Từ Ai Cập đến
Pakistan, tháng 2-2011 sẽ được nhớ như một tháng đầy biến động bất thường,
gây bối rối cho Hoa Kỳ. Người Mỹ đã say mê trước cảnh tượng tự do dân chủ
vì họ cảm thấy chính họ lẽ ra đã phải được tham dự một cách nào đó. Khắp Bắc
Phi và Trung Đông, nhiều phong trào quần chúng đã trỗi dậy đòi hỏi tự do và
dân chủ trong hòa bình, điều trước đây họ thường nhìn về phía Hoa Kỳ như
khuôn mẩu để noi theo.
Nhiều người đang tự hỏi vì sao ngày nay họ không còn
ngưởng mộ người Mỹ?
Câu trả lời đã lúc một rõ nét với mỗi lời tuyên bố mập mờ
và mỗi bước ngập ngừng của chính quyền Obama trong quá trình tìm giải
pháp. Đã là người, mấy ai không bối rối ngượng ngùng khi chân tướng bị
bại lộ, nhất là khi đã tìm hết cách che dấu. Điều nầy chẳng những đúng
với cá nhân mà ngay cả với các quốc gia. Đã hẳn, các quốc gia đầy đủ chủ
quyền là những chủ thể trừu tượng, không thể có cảm xúc như các cá
nhân, nhưng đôi khi vẫn nên tỏ ra biết ngượng ngùng, nếu có thể.
Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak cuối cùng đã bị truất phế
trước sự trổi dậy của quần chúng bất bạo động, bắt đầu từ Cairo và lan
tràn đến Alexandria, Suez và nhiều thành phố khác. Thoạt đầu, Mubarak đã
hành xử ưu quyền để cử người kế vị. Tiếp đó, Mubarak đã đổi ý và từ chối
rời chức vụ. Cuối cùng, ông đã phải hàng phục trước áp lực đòi hỏi liên
tục của nhân dân và quân đội.
Suốt 18 ngày đêm biến động, Hoa Thịnh Đốn đã luôn nói đến
nhu cầu một "chuyển tiếp trong trật tự".
T T Obama và các cố vấn hình như đã đứng về phía người dân biểu tình,
một cách mập mờ và đầy cảm tính. Tuy vậy, họ chưa bao giờ tìm cách tiếp
xúc, ngay cả với nhân vật nổi tiếng Mohamed ElBaradi, nguyên tổng Giám
Đốc Cơ Quan Năng Lượng Nguyên Tử Quốc Tế (International Atomic Energy
Agency - IAEA), người năm 2005 đã được giải Nobel hòa bình.
Người Mỹ đã rất thận trọng không làm mếch lòng Mubarak.
Khoảng ba ngày sau khi Obama gửi đặc sứ Frank Wisner (nguyên đại sứ và
bạn của Mubarak) đến gặp Mubarak, thế giới những tưởng người Mỹ đang
hoạch định một quá trình tiển biệt lâu dài. Đó là cách trả lời của Mỹ
đối với sự biểu hiện ý chí vô tiền khoáng hậu của nhân dân Ai Cập.
Nhưng rồi làn sóng chống đối đã cuốn hút hàng triệu
người. Theo vài ước tính , khoảng gần 1/4 trong số 81 triệu dân đã hăng
say xuống đường tham dự. Các cuộc biểu tình ở quảng trường Tahrir và
nhiều thành phố khác không hề mang tính phá họai của những đám đông
cướp bóc bạo động. Ngay cả những công dân đáng kính - bác sĩ, luật sư,
giáo sư, chủ nhà hàng, đàn bà, đàn ông... dần dần đều bị cuốn hút, tham
gia biểu tình sau giờ làm việc, cùng chung sức tranh đấu ngay cả thâu
đêm ở quảng trường.
T T Obama chỉ công khai ủng hộ khi các cuộc xuống đường
đã thành công. Thực vậy, trong một tuyên bố phơi bày sự thật , Obama đã
nói ông rất vinh dự được chứng kiến "lịch sử
đang diễn tiến".
Tổng Thống còn nói thêm, kết quả chỉ thuộc về chính nhân dân Ai Cập.
Tuy vậy, một cách công bằng, các người chống đối vẫn có
thể trả lời: họ chẳng nợ nần gì ở sự giúp đỡ của Mỹ. Phải chăng
thái độ " bàng quan vô cảm" là điều khó tránh?
Nhìn kỷ lại trình tự các biến cố, chúng ta sẽ thấy một
bức tranh đầy mâu thuẩn trong chính sách của Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ vừa
qua. Ngay trong ngày đầu của làn sóng phản đối, bộ trưởng ngoại giao
Hillary Clinton đã tuyên bố: chính quyền Ai Cập rất "ổn định".
