu có sức cạnh tranh với
nước ngoài. Ngược lại, Việt Nam là nhập máy móc,
nhập nguyên liệu, làm gia công để bán tài nguyên
thiên nhiên và lao động rẻ tiền. Có lẽ các nhà làm
chính sách hài lòng vì có tốc độ tăng GDP coi được.
Nhưng đây là kinh tế ảo, vì về mặt thống kê học, khi
có đầu tư thì giá trị đầu tư làm tăng GDP vì nó được
tính trực tiếp vào GDP. Mặt trái của đầu tư cao, như
trường hợp Vinashin, là tăng nhập siêu và nếu không
bán được hàng thì phá sản, đưa đến công nợ không trả
được. Nhu cầu ngoại tệ đang tăng cao để nhập máy
móc, nhập nguyên liệu và trả nợ nước ngoài. Dự trữ
ngoại tệ trước đây là trên 25 tỷ đô-la, mới đây theo
IMF chỉ còn 15 tỷ đô-la. Rất tiếc là không có thông
tin về dự trữ ngoại tệ hiện nay, nhưng có lẽ còn
xuống thấp hơn nữa.
Tình hình hiện nay : vấn đề vàng và đô
la Mỹ
Có thể nói một nền kinh tế bình
thường là nền kinh tế ở đó nhà nước có thể kiểm soát
được phương tiện thanh toán. Khi phương tiện thanh
toán vượt ngoài tầm hoạt động của mình thì rõ ràng
là có vấn đề. Để làm chủ được nền kinh tế, tất cả
mọi nước đều cố gắng làm chủ được phương tiện thanh
toán, qua đó điều hành chính sách tiền tệ. Tất nhiên
điều hành sai hay đúng là chuyện khác nhưng phải đặt
nó trong tầm tay của mình.
Ngày trước, đã có lúc người Việt
chỉ có tin vàng và đô la Mỹ. Sau cải cách từ năm
1989, giá trị của đồng tiền Việt đã trở lại.
Từ năm 2008, giá trị đồng tiền
Việt giảm đều, vàng và đô la lại trở thành phương
tiện thanh toán trong nước, tước bỏ đi một phần quan
trọng khả năng điều hành kinh tế của nhà nước. Tất
nhiên, lý do cơ bản là lạm phát, mà lạm phát là kết
quả của chính sách chạy theo tốc độ GDP, bỏ tiền cho
doanh nghiệp quốc doanh đầu tư vô tội vạ.
Để ổn định tình hình nhà nước cần
điều chỉnh chính sách phát triển chạy theo chỉ tiêu
số lượng như hiện nay, tức là phải giảm mức đầu tư,
và như vậy phải tăng lãi suất nhằm thu hút tiền vào
ngân hàng, và đồng thời tăng giá tín dụng mà nhà đầu
tư phải trả. Về mặt tiền tệ, dù là trong ngắn hạn,
mọi biện pháp cần thiết là triệt tiêu việc biến vàng
và đô la thành phương tiện thanh toán trong nền kinh
tế, chứ không phải cổ võ việc dùng chúng là tiền.
Nhưng các nhà chính sách Việt Nam
đang làm ngược lại. Ngân hàng Nhà nước giữ giá đồng
đô la, làm lợi cho những người có thể vay dễ dàng
(như các tập đoàn) và tạo thêm nhu cầu giả tạo,
không phải nhằm đầu tư mà nhằm đầu cơ. Thiên hạ,
những người không thể tiếp cận đô la, phải đổ xô mua
vàng. Ngân hàng Nhà nước lại cho phép nhập vàng để
giảm giá vàng. Mà ổn định giá vàng đâu có phải là
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước. Tất nhiên là tuyên
bố như thế thì hy vọng sẽ tạo ra tâm lý giảm giá
vàng. Nhưng nếu nhập thì sẽ mất nguồn ngoại tệ, tạo
thêm áp lực tăng giá trị của nó. Rồi lại có những “
kinh tế gia ” đề nghị tạo ra tài khoản tiết kiệm
vàng và trả lãi cho nó. Đây là hành động của thời
bao cấp trước đây. Chứ hiện nay là phải làm sao có
biện pháp xóa bỏ vàng như một phương tiện thanh
toán. Và để làm điều này dễ nhất là đánh thuế nhập
hay xuất vàng. Giống như đánh thuế các cuộc tháo
chạy tư bản nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chúng đối
với nền kinh tế mà nhiều nước đã làm.
Quan trọng hơn, cần thay đổi cách
suy nghĩ theo hướng chạy đua đạt tốc độ GDP, từ đó
đầu tư cao mà thiếu hiệu quả, bội chi ngân sách, đẩy
mạnh cung tiền để tài trợ bội chi, đưa đến lạm phát
và sự mất giá của đồng bạc. Mọi tiêu cực đang phát
triển hiện nay là do cách tư duy này và các chính
sách hiện nay.
Thông tin mới nhất từ báo chí là
quyết định bù lỗ xăng dầu để chống tăng giá. Kinh
nghiệm cho thấy chính sách này sẽ không thành công
vì lạm phát đâu có thể bù lỗ để giảm. Nguyên nhân
của chúng nằm trong chính sách tài khoá và tiền tệ
dễ dàng để đẩy mạnh đầu tư các tập đoàn và doanh
nghiệp nhà nước. Chính sách đang đi về đâu đây ?
Phải chăng đang chờ đón một cuộc khủng hoảng toàn
diện, bắt đầu từ khủng hoảng thiếu ngoại tệ ?
Vũ Quang Việt
Đã đăng trên Diễn Đàn Forum diendan.org
|