Hai ngày sau, trong một bản tin, Phó T T Joe Biden đã từ chối, không
xem Mubarak như một nhà độc tài. Ngày tiếp theo, T T Obama cho biết
ông đã nói chuyện với Mubarak, và đã
"thúc đẩy
Mubarack thỏa mãn các nguyện vọng của nhân dân Ai Cập".
Nếu điều đó có vẻ mập mờ, nhiều phản ứng sau đó càng mập
mờ hơn nữa. Sau khi đã gửi Wisner đến Cairo, Obama cam kết: "một
chuyển tiếp trong trật tự phải có ý nghĩa, phải mang
tính hòa bình, và phải bắt đầu ngay bây giờ"
Một mệnh lệnh mang tính mong ước - không nói rõ ý nghĩa của những từ
"trong trật tự", "ngay bây giờ", và "có ý
nghĩa".
Ngày thứ 9, chính quyền Obama dùng từ "quan ngại"
khi đề cập sự kiện đàn áp người biểu tình của cảnh sát, nhưng không quan
ngại đủ để có hành động. Tuy nhiên, một lần nữa Obama đã gọi điện cho
Mubarack. Trong câu chuyện riêng tư, Tổng Thống gợi ý đã đến lúc
Mubarack phải ra đi. Mubarack đã không ra đi.
Biến động ngày thứ 12 đã đem lại một thay đổi đáng ngạc
nhiên trong lập trường bàng quan của tòa Bạch Ốc. Từ Cairo trở về,
Wisner quả quyết Mubarack cần được tiếp tục nhiệm vụ thêm vài tháng, bởi
lẽ "vai trò tiếp tục lãnh đạo thiết yếu của
Mubarack" .
Hillary Clinton cũng xác quyết mọi chuyển tiếp qua dân
chủ đều "cần thời gian; còn có vài việc phải
làm để chuẩn bị".
Tuy vậy, Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao cũng đã bỏ công chứng tỏ đã
không dính dáng gì đến ý kiến rõ ràng bảo thủ trong
huấn thị của Wisner.
Cho đến phút chót, Obama đã không vượt quá giới hạn các
lời tuyên bố nhẹ nhàng, với ý nghĩa thực tế rất mù mờ. Chẳng hạn, ngày
thứ 13, T T Obama đã phải chấp nhận "Ai Cập sẽ
không trở lại tình trạng tiền-khủng-hoảng" .
Trong lúc chờ đợi, chính quyền Obama đã công khai tuyên bố ủng hộ các
"cải cách thực sự, cụ thể"
nhưng không nói rõ những cải cách nào.
ỔN ĐỊNH TRƯỚC, DÂN CHỦ SAU
Nếu bảo các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã tự bảo vệ một cách
trơ trẽn, đó quả là một nhận định quá bi hài. Nếu nói họ đã tỏ ra
bối rối trước những trở ngại không thể tiên liệu, có lẽ chúng ta đã
quá rộng lượng. Họ không thể tránh tuyên bố ủng hộ dân chủ bởi lẽ dân
chủ là chiêu bài, là lý tưởng, là giáo điều của chính Hoa Kỳ. Nếu hành
động của họ đôi khi phản ảnh hay để lộ bộ mặt đạo đức giả, lời nói,
tuyên bố, hay tuyên ngôn của họ lại luôn đơn điệu đề cao "lòng chân
thật" của chính mình. Như vậy, tại sao chính sách của Hoa Kỳ trong
tháng 2-2011 lại thiếu nối kết một cách quá lộ liễu?
Hoa Kỳ đã liên tục hậu thuẫn một loạt các người hùng ở Ai
Cập ngay từ 1952, khi CIA tin chắc Gamal Abdel Nasser là lãnh tụ chống
Cộng kiên trì. Hoa Kỳ đã dành cho Ai Cập một khoản viện trợ, phần lớn là
quân sự, 1,3 tỉ USD mỗi năm. Trong tất cả các quốc gia khách hàng của
Mỹ, chỉ Do Thái là nước được Mỹ viện trợ nhiều hơn, 3 tỉ mỗi năm. Từ
lâu, Hoa Thịnh Đốn luôn vững tin Ai Cập và Do Thái là hai quốc gia đại
diện cho Hoa Kỳ giám sát vùng Trung Đông. Vì vậy, một cuộc nổi dậy bất
bạo động ở West Bank (Bờ Tây), nếu xẩy ra, cũng sẽ gây bối rối cho Hoa
Thịnh Đốn không kém các biến động trong tháng 2-2011 ở Ai Cập. Sự lúng
túng, khó xử là một phần của thực trạng hiển nhiên.
Một phỏng đoán công bằng: Obama đã không kém bối rối
trong riêng tư cũng như trước công chúng. Khi nói chuyện với Mubarack,
lời lẽ của tổng thống cũng úp mở, mang tính đoan nghiêm:
"Ngài phải rời bỏ chức vụ, nhưng chúng tôi sẽ không bao
giờ bỏ rơi ngài" ...hay
những lời tương tự. Sự khác biệt giữa thái độ mất tự tin của chính
Mubarak trong lần đầu nói chuyện trực tiếp truyền hình với nhân dân và
bình tỉnh tự tin trong lần thứ hai, có thể được giải thích dễ dàng bởi
tín hiệu từ phía Mỹ ông ta hiểu như một bằng chứng đang được hậu thuẫn.
Nhiều người còn nhớ, "tôi sẽ không bỏ rơi bạn" là
thông điệp Barack Obama đã gửi cho nguyên Bộ Trưởng Ngân Khố Hank
Paulson (khi Obama còn là một ứng cử viên); cho các ngân hàng và các xí
nghiệp tài chánh (tháng 2-2009); cho Dick Cheney và các luật sư trong vụ
tra tấn tù nhân(trong bài nói chuyện ở Cơ Quan Văn Khố Quốc Gia, tháng
5-2009); cho Tướng David Petraeus (trong những tháng trước khi tái duyệt
cuộc chiến Afghanistan 2009); cho Thủ Tướng Benjamin Netanyahu qua bộ
trưởng quốc phòng Do Thái Ehud Barak (mùa hè 2009); và cho Phòng Thương
Mãi Hoa Kỳ (tháng 2-2011).
Nhu cầu trấn an hình như là đặc điểm không thể tách rời
con người Obama. Ông thường củng cố quan hệ với đối tượng trước khi đi
đến các quyết định quan trọng, bất kể đối tượng đã mất hết uy tín, bất
kể trước đó ông đã khinh thường đối tượng như thế nào. Phản ứng của
Obama luôn là nhượng bộ trước người có thế lực, mặc dù ông đang ở vị thế
có lợi. Obama không phải kiểu người thích đối kháng.
Nói một cách khác, Obama rõ rệt không thích hay luôn ghét
khủng hoảng. Obama ghét ngay chính ý tưởng bất ổn, đến độ ông không thể
sử dụng một khủng hoảng để làm lợi cho chính mình. Theo nhận xét của
giới quan sát, cho đến nay, rất hiếm khi Obama là người đầu, người thứ
hai hay thứ ba trong pḥng công nhận đang có khủng hoảng.Tính do dự đến
mức vô cảm và giọng điệu "siêu quản lý" trong vụ tràn dầu BP là
một minh họa sinh động của nét đặc trưng vừa nói. Vụ khủng hoảng Ai Cập
là một minh chứng khác.
Vần đề là những lời tuyên bố và hành động cuả T T Obama
và các cố vấn đã tác động như thế nào đến người Ai Cập đã xả thân tham
gia biểu tình đòi tự do? Câu chuyện, đăng trên báo The New York Times
ngày 6-2-2011, của Kareem Fahim, Mark Landler, và Anthony Shadid, đã kết
luận "các động thái của họ tương đương với một
sự cự tuyệt đối với phe biểu tình phản đối; và khi nhấn mạnh nhu cầu một
thời gian chuyển tiếp tuần tự, chỉ vài ngày sau khi nhấn mạnh sự thay
đổi phải bắt đầu ngay tức khắc, chính quyền Obama đã được xem như đang
dần dần tách xa các người biểu tình và nghiêng về hướng hậu thuẫn mạnh
mẽ nhóm lãnh đạo do chính Mubarack chọn lựa".
Để nắm bắt lối đi zig-zag trong chính sách của Hoa
Kỳ trong suốt 18 ngày trước khi Mubarack bị lật đổ là một việc cực kỳ
khó khăn. Công bằng mà nói, với chính quyền Obama - từ ý nghĩ biểu
tình chống đối chẳng có ý nghĩa gì, đến biện hộ cho một chuyển tiếp
trong trật tự, đến tiến độ chậm chạp cần thiết của giai đoạn chuyển
tiếp, đến trách móc Mubarack rõ ràng dậm chân tại chỗ, đến vui mừng
trước sự chiến thắng của tự do - tất cả đã diễn ra chỉ trong vòng
hai tuần lễ.
Vì sao người Mỹ đã không có một tiếng nói thống nhất?
Chúng ta thường dùng từ "dân chủ và uy tín của từ nầy" một cách
vô cảm đến độ phải ngạc nhiên khi đối mặt với dân chủ, nhất là dân
chủ trực tiếp. Nhưng ở đây, sự bối rối chẳng những công cộng và ngoại
giao, mà còn mang tính cá nhân và tình cảm. Một tên độc tài, trong một
quan hệ lâu dài, có thể trở thành một cộng tác viên thân thiện và thoải
mái. Thực vậy, trong tuần lễ thứ hai, tháng 2-2011, tin tức tiết lộ công
ty luật của Wisner, công ty Patton Boggs, trước đó đã giữ nhiệm vụ
trọng tài và tố tụng, đại diện cho chính quyền Mubarack; và bộ
trưởng ngoại giao Hillary Clinton trong tháng 3-2009 đã từng tiết lộ:
"Tôi thực sự xem Tổng Thống và bà Mubarack như
những người bạn của gia đình ."
CHÍNH TRỊ MỸ VÀ CHU KỲ BẦU CỬ
Nếu các quan chức Hoa Kỳ, khi nhìn Ai Cập, thường cảm
thấy "gần gũi, thân thiết", bất cứ ai quen thuộc với lịch sử
chính sách Trung Đông của Mỹ đều có thể dễ dàng hiểu được lý do. Ở đây,
chúng ta chỉ muốn nhắc đến Do Thái và sự hiện diện thường xuyên của Do
Thái trong chính trị Hoa Kỳ. Chỉ trong vòng 3 tháng qua, Sarah Palin đã
công bố kế hoạch thăm viếng Do Thái, và Mike Huckabee, người Do
Thái theo đạo cơ đốc, đã nói: Hoa Kỳ nên
"khuyến khích người Do Thái xây dựng [các khu định cư], càng nhiều và
càng nhanh nếu có thể" ,
ở Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Barack Obama cũng không dửng dưng trước các áp lực vừa
nói. Trong những năm trước đây, Obama đã từng tỏ ra thực sự có cảm tình
đối với chính nghĩa độc lập của Palestine. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi
vào mấy tháng cuối vận động tranh cử trong năm 2008. Trong bài nói
chuyện trước Ủy Ban Do Thái Vụ Hoa Kỳ (AIPAC - American Israel Public
Affairs Committee), tháng 6-2008, Obama đã đưa ra lời tuyên bố mang tính
tôn giáo đáng ngạc nhiên: "Cam kết của Hoa Kỳ
đối với an ninh Do Thái là thiêng liêng."
Trên đường vào tòa Bạch Ốc, Obama đã thanh lọc ban cố vấn, loại những
nhân vật như Robert Malley và Zbigniew Brzezinski, những tên tuổi
nhóm vận động hành lang Do Thái xếp vào hạng không thích ứng.
Tháng 6-2009, Obama đã đọc bài diễn văn nổi tiếng ở
Cairo, với thông điệp hy vọng và cảm tình đối với đà tiến bộ của cộng
đồng Hồi giáo tự do. Tại Đại Học Cairo, Obama cùng lúc kêu gọi ngưng
khủng bố Hồi giáo và cả chính sách chiếm đóng của Do Thái. Ít lâu sau,
Hillary Clinton cũng đã lặp lại lời yêu cầu Do Thái phải thực sự chấm
dứt chương trình xây dựng các khu định cư , không có ngoại lệ ngay cả
đối với các "tiền đồn" (outposts) hay "tăng trưởng tự nhiên"
(natural growth).
Benjamin Netanyahu vẫn tảng lờ và bất chấp các đòi hỏi hệ
trọng vừa nói. Không những vậy, ông còn nhận thấy lối hành xử của mình
đã không gặp phải bất cứ chế tài nào từ phía Mỹ. Cuối mùa hè cùng năm,
Obama đã dễ dàng để bị thuyết phục: cứ để mặc Do Thái làm những gì họ
muốn, với thái độ không chấp thuận trong yên lặng. Đến gần
ngày bầu cử giữa kỳ, Obama còn thấy cần cho phép chánh văn phòng Rahm
Emanuel và gia đình viếng thăm và chụp hình ở Golan Heights.
Trong bối cảnh đó, chính quyền Obama đã tiến dần đến chỗ
bối rối ngượng nghịu qua nhiều giai đoạn cần được nhớ rõ. Tháng 3-2010,
Phó Tổng Thống Joe Biden viếng thăm Do Thái. Do Thái đã đón chào với lời
loan báo: Bộ Nội Vụ Do Thái đã chấp thuận xây thêm 1,600 căn hộ ở
Đông Jerusalem - một cử chỉ nhục mạ có tính toán đối với Tổng Thống
Obama. Động thái nầy đã khiến Biden giận dữ, công khai lên tiếng quở
trách Netanyahu, và Hillary Clinton một lần nữa đã lặp lại chính sách
của Mỹ: chống xây cất định cư. Lời yêu cầu thăm viếng Bạch Cung
của Netanyahu sau đó cũng đã bị khước từ.
Tuy nhiên, với Netanyahu, một cử chỉ làm mất mặt như thế
lâm thời vẫn có thể có lợi cho chính ông. Vào cuối tháng 5-2010,vấn đề
bầu cử giữa kỳ đã là âu lo hàng đầu của Hoa Thịnh Đốn. Với chính sách
Do Thái không thay đổi, chính quyền Obama lại bắt đầu tìm cách hâm nóng
quan hệ với Do Thái. Tính cách nhạy cảm của đề tài đối với bầu cử đã
được thể hiện qua việc tiết lộ: trong tháng 1-2011, tòa Bạch Ốc đã nối
lại quan hệ với Bộ Trưởng Quốc Phòng Ehud Barak - thay vì với Thủ Tướng
Netanyahu, người trước đây Hoa Kỳ đã rất hài lòng với khả năng và triển
vọng, nhưng hiện đang căm giận trước thái độ bất động trong tiến trình
hòa bình.
Như vậy, mẩu mực luôn là: một bước tiến nhằm gây áp lực
đối với Do Thái, được tiếp nối bởi một bước lùi vào vòng tay của nhóm
vận động hành lang Do Thái. Bước thứ hai trùng hợp với chu kỳ bầu cử sắp
tới.
Hiện nay, cuộc bầu cử 2012 và nhu cầu tài trợ đã là ưu tư
hàng đầu của Obama. Không may cho Tổng Thống, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, và các
xứ có thiện cảm với số phận của Palestine đã chọn lúc nầy để đề xuất
nghị quyết LHQ, lên án chương trình xây cất các khu định cư Do Thái trên
vùng đất chiếm đóng và nhấn mạnh tính"bất hợp pháp" (illegal) của
chương trình.
Lại một cuộc điện đàm tai họa khác của Obama, lần nầy
với Mahmoud Abbas, Tổng Thống của Palestine (Palestinian Authority -
PA). Có thể nào PA hoản lại việc bỏ phiếu? Hay, nếu phải có một tuyên bố
của LHQ, có thể nào tuyên bố nầy không buộc Hoa Kỳ vào một nghị quyết
mang tính ràng buộc hợp pháp? Nhưng Abbas đã mất tin tưởng ở Obama và
danh tiếng của chính Abbas gần đây cũng đã bị hoen ố bởi những tiết lộ
của WikiLeaks về việc PA đã đầu hàng trước những đòi hỏi của Mỹ trước
đó.
Trong mọi trường hợp, việc định cư đã vi phạm luật quốc
tế, nhất là điều 49 của Quy ước Geneva IV (Fourth Geneva Convention)
: "Nhà cầm quyền chiếm đóng sẽ không được phép
trục xuất hay di dời một phần dân mình vào lãnh thổ họ đang chiếm đóng".
Vì vậy, Abbas đã bác bỏ lời thiết tha yêu cầu của Obama
về một nghị quyết mềm dẻo hơn và tổng thống Hoa Kỳ đã phải ngượng nghịu
sử dụng quyền phủ quyết lần đầu của mình ở LHQ, chà đạp lên ngay những
hy vọng do chính mình đã vun quén trong bài diễn văn hùng hồn ở Cairo.
Tuy nhiên, màn chuyển tiếp vẫn chưa chấm dứt. Lý do:
Obama đã không thể im lặng trước một thực tế - Hoa Kỳ là trở ngại duy
nhất (bên cạnh Do Thái) đối với một nghị quyết được nhất trí chấp thuận
- mà không nói rõ vạn bất đắc dĩ ông đã phải làm như vậy. Vì vậy, Susan
Rice, đại sứ Mỹ bên cạnh LHQ, trong một bài nói chuyện, đã phải đưa ra
lời giải thích - công khai thú nhận hầu hết các chi tiết của quyết nghị:
"tiếp tục chương trình định cư vi phạm các cam
kết quốc tế của Do Thái, phá hủy lòng tin giữa các đối tác, và đe dọa
viễn tượng hòa bình".
Nếu có bất cứ một "Giải Thích
Biểu Quyết"
như thế, tiền lệ tương tự trong quá khứ thực sự rất hãn hữu. Khác biệt
duy nhất giữa lập trường của Obama và nghị quyết của LHQ chính là nghị
quyết đã hậu thuẫn lời nói bằng hành động thực thi. Sự bối rối ngượng
ngùng đã phải sử dụng quyền phủ quyết trước Hội Đồng Bảo An LHQ là ở
chỗ: Obama với một mắt để nhìn công lý, dành
mắt kia cho nhu cầu vận động bầu cử [tổng thống]; và thế giới đang ở vị
trí thấy được Obama đang chăm chú nhìn về phía nào.
NGOẠI GIAO VÀ CHỐNG KHỦNG BỐ
Raymond Davis, nhân viên tình báo Mỹ (CIA) ở Pakistan,
chính thức được mô tả như một cố vấn kỷ thuật, ngày 25-01-2011, đã dừng
xe ở Lahore, bắn chết hai công dân Pakistan. Davis đã cẩn thận chụp ảnh
tử thi và gọi một xe jeep tiếp ứng. Trong vội vã, xe tiếp ứng cán chết
một công dân Pakistan thứ ba. Chưa kịp trở về Lãnh Sự Quán Mỹ, Davis đã
bị cảnh sát địa phương bắt giữ.
Ngày 20-2-2011, phóng viên báo The Guardian, Declan
Walsh, xác quyết: Davis là một nhân viên tình báo. Theo Walsh,
chính quyền Pakistan biết rõ căn cước của Davis, vì vậy, đã từ chối
không áp dụng quyền đặc miễn ngoại giao cho Davis mặc dù chính quyền
Obama đã kiên trì đòi hỏi.
Hôm sau, báo The New York Times tiết lộ: tòa báo từ lâu
đã biết Davis là nhân viên tình báo, nhưng do yêu cầu của Tòa Bạch Ốc và
Bộ Ngoại Giao, đã tự chế không tường trình chính xác về vụ ám sát và
những sự kiện tiếp theo.Tách nước ngượng ngùng của Obama trong tháng
2-2011 đã gần tràn đầy, nhưng ít ra giờ đây đã được chia sớt phần nào
bởi một tòa báo. Tại sao báo Times lại dìm sự thật về vụ Raymond Davis?
Câu trả lời thật giản dị: vì những lý do đế quốc. Xét cho cùng, sự thật
đã được mọi người Pakistan biết rõ và cũng đã được báo chí Pakistan đăng
tải.
Khi theo lời yêu cầu của Tòa Bạch Ốc không phổ biến nội
vụ trên báo chí Mỹ, tờ Times, cùng với Washington Post và Associated
Press, đã che chở không phải Davis, mà bảo vệ chính định nghĩa "tài
xử trí" (tact) của chính quyền Hoa Kỳ, đồng thời đã khuyến khích
động thái che dấu hành động của chính quyền ngay cả với công dân Mỹ.
Nghi thức của báo chí theo quy luật đế quốc - như người Anh đã học được
trong cuộc chiến Boer War và người Mỹ trong các cuộc chiến Iraq,
Afghanistan, và Pakistan - rất đơn giản và có thể lặp đi lặp lại bất
tận: quyền lực trước chân lý ngoại trừ trường hợp chân lý đã quá lộ
liễu.
Nhờ những vận động hậu trường của chính quyền Obama,
Davis đã được phóng thích ngày 16-3-2011. Theo luật sư của nguyên đơn,
Davis đã gặp gia đình các nạn nhân trong hơn 6 tiếng đồng hồ tại nhà
tù. Bộ Trưởng Tư Pháp bang Punjab, Rana Sanaullah, cũng xác nhận gia
đình các nạn nhân đã nhận đủ số tiền bồi thường nợ máu (blood money),
khoảng 2,3 triệu USD, và Raymond Davis, 36 tuổi, cũng đã rời khỏi nhà
tù. Cử chỉ nhượng bộ nầy của chính quyền Pakistan hiện đang gặp phải
phản ứng khá mãnh liệt của dân Pakistan.
Các nhà báo ngày nay đang học được điều các sử gia đã
biết từ lâu - một nhân viên tình báo như Davis là một công cụ của một
chính sách sai lầm. Pakistan từ lâu đã luôn có đủ lý do để âu lo về Ấn
Độ. Sau khi Liên Bang Xô Viết rút khỏi Afghanistan năm 1989, cấp lãnh
đạo Pakistan đã cảm nhận một nhu cầu chiến lược: Afghanistan phải là
một lân bang khá ổn định với một chính quyền dễ uốn nắn. Nhưng ngay
từ cuối năm 2001, khi chính quyền Bush, để tránh các phí tổn đầu tư vào
lực lượng bộ binh trước cuộc tiến chiếm Afghanistan, đã quyết định liên
minh với các lãnh chúa trong Northern Alliance (Liên Minh Phương
Bắc), chiến lược đó đã bị phá hỏng. Từ đó, cấp lãnh đạo Pakistan đã
xem sự hiện diện của Hoa Kỳ, trong cốt lõi, đã
gây bất ổn định, do đó, đã chống đối bằng đủ mọi cách, dù trên danh
nghĩa vẫn là đồng minh.
Trong chính trị quốc tế, người ta luôn gặp kiểu khôn
ngoan thực tiễn tương tự. Trường hợp trao đổi những thông điệp ngoại
giao mật do WikiLeaks tiết lộ là một minh chứng. Thực vậy, trong bức
điện từ Islamabad, đề ngày 23-9-2009, chẳng hạn, Đại Sứ Mỹ ở Pakistan,
Anne Patterson, đã gửi về Hoa Thịnh Đốn những khuyến cáo sau:
"Để trả lời các câu hỏi của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia,
Tòa Đại Sứ Islamabad tin không thể chống lại al-Qaeda ở Pakistan nếu
không có một chiến lược 1) đối phó với đe dọa của các lực lượng Taliban
liên kết giữa Afghanistan và Pakistan, 2) đem lại một chính quyền dân sự
ổn định ở Afghanistan, và 3) tái thẩm định vai trò rộng lớn hơn của Ấn
Độ trong vùng. Như các câu hỏi đã giả thiết, chấm dứt sự ủng hộ giới
lãnh đạo Pakistan dành cho các nhóm khủng bố và cực đoan, một số ở
Afghanistan, một số ở Pakistan, là yếu tố then chốt để thành công. Không
có cơ may Pakistan sẽ xem mức độ viện trợ gia tăng trong bất cứ địa hạt
nào như một sự bù đắp đầy đủ cho việc từ bỏ ủng hộ những nhóm vừa nói,
những nhóm chính Pakistan luôn xem như một bộ phận quan trọng trong
guồng máy an ninh quốc gia chống lại Ấn Độ. Phương cách duy nhất để
thành đạt chấm dứt sự ủng hộ đã nói là phải thay đổi nhận thức của chính
quyền Pakistan về các đòi hỏi của an ninh quốc gia."
Trong số những lời cảnh báo đáng nhớ nhất, Đại Sứ
Patterson đã nhiều lần nhắc đến Ấn Độ và ám chỉ cuộc xung đột ở Kashmir.
Đây là những sự thật ít khi được ghi nhận trong những mô tả chính thức
về những mục tiêu Hoa Kỳ đang theo đuổi ở Pakistan.
Trong địa hạt nầy, một sự bối rối khác trong hậu trường
là bóng dáng của vụ Raymond Davis. Các công điện trao đổi cho thấy chính
quyền Obama hoặc không sử dụng hoặc không chia sẻ với dân chúng Mỹ, sự
hiểu biết cơ bản nhất về tình trạng phức tạp của cam kết thừa hưởng từ
thời tổng thống tiền nhiệm George W. Bush và hiện đang được khai triển
rộng rãi hơn. Những công điện nầy cho thấy một lối biện bạch, không phải
chỉ một sự đơn giản hóa mà là một sự cố ý xuyên tạc, được lặp đi lặp lại
nhiều lần bởi Obama: "kẻ thù" ở Pakistan là al-Qaeda. Có lẽ công
bằng hơn, người ta phải nói kẻ thù của Hoa Kỳ ở Pakistan là chính
Pakistan, và quan hệ của Pakistan với Ấn Độ, và quan hệ của Mỹ với cả
hai [Ấn Độ và Pakistan].
BỐI RỐI NGƯỢNG NGHỊU: MỘT CẢM GIÁC THIÊNG LIÊNG
Nguyên do chính của những sỉ nhục và bối rối đang đe dọa
Hoa Thịnh Đốn hiện nay đã bắt nguồn từ hình ảnh hai mặt của chính Hoa
Kỳ. Như siêu cường duy nhất, người Mỹ muốn hiện diện và làm chủ ở mọi
nơi. Nhưng như nguồn hy vọng dân chủ tốt đẹp nhất, Hoa Kỳ cần phải lánh
mặt ở mọi nơi và không hành động như chủ nhân ông ở bất cứ nơi nào. Đe
dọa lớn lao nhất, như vậy, là các tài liệu về chính sách ngoại giao và
các cuộc chiến của Mỹ đang được WikiLeaks không ngừng tiết lộ. Trong thực
tế, chính phản ứng của chính quyền Mỹ đối với WikiLeaks đã là nguyên
nhân khiến hiểm họa trở nên lớn lao hơn - không phải đối với Hoa Kỳ như
một siêu cường, mà cả đối với hiến pháp Hoa Kỳ đang chi phối mọi chính
sách và hành động của chính quyền Mỹ trên thế giới.
Sự bối rối ngượng nghịu sâu xa của các giới chức Mỹ có
thể dễ dàng khoác hình thức căm giận mang tính ái quốc. Chẳng hạn, Newt
Ginrich đã nói: Julian Assange, sáng lập viên WikiLeaks, phải được đối
xử như một "chiến binh thù nghịch" (enemy combatant); Sarah Palin
đã đòi hỏi Assange phải được truy lùng như người Mỹ đang truy lùng
lãnh đạo al-Qaeda và Taliban; Peter King đã khuyến cáo WikiLeaks
phải được liệt kê như một tổ chức khủng bố. Những tuyên bố đó rất
dễ tiên đoán, chỉ cần xem do ai phát biểu.
Không ai chờ đợi một ngoại trưởng Hoa Kỳ có thể bị cám dỗ
bởi những cảm nghĩ tương tự. Trong thực tế, Hillary Clinton cũng đã hành
động không mấy khác. Bối rối trước các sơ hở trong hệ thống an ninh và
những hình ảnh đặc biệt ngay thật của bộ ngoại giao, Ngoại Trưởng
Clinton đã lên tiếng phát biểu: WikiLeaks đã phát động
"một cuộc tấn công trên cộng đồng thế giới".
Chúng ta có thể tự hỏi: cộng đồng các dân tộc
trên thế giới, hay cộng đồng các chính quyền bí mật và các đội quân bí
mật? Nếu là kẻ thù của cộng đồng loại hai, Assange phải được đối xử như
một nhà báo chân thật. Nếu là kẻ thù của cộng đồng loại một, Assange đã
có thể trở thành một tên khủng bố.
Bộ Trưởng Tư Pháp Eric Holder cũng đã bối rối khi đối
diện với cách mô tả tàn nhẫn về Assange, bởi lẽ mọi người đang chờ đợi
Bộ Tư Pháp phải truy tố Assange, mặc dù Assange đã không vi phạm một
điều luật nào rõ ràng. Quyết định khám phá một điều luật có thể dính
dáng đến một hình phạt thích hợp, Holder đã tuyên bố một cách mập mờ, "chúng
ta có một căn bản thực sự, có một thuộc tính khẳng định để tin ở đây đã
có hành vi phạm pháp."
Phải chăng Phó tổng Thống Joe Biden cũng đã bối rối khi
nói đến Assange như một "tên khủng bố kỹ thuật cao" (a high-tech
terrorist)? Chắc Biden cũng đã phải rất bối rối. Nếu có một vũ khí
khủng bố kỹ thuật cao đáng sợ trên thế giới hiện nay, đó chính là các
phi cơ không người lái. Đây là những drones thường được sử
dụng trong cuộc chiến bí mật của CIA dọc biên giới các bộ lạc Pakistan,
để phóng hỏa tiễn vào những ngôi nhà nghi ngờ có kẻ thù của Mỹ, và cả
những ai vô tình và không may đang ở gần. Và nếu có một lãnh tụ thế giới
được biết đã chủ trương loại chiến tranh với phi cơ không người lái
drones, đó chính là Phó Tổng Thống Joe Biden.
Chúng ta đang ở thời điểm trung tuần tháng 3-2011, và sự
bối rối vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm. Ngày 3 tháng 3, Tổng Thống Obama
tuyên bố lãnh tụ độc tài Libya Muammar Gaddafi phải ra đi, hay
theo mỹ từ ưa thích hiện nay, "cần phải bước xuống"- và phải bước
xuống "ngay bây giờ."
Điều nầy có thể có nghĩa gì? Bằng cách nào Obama đề nghị thực thi điều
đó?
Ngay đối với một tổng thống, trong địa hạt chiến tranh và
hòa bình, có thể tưởng lời nói của mình có trọng lượng nhiều hơn hành
động của người khác, cũng vẫn có vài từ rất giống hành động các
ngài cũng nên thận trọng và không nên sử dụng một cách quá khẳng định.
Tuy nhiên, chúng ta không cần phải lo xa. Các viên chức Bộ Ngoại Giao và
Tòa Bạch Ốc đã tìm ra cách diễn tả tế nhị và ít sống sượng hơn từ
"thay đổi chế độ" (regime change của chính quyền Bush-Cheney). Ngày
nay, chính quyền Obama chỉ dùng từ "sửa đổi chế độ" (regime
alteration).
Trong thực tế, sự khác biệt giữa sống và chết rất có thể
tùy thuộc ở những từ loại nầy. Hoa Kỳ thường tự xem như quốc gia chủ
nhân về dân chủ trong một thế giới muốn được bảo trợ. Tuy nhiên, còn có
nhiều cách khác để nhìn Hoa Kỳ cũng như nhiều cách khác để nhìn bảo trợ.
Samuel Johnson đã hoàn tất Tự Điển Anh Ngữ của ông năm 1755 chẳng cần
đến các nhà bảo trợ trưởng giả. Khi Lord Chesterfield đã đến trễ và đề
nghị giúp, Johnson đã trả lời trong một bức thư nổi tiếng:
"Thưa ngài, có phải chủ nhân không phải là người đứng
nhìn không chút quan tâm [vô cảm] một người đang tranh đấu để sống còn
trong dòng nước, và khi nạn nhân đã lên đến bờ, gây rắc rối cho anh ta
với đề nghị giúp đỡ?."
Trong ý nghĩa đó, Barack Obama, Frank Wisner, và Hillary
Clinton là những chủ nhân trong các cuộc tranh đấu đòi tự do của các dân
tộc Bắc Phi và Trung Đông. Họ đã đến trễ, đến rất trễ, và gây bối rối
cho các dân tộc khác với đề nghị trợ giúp của họ. Vì vậy, họ thường vấp
váp, và đó chỉ là điều tự nhiên. Họ đang mộng du trong nhà của kẻ khác.
Nguyễn Trường
Irvine,
California, U.S.A.
20-3-2011
